Hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình: 30 năm đồng hành cùng sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Trong những năm qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình đã bám sát và phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và thực thi có hiệu quả c...
aa

Trong những năm qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình đã bám sát và phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam: Tăng cường huy động vốn và mở rộng cho vay mọi thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất, kinh doanh; cung ứng đầy đủ, kịp thời tiền mặt và các nhu cầu thanh toán cho khách hàng và nền kinh tế; nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; đảm bảo dân chủ, kỷ cương và hiệu quả trong công tác quản trị, điều hành.

Ngay từ những ngày đầu tái lập tỉnh (tháng 4/1992), hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình đã tập trung vào công cuộc đổi mới sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Khi tái lập tỉnh, hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình mới chỉ có Chi nhánh NHNN tỉnh, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Ngay sau đó, để thực hiện đa dạng hóa các loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) phục vụ nhu cầu của nền kinh tế, năm 1993, Công ty Vàng bạc Đá quý tỉnh và Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Nông thôn Ninh Bình được thành lập - đây là NHTMCP nông thôn đầu tiên của các tỉnh phía Bắc và là ngân hàng ngoài quốc doanh duy nhất trên địa bàn tỉnh. Đến cuối năm 1994, chi nhánh Ngân hàng Công thương Ninh Bình cũng được thành lập nhằm đầu tư tín dụng cho lĩnh vực công, thương nghiệp.

Với mong muốn tách bạch giữa tín dụng chính sách và tín dụng thương mại, đầu năm 2003, chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh Ninh Bình được thành lập. Năm 2006, thành lập chi nhánh NHTMCP Công thương khu vực Tam Điệp trên cơ sở nâng cấp Phòng Giao dịch của chi nhánh Ngân hàng Công thương Ninh Bình, và chi nhánh Ngân hàng Phát triển trên cơ sở chuyển đổi từ Quỹ Hỗ trợ phát triển tỉnh. Chi nhánh NHTMCP Ngoại thương được thành lập năm 2012 và năm 2014 thành lập chi nhánh NHTMCP Đầu tư và Phát triển Tam Điệp trên cơ sở chia tách từ chi nhánh NHTMCP Đầu tư và Phát triển Ninh Bình.

Từ năm 2009 đến nay, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã thành lập thêm 10 chi nhánh NHTMCP gồm NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội, NHTMCP Hàng Hải, NHTMCP Bưu Điện Liên Việt, NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội, NHTMCP Bắc Á, NHTMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng, NHTMCP Phương Đông, NHTMCP Sài Gòn Thương tín. Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) cũng được thành lập từ năm 1995, đến nay đã có chi nhánh Ngân hàng Hợp tác xã tỉnh và 39 QTDND cơ sở, ở hầu khắp các huyện, thành phố trong tỉnh Ninh Bình.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 8 chi nhánh cấp 1 ngân hàng thương mại Nhà nước gồm: 2 chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, 2 chi nhánh NHTMCP Đầu tư và Phát triển, 2 chi nhánh NHTMCP Công thương, chi nhánh NHTMCP Ngoại thương và NHTMCP Dầu khí Toàn cầu.

Việc đa dạng hóa các TCTD tạo điều kiện để các TCTD nâng cao khả năng tài chính, năng lực quản trị điều hành, đổi mới phong cách giao dịch theo hướng phục vụ, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các TCTD để phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp và người dân.

Bằng mọi biện pháp tích cực và hữu hiệu, các TCTD trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã khơi tăng nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư cần thiết, hợp lý của sản xuất, kinh doanh, đáp ứng đầy đủ, kịp thời tiền mặt và phương tiện thanh toán cho tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội của tỉnh: vừa mở rộng mạng lưới hoạt động, vừa đa dạng hóa các hình thức huy động vốn với lãi suất hợp lý, huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Nhờ đó, nguồn vốn ngân hàng thường xuyên có sự tăng trưởng nhanh và bền vững. Tổng nguồn vốn huy động tại địa bàn của hệ thống TCTD khi chia tách tỉnh năm 1992 là 31 tỷ đồng, thì đến hết năm 2020 đã đạt trên 50.072 tỷ đồng (gấp 1.615 lần so với cuối năm 1992).

Bên cạnh đó, các TCTD trên địa bàn đã mở rộng đầu tư vốn cho các công trình trọng điểm, các ngành mũi nhọn có hiệu quả kinh tế của tỉnh; đồng thời, tập trung đầu tư vốn để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cho vay các hộ sản xuất, hộ nông dân, các đối tượng chính sách, từ đó, góp phần tích cực vào việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khoảng 8,03%/năm giai đoạn 2015 - 2020, tăng nhanh sản phẩm cho xã hội, tạo công ăn việc làm, từng bước nâng cao đời sống và xóa đói, giảm nghèo cho Nhân dân.

Khi tái lập tỉnh, tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình mới chỉ đạt 100 tỷ đồng, đã tăng nhanh lên mức 822 tỷ đồng vào cuối năm 2000, và đến hết năm 2020 đạt được 82.590 tỷ đồng (gấp 826 lần so với cuối năm 1992). Những tồn tại trong công tác tín dụng, nhất là nợ quá hạn của các tổ chức kinh tế từng bước được giải quyết, chất lượng tín dụng ngày một nâng cao. Cơ cấu tín dụng được điều chỉnh dần giữa các thành phần kinh tế cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế địa phương. Công tác cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu được hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình đặc biệt chú trọng, đến hết năm 2020, tỷ lệ nợ xấu chỉ chiếm 0,55% tổng dư nợ.

Các dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng và không ngừng nâng cao chất lượng, từng bước hiện đại hóa và ứng dụng công nghệ tiên tiến. Đến nay, các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn đã thực hiện thanh toán điện tử liên ngân hàng và hầu hết đã nối mạng trực tuyến với các TCTD cấp trên, tính đến cuối năm 2020 đã có 129 ATM, 440 điểm chấp nhận thẻ và 518 POS,...

Các TCTD cũng đã đẩy mạnh ứng dụng, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; công nghệ thanh toán đã có bước phát triển mang tính đột phá, thanh toán không dùng tiền mặt được đẩy mạnh, các hoạt động chuyển đổi số, sản phẩm dịch vụ ngân hàng số phát triển mạnh mẽ. Công tác bảo mật, an toàn hoạt động thanh toán được đảm bảo, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng cũng đạt nhiều kết quả tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân trong tiếp cận vốn tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Tăng cường công tác thông tin truyền thông, công tác phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan trên địa bàn, kịp thời cung cấp thông tin chính xác về các cơ chế, chính sách và kết quả hoạt động của hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình, tạo sự đồng thuận của doanh nghiệp và người dân. Chủ động nắm bắt thông tin, vấn đề dư luận quan tâm và xử lý hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý kịp thời.

Hoạt động của hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình trong những năm qua luôn bám sát và phục vụ đắc lực cho việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời làm tốt vai trò chủ lực trong việc thực hiện kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với các tổ chức và cá nhân để phát triển sản xuất, kinh doanh.

Hiện nay, hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình đang tích cực triển khai thực hiện các giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. Cơ cấu nền kinh tế đa dạng đã tạo nên đặc trưng và thế mạnh cho tỉnh Ninh Bình, song cùng với đó cũng là gánh nặng cho hệ thống ngân hàng tỉnh khi vừa phải đảm bảo thực hiện đầu tư vốn hiệu quả, vừa phải tạo được hiệu ứng lan tỏa trong những chính sách phát triển chung.

Theo đó, Ninh Bình là địa phương đang tập trung phát triển mạnh về công nghiệp, du lịch và dịch vụ, song vẫn còn những đòi hỏi thiết yếu cho phát triển bền vững khu vực nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là các đối tượng chính sách. Trong khi đó, nguồn vốn huy động tại địa bàn tỉnh thường xuyên chỉ đáp ứng khoảng 60% dư nợ cho vay, nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Các TCTD phải sử dụng khoảng 40% nguồn vốn cho vay bằng nguồn huy động ngoài tỉnh và vốn điều hòa từ các TCTD cấp trên. Khả năng hấp thụ vốn của các doanh nghiệp và người dân trên địa bàn chưa cao.

Tuy có nhiều thách thức về nguồn vốn và khả năng hấp thụ vốn nhưng trong những năm qua, hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình vẫn đảm bảo cung ứng vốn kịp thời, làm lực đẩy cho các ngành kinh tế của tỉnh phát triển hiệu quả. Bằng chứng là lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 4,5 - 5,5%/năm, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác phổ biến ở mức 7 - 9%/năm đối với ngắn hạn (một số ngân hàng còn cho vay theo chương trình ưu đãi lãi suất đối với khách hàng lớn với mức lãi suất thấp nhất là 5%/năm); còn đối với cho vay trung và dài hạn lãi suất phổ biến ở mức 10%/năm (thấp nhất là 5%/năm).

Thực hiện chỉ đạo của NHNN, NHNN Chi nhánh tỉnh Ninh Bình luôn quan tâm, định hướng các TCTD trên địa bàn tích cực tìm kiếm khách hàng có tình hình tài chính tốt, đẩy mạnh tuyên truyền về các chương trình, các gói tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm thu hút khách hàng để mở rộng cho vay nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng tín dụng.

Đến nay, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã bám khá sát với cơ cấu kinh tế và định hướng phát triển của tỉnh. Dòng vốn tín dụng đã chảy vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các dự án kinh tế trọng điểm, lớn của tỉnh, góp phần đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển trở thành động lực chính để phát triển kinh tế - xã hội, nông nghiệp trở thành bệ đỡ của nền kinh tế. Đặc biệt, trong thời gian qua đã tập trung đầu tư vốn cho các công trình sản xuất công nghiệp như các nhà máy sản xuất ô tô, thép, may mặc, sản xuất linh kiện điện thoại, điện tử, sản xuất xi măng,...

Bệ đỡ của kinh tế thêm điểm tựa với dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới của các TCTD đến cuối năm 2020 đạt 30.332 tỷ đồng, chiếm 36,7% tổng dư nợ của các TCTD trên địa bàn, góp phần đưa nông nghiệp của tỉnh phát triển ổn định, duy trì tăng trưởng khoảng trên 2%/năm, 106/116 xã, 4/8 huyện, thành phố đạt chuẩn nông thôn mới, 8 xã và 100 thôn đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

Đến cuối năm 2020, dư nợ cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 13.645 tỷ đồng, chiếm 16,5% tổng dư nợ; cho vay xuất khẩu đạt 1.211 tỷ đồng, chiếm 1,5%/tổng dư nợ; cho vay phát triển du lịch đạt 1.186 tỷ đồng, chiếm 1,4% tổng dư nợ; cho vay công nghiệp hỗ trợ đạt 222 tỷ đồng,...

Các chương trình tín dụng khác của Trung ương đã được triển khai thực hiện quyết liệt như: Chương trình bình ổn thị trường; cho vay phát triển thủy sản; cho vay hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp,...

Tín dụng chính sách thông qua NHCSXH tỉnh cũng đã được giải ngân kịp thời, đúng đối tượng và kế hoạch được duyệt. Đến cuối năm 2020, có trên 90 ngàn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn, dư nợ đạt 2.613 tỷ đồng, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, đời sống Nhân dân được cải thiện, hộ nghèo toàn tỉnh giảm xuống còn 2%.

Nhiều khu du lịch, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, dự án kinh tế lớn đã được triển khai có hiệu quả từ dòng vốn ngân hàng, khơi dậy những tiềm năng, thế mạnh của địa phương, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình.

Những thành quả ngày hôm nay là nhờ sự nỗ lực, cố gắng của nhiều thế hệ lãnh đạo, công chức, viên chức và người lao động trong hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình trong suốt gần 30 năm qua. Và để tiếp nối thành công này, chặng đường trước mắt chắc chắn sẽ không ít chông gai, bởi hiện nay, mở rộng đầu tư tín dụng trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu do khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn hạn chế, chưa bền vững.

Đối diện với các thách thức này, NHNN Chi nhánh tỉnh Ninh Bình nói riêng và hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình nói chung tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các TCTD trong điều kiện chuyển đổi số, ngân hàng số và môi trường hội nhập kinh tế thế giới.

Với khát vọng phát triển, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của hệ thống ngân hàng tỉnh Ninh Bình sẽ tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục mọi khó khăn, thử thách, biến thách thức thành cơ hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành ở địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Đại hội lần thứ XIII của Đảng ngay từ những năm đầu nhiệm kỳ.

Nguyễn Sỹ Tỉnh

NHNN Chi nhánh tỉnh Ninh Bình


Tạp chí Ngân hàng số 8/2021

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Nhân kỷ niệm 70 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam, trải qua bao nhiêu thăng trầm, hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển trên mọi mặt, mọi lĩnh vực. Với hơn 15 năm làm việc trong lĩnh v...
Nhìn lại 35 năm đổi mới chính sách tiền tệ và hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Nhìn lại 35 năm đổi mới chính sách tiền tệ và hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Trải qua 70 năm xây dựng, củng cố và phát triển (1951 - 2021), hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng...
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 47/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Sửa đổi khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài