Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh đại dịch Covid-19 của Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
23/05/2022 12.098 lượt xem
Tóm tắt:
 
Đại dịch Covid-19 bùng phát cuối năm 2019, đầu năm 2020 đã gây ra những tác động tiêu cực chưa từng có đối với sức khỏe và tính mạng con người trên toàn cầu. Nhiều nước thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch nghiêm ngặt do hạn chế về nguồn vắc-xin, vì thế, khiến nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Minh chứng, GDP toàn cầu giảm từ 2,8% năm 2019 xuống -3,3% năm 2021. Trước tình trạng này, các ngân hàng trung ương (NHTW) đã có những phản ứng nhanh chóng, kịp thời bằng cách triển khai một loạt các biện pháp để giúp giảm bớt sự gián đoạn trong các hoạt động kinh tế và ổn định thị trường tài chính, chủ yếu bao gồm: Cắt giảm lãi suất chính sách, mua tài sản tài chính để cung cấp thanh khoản đáng kể nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến tổng cầu. 
 
Đối với Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào, cuối năm 2019, sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát trở thành cú sốc bên ngoài tác động tiêu cực đến nền kinh tế, vốn có xu hướng tăng trưởng chậm theo xu hướng tăng trưởng của kinh tế toàn cầu. Do đó, năm 2019, 2020 và 2021, kinh tế Lào tăng trưởng trung bình 3,2%/năm. Nhằm hạn chế tác động tiêu cực,  phục hồi hoạt động kinh doanh và  kinh tế,  Ngân hàng CHDCND Lào (Bank of the Lao PDR - BOL) đã thực hiện các biện pháp và điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) kịp thời và hiệu quả như giảm lãi suất chính sách và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chính sách hỗ trợ tín dụng hoãn trả gốc, lãi và cơ cấu lại nợ,  cung cấp các khoản vay mới cùng với việc hỗ trợ các chương trình tài trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 
 
Từ khóa: CSTT, BOL, Covid-19, GDP, lãi suất cơ bản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 
 
1. Thực trạng điều hành CSTT của BOL trong thời kỳ Covid-19 
 
Trong giai đoạn 2019 - 2021, nhìn chung, BOL điều hành CSTT tương đối hiệu quả, góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế theo  các mục tiêu mà Quốc hội nước CHDCND Lào thông qua. Cụ thể, tiền gửi ngân hàng tăng lên 64,62% GDP, tín dụng đạt 48,94% GDP, tỷ lệ nợ xấu (NPLs) 3,16%/năm và cao hơn mức cho phép 0,16%, cung tiền  (M2) tăng 16,33%/năm, mức dự trữ ngoại hối trung bình đủ 4,81 tháng nhập khẩu và tỷ giá hối đoái tương đối ổn định, lạm phát trung bình 5,07%/năm.
 
Để chống lại sự suy giảm kinh tế và đối phó với đại dịch Covid-19, BOL đã thực hiện CSTT nới lỏng bằng cách giảm lãi suất chính sách và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. BOL tiếp tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% xuống 3% đối với đồng Kip và từ 10% xuống 5% đối với đồng ngoại tệ, nhằm cải thiện thanh khoản cho các ngân hàng thương mại (NHTM). Đồng thời, BOL tiếp tục giảm lãi suất chính sách từ 4% xuống còn 3%, nhằm mục đích giảm lãi suất đối với giao dịch repo (giao dịch mua đi, bán lại) và giao dịch outright (giao dịch giao ngay) và các tài sản tài chính khác (Bảng 1). Đối với chính sách tỷ giá hối đoái, BOL tiếp tục sử dụng tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý như một công cụ để duy trì sự ổn định của đồng tiền quốc gia bằng cách thiết lập tỷ giá tham chiếu hàng ngày (USD/Kip) cho các NHTM và các điểm đổi tiền. Biên độ tỷ giá hối đoái ±0,25% và chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán đối với Euro/Kip là 0,50%, Baht/Kip là 0,75% và 2% đối với các đồng tiền khác. 

Bảng 1: Lãi suất chính sách và tỷ lệ dự trữ bắt buộc giai đoạn 2017 - 2021
 

 Nguồn: www.bol.gov.la
 
Ngoài ra, BOL đã ban hành Quyết định số 238/BOL ngày 26/3/2020 về chính sách tín dụng nhằm giảm thiểu tác động của đại dịch Covid-19, trong đó có 04 biện pháp chính như hoãn trả gốc và lãi suất; khuyến khích các NHTM giảm lãi suất và miễn phí dịch vụ; khuyến khích các NHTM cung cấp các khoản vay mới cho khách hàng để hỗ trợ phục hồi kinh tế và cơ cấu lại khoản vay. BOL cũng đã ban hành Quyết định số 318/BOL ngày 19/5/2020 về dự án tín dụng hỗ trợ sản xuất và giảm thiểu tác động của dịch Covid-19, nhằm mục đích kích thích nền kinh tế và giảm thiểu tác động của dịch Covid-19 bằng cách cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp 5,5%/năm và thời gian đáo hạn lên đến 06 năm.  
 
Cuối năm 2021, Thống đốc BOL phát biểu tại Kỳ họp thứ II, Quốc hội khóa IX nước CHDCND Lào: “Nước ta sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức do tỷ giá hối đoái tăng theo xu hướng kinh tế phục hồi. Trên thế giới, giá dầu thô, lạm phát, lãi suất đều tăng, trong khi đó, nước CHDCND Lào cũng phải chịu nhiều áp lực và cần thời gian để phục hồi. Vì vậy, để đạt được kế hoạch, theo chỉ đạo của Chính phủ, ngành Ngân hàng Lào sẽ tập trung vào các nhiệm vụ chính sau:
 
Một là, tiếp tục thực hiện CSTT theo hướng kích thích tăng trưởng kinh tế bằng cách tiếp tục khuyến khích cung cấp các nguồn vốn hỗ trợ sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu theo kế hoạch, dành nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách, góp nguồn vốn cho Quỹ Phát triển Xaysomboun thông qua Bộ Tài chính.
 
Hai là, tiếp tục thiết lập tỷ giá hối đoái theo cơ chế mới cùng với điều chỉnh hệ thống khảo sát tình hình tỷ giá mua - bán ngoại hối chính xác, đầy đủ hơn để thu hẹp sự chênh lệch tỷ giá giữa đồng Kip với USD của ngân hàng và thị trường (ngày 31/10/2021, chênh lệch tỷ giá USD/Kip của ngân hàng và ngoài thị trường tự do ở mức 13,36% và chênh lệch tỷ giá Baht/Kip ở mức thấp hơn 1%).
 
Ba là, tiếp tục phối hợp với các ngành liên quan thực hiện các biện pháp xử lý đối với cá nhân, tổ chức kinh doanh ngoại tệ và các hình thức kinh doanh tài chính không đúng quy định.
 
Bốn là, theo dõi việc thực hiện chế độ quản lý giữa NHTM và điểm đổi tiền theo quy chế đã ban hành.
 
Năm là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại hối nhằm hỗ trợ thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết khó khăn của nền kinh tế, tài chính như quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối, mở tài khoản và sử dụng tài khoản ngoại tệ, quản lý thu nhập ngoại hối.
 
Sáu là, tiếp tục thực hiện cơ chế quản lý nguồn thu xuất khẩu hàng hóa trong Đề án thí điểm khai thác và xuất khẩu khoáng sản thông qua tài khoản quản lý đặc thù nhằm thực hiện tập trung ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng; xây dựng hành lang pháp lý, hỗ trợ cung cấp các dịch vụ tài chính trong khu vực ga đường sắt và các đơn vị dịch vụ liên quan đến dự án đường sắt Lào - Trung, tại các đặc khu kinh tế.
 
Bảy là, tiếp tục chuẩn bị cho việc chuyển đổi “Ngân hàng Chính sách” thành “Ngân hàng Phát triển nông thôn”.
 
Tuy nhiên, trong quá trình điều hành chính sách, BOL đã và đang gặp phải nhiều thách thức, cụ thể là: 
 
Thứ nhất, BOL đã thực hiện một chương trình hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng những khoản tín dụng đó có thể không đủ để duy trì thanh khoản của các doanh nghiệp nếu đại dịch Covid-19 còn kéo dài, các biện pháp giãn cách xã hội và hạn chế đi lại tiếp tục được thực hiện trong trung và dài hạn. 
 
Thứ hai, BOL đã thực hiện CSTT nới lỏng bằng cách cắt giảm lãi suất chính sách và tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kích thích cho vay của các NHTM, nhưng các NHTM vẫn chưa tích cực cho các doanh nghiệp vay một phần do lo ngại về các khoản nợ xấu gia tăng. 
 
Thứ ba, Covid-19 đã gây áp lực đối với điều hành chính sách tỷ giá hối đoái, đặc biệt là trong việc duy trì sự ổn định của đồng tiền quốc gia.
 

 
Theo chỉ thị của Thủ tướng Lào tại Quyết định số 31/TTg ngày 02/4/2020 về những chính sách và biện pháp giảm thiểu tác động của sự bùng phát dịch Covid -19 đối với nền kinh tế của Lào (Decision No 31/PM dated 02/4/2020, on policies and measures to reduce impact from pandemic Covid-19), BOL đã giảm lãi suất cơ bản, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các NHTM cho phù hợp và chỉ đạo các NHTM thực hiện các chính sách tín dụng để đối phó với ảnh hưởng của đợt bùng phát dịch Covid-19, chẳng hạn như chính sách cơ cấu lại thời gian trả nợ cho các khoản nợ cũ, giảm lãi suất cho khoản vay mới cho các doanh nghiệp…
 
2. Đánh giá điều hành CSTT của BOL trong thời kỳ dịch Covid-19

Kết quả đạt được

 
Điều hành CSTT hiệu quả, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô: Trong giai đoạn năm 2019 - 2021, BOL đã điều hành CSTT hiệu quả nhờ sự kiên định, chủ động, thận trọng và linh hoạt, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, làm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối;  BOL đã điều hành tín dụng hiệu quả, phù hợp chủ trương từng bước giảm tỷ lệ chính sách, tăng tín dụng cho nền kinh tế, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; điều hành và công bố tỷ giá trung tâm linh hoạt mỗi ngày, phù hợp với thị trường; giảm lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng vốn trong lưu thông thông qua các NHTM; công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng bảo đảm an toàn, kích thích nền kinh tế, phát triển hệ thống thanh toán và thị trường vốn đa dạng hóa, tạo thuận lợi cho khách hàng; kiểm soát cung tiền ở mức hợp lý, mà nhất là tăng trường tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Những thành công trong điều hành CSTT của BOL thể hiện thông qua một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2019 - 2021 như sau:
 
Về kinh tế và Ngân sách Nhà nước
 
Trong giai đoạn 2019 - 2021, kinh tế Lào tăng trưởng trung bình 3,2%/năm, tổng nguồn thu Ngân sách Nhà nước đạt 21.845,75 tỷ Kip/năm chiếm 12,66% GDP.  Nguyên nhân chính khiến thu nội địa giảm là thu từ thuế xuất khẩu, quỹ bảo tồn rừng, dịch vụ hàng không, thuế tài nguyên thủy điện, thu nhập lãi, khấu hao và cổ tức, phí ưu đãi, thuế tiêu thụ đặc biệt, thu nhập cho thuê, thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên và thuế đất. Bên cạnh đó, các chính sách giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch Covid-19, cụ thể là miễn thuế thu nhập cho cả công chức và người lao động của khu vực tư nhân trong nhiều tháng, áp dụng mức chiết khấu tiền điện trong một số tháng, miễn thuế lợi tức cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, đã gây ra sụt giảm mạnh trong các khoản thu Ngân sách Nhà nước. Trong giai đoạn 2019 - 2021, tổng chi tiêu Ngân sách Nhà nước là 30.858,17 tỷ Kip/năm, với mức tăng trưởng 0,77%/năm, chiếm 17,88% GDP, chi thường xuyên có xu hướng giảm và chi đầu tư phát triển có xu hướng tăng với mức tăng trung bình 10,38%/năm.
 
Về tiền tệ - ngân hàng
 
Trong giai đoạn 2019 - 2021, trung bình hàng năm, tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng tăng và chiếm 64,62% GDP/năm, trung bình tổng tín dụng đạt 48,94% GDP/năm, NPLs trung bình 3,16%/năm cao hơn một chút so với mức cho phép (3%), cung tiền (M2) tăng trung bình 16,33%/năm, mức dự trữ ngoại hối trung bình đủ 4,81 tháng nhập khẩu, tỷ giá hối đoái tương đối ổn định và lạm phát trung bình 5,07%/năm.
 
Trong giai đoạn 2019 - 2021,  BOL thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng bằng cách cắt giảm lãi suất chính sách và tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kích thích cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, các NHTM vẫn chưa chủ động giảm lãi suất cho vay và cho các doanh nghiệp vay một phần do lo ngại về các khoản nợ xấu gia tăng trong đại dịch Covid-19.
 
Một số hạn chế 
 
Trong những năm gần đây, CHDCND Lào duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, nhưng đại dịch Covid-19 đã khiến các hoạt động kinh tế suy giảm mạnh, mức tăng trưởng giảm xuống còn 3,3% (năm 2021).  Sự sụt giảm này do tốc độ tăng trưởng lĩnh vực dịch vụ, trong đó ngành du lịch giảm 98% so với năm trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát, lĩnh vực công nghiệp bị ảnh hưởng bởi sản lượng khai thác khoáng sản kết hợp với ảnh hưởng của mưa lũ tại các tỉnh miền Trung và miền Nam khiến ngành nông nghiệp không sản xuất được theo kế hoạch. Lạm phát vẫn duy trì ở mức cao, đồng Kip trượt giá đã làm tăng chi phí sản xuất vì Lào nhập khẩu nhiều loại hàng hóa nguyên liệu cho sản xuất trong nước. Hơn nữa, lạm phát còn được đẩy lên do các yếu tố tâm lý bị ảnh hưởng bởi nỗi lo đại dịch và sản xuất trong nước hạn chế, còn có hiện tượng đầu cơ, găm giữ hàng tiêu dùng quá mức. Huy động vốn của hệ thống NHTM gặp khó khăn; thanh khoản trong hệ thống ngân hàng căng thẳng, chương trình hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, dân cư không hiệu quả vì chẳng ai muốn vay mượn do chính sách đóng cửa, giãn cách xã hội, hạn chế đi lại, chính sách hoãn, giãn nợ cũng không hiệu quả vì chỉ có một số ít người dân, doanh nghiệp đáp ứng đủ yêu cầu. 
 
3. Định hướng điều hành CSTT của BOL trong năm 2022
 
Năm 2022, tình hình kinh tế quốc tế và trong nước sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, mặc dù CHDCND Lào được kỳ vọng tăng trưởng kinh tế từ 4% đến 4,5% do mức độ nghiêm trọng của dịch Covid 19 giảm, tỷ lệ người dân được tiêm vắc-xin cao, nền kinh tế được mở cửa trở lại. Xuất khẩu được kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng ở mức khá; cán cân thương mại dịch vụ, môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt gần như năm trước đại dịch, cán cân thanh toán phục hồi ở mức thặng dư một chút, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống. Nhưng những vấn đề CHDCND Lào tiếp tục phải đối mặt là giá dầu tăng, giá lương thực trên thị trường quốc tế, lãi suất ở các nước trên thế giới tăng cao, nhu cầu nắm giữ tài sản an toàn tăng, lạm phát gia tăng ở các nước đối tác của CHDCND Lào dự báo sẽ tiếp tục gây áp lực lên mặt bằng giá cả trong nước. Dự báo lạm phát năm 2022 của Lào có khả năng gia tăng theo xu hướng của các nước trong khu vực và quốc tế. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí vận tải tăng vì chịu tác động của giá xăng dầu trên thị trường quốc tế tăng mạnh.  
 
Do đó, các cơ chế, công cụ cần tập trung vào việc cải thiện thanh khoản của hệ thống ngân hàng, xây dựng cơ chế điều tiết thanh khoản của hệ thống ngân hàng có hiệu quả; điều chỉnh lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc định kỳ để đảm bảo ổn định giá cả, phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng phù hợp với tiềm năng sản xuất kinh doanh và đảm bảo ổn định của hệ thống ngân hàng nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh tế; điều hành tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường và phù hợp với điều kiện kinh tế của Lào, trong đó đặc thù là nước nhập khẩu hàng tiêu dùng chủ yếu do nền sản xuất trong nước yếu kém, nhằm mục đích ngăn tỷ giá hối đoái không biến động quá nhiều trong khi vẫn duy trì điều hành tỷ giá hối đoái chặt chẽ; chính sách quản lý ngoại hối hiệu quả để tăng cường dự trữ ngoại hối, trong đó, sẽ thông qua Quốc hội, xem xét sửa đổi về Luật Quản lý ngoại hối, phối hợp với các bên liên quan hoàn thiện pháp luật, trao đổi thông tin, giám sát và thực hiện các quy định chặt chẽ về quản lý hoạt động ngoại hối như quản lý thu ngoại hối từ xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, vay nợ nước ngoài bằng cách tạo điều kiện cho việc nhập khẩu ngoại tệ thông qua hệ thống ngân hàng, cùng với quản lý các đơn vị kinh doanh liên quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định.
 
Với những thách thức đã nêu trên, trong thời gian tới, BOL nên tiếp tục điều hành CSTT theo hướng như sau:
 
Một là, tiếp tục thực hiện CSTT theo hướng kích thích tăng trưởng kinh tế bằng cách tiếp tục khuyến khích cung cấp các nguồn vốn hỗ trợ sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu theo kế hoạch và dành nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách.
 
Hai là, điều chỉnh lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc định kỳ để đảm bảo ổn định giá cả.
 
Ba là, cải thiện các chỉ tiêu kỳ hạn thanh khoản của hệ thống ngân hàng, xây dựng cơ chế điều tiết thanh khoản của hệ thống ngân hàng có hiệu quả.
 
Bốn là, tiếp tục thiết lập tỷ giá hối đoái tập trung, linh hoạt, dựa trên cơ chế thị trường nhằm góp phần tăng dự trữ ngoại hối và thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá phi chính thức.
 
Năm là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại hối nhằm hỗ trợ thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết khó khăn về kinh tế, tài chính như quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối, mở tài khoản và sử dụng tài khoản ngoại tệ, quản lý các nguồn thu nhập ngoại hối.
 
4. Kết luận
 
CSTT đã khẳng định được vai trò lưu thông “mạch máu” trong nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất trong bối cảnh đại dịch Covid-19: Duy trì hoạt động của doanh nghiệp, hạn chế tối đa tình trạng phá sản; duy trì việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng thất nghiệp, mất thu nhập; đảm bảo hệ thống ngân hàng - huyết mạch của nền kinh tế - duy trì được trạng thái ổn định, vận hành tốt, đủ năng lực vực dậy nền kinh tế hậu đại dịch Covid-19. Trong bối cảnh này, CSTT có thể hỗ trợ khu vực sản xuất, kinh doanh thông qua việc BOL hỗ trợ các NHTM cơ cấu lại các khoản nợ hiện hành cho các khách hàng (giảm lãi suất đối với các khoản nợ hiện hành...) và miễn giảm lãi suất trong thời kỳ doanh nghiệp không có doanh thu.  
 
Do vậy, để duy trì ổn định nền kinh tế, các giải pháp, chính sách hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế là cần thiết nhưng không thể chủ quan với áp lực lạm phát, đòi hỏi công tác phối hợp chính sách phải thật chặt chẽ, nhịp nhàng, linh hoạt về liều lượng, cách thức triển khai, nhất là CSTT và chính sách tài khóa. Về mặt này, BOL sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh Covid-19 và tác động của nó đối với lĩnh vực tài chính và các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời, chuẩn bị áp dụng các biện pháp bổ sung cần thiết để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng và giá cả, cũng như  hỗ trợ khả năng phục hồi kinh tế.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. BOL (2019, 2020, 2021), báo cáo thường niên về kinh tế và tiền tệ của Lào.
2. www.bol.gov.la
3. www.imf.com
4. https://www.mof.gov.la/index.php/publications-
and-statistics_la/
5. https://www.lsb.gov.la/Tổng cục Thống kê Quốc gia
6. https://www.covid19.gov.la/index.php

ThS. Odaly Senchanthixay 
Nghiên cứu sinh Học viện Ngân hàng, cán bộ Ngân hàng CHDCND Lào
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
08/07/2024 1.292 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, trình bày những khó khăn và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
03/07/2024 1.828 lượt xem
Mục tiêu của bài viết nhằm xem xét cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống thông qua những quy định hiện hành tại một số quốc gia; qua đó, đưa ra các hàm ý đối với Việt Nam.
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
19/06/2024 2.455 lượt xem
Dựa trên dữ liệu được thu thập từ các báo cáo về tài chính toàn diện của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ tài chính số tại 19 quốc gia châu Á từ phía chủ thể cung cấp và chủ thể tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
06/06/2024 3.315 lượt xem
Trong kỉ nguyên của công nghệ số, sự xuất hiện của một hình thức tiền tệ số hay tiền mã hóa là hoàn toàn cần thiết để đáp ứng sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ (Milutinovic, 2018). Tiền mã hóa sử dụng công nghệ mã hóa và chuỗi khối (Blockchain) để bảo đảm tính an toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính.
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
24/05/2024 4.185 lượt xem
Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) là những định chế tài chính phát triển lớn, thành công trên thế giới...
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
20/05/2024 4.286 lượt xem
Đi đôi với phát triển kinh tế, Trung Quốc dần hình thành và triển khai chiến lược bài bản xây dựng và củng cố sức mạnh tài chính - tiền tệ với trọng tâm là phát triển CNY trở thành đồng tiền quốc tế...
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
16/05/2024 5.856 lượt xem
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
08/05/2024 4.926 lượt xem
Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây rất nhiều khó khăn, tổn thất về người, kinh tế cho các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, công bố các chỉ tiêu ESG (Enviromental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong nhiều năm qua luôn thu hút được sự đồng hành của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 5.715 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 7.395 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 9.036 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 27.703 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 10.146 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 14.747 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 10.276 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?