Chi ngân sách cho hoạt động tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước: Thực trạng và khuyến nghị
21/06/2022 08:22 7.198 lượt xem
Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu thực trạng chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho hoạt động tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước do Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) thực hiện từ khi thành lập đến nay. Trên cơ sở phân tích ảnh hưởng của việc cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu tại VDB đến bội chi NSNN và tác động của việc chậm thực hiện các khoản chi này từ NSNN đến kết quả hoạt động của VDB, tác giả bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm giảm thiểu tác động của việc cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý đối với NSNN cũng như đối với VDB.
 
Từ khóa: Chi NSNN, tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
 
THE STATE BUDGET EXPENDITURES FOR INVESTMENT CREDIT AND EXPORT CREDIT: CURRENT SITUATION AND RECOMMENDATIONS
 
Abstract: This article studies the reality of the state budget expenditures for investment credit and export credit carried out by Vietnam Development Bank (VDB) since its establishment. By analyzing the impact of the grant of the interest rate difference compensation and management fee to VDB on the state budget deficit and the repercussion of the delay in the implementation of these expenditures from the state budget on the operating results of VDB, the author suggests some recommendations to minimize the impact of the grant of the interest rate difference compensation and management fee towards the state budget as well as VDB.
 
Keywords: The state budget expenditures, investment credit and export credit of the State, Vietnam Development Bank.
 
1. Đặt vấn đề
 
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chi NSNN bao gồm rất nhiều khoản chi và được phân chia theo các nhóm khác nhau. Trong đó, chi đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các tổ chức tài chính của Nhà nước được xếp vào chi đầu tư phát triển (ĐTPT).
 
Từ năm 2006, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) trên cơ sở tổ chức lại một tổ chức tài chính nhà nước là Quỹ Hỗ trợ phát triển (DAF) để thực hiện một số chính sách tín dụng của Nhà nước. Từ đó đến nay, các khoản hỗ trợ từ NSNN cho hoạt động tín dụng nhà nước tại Quỹ Hỗ trợ phát triển trước đây được chuyển thành khoản hỗ trợ cho hoạt động tín dụng nhà nước tại VDB và được tính vào chi ĐTPT.
 
Tuy nhiên, cùng với tiến trình cải cách tài chính công nhằm xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, trong Chiến lược Tài chính đến năm 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 18/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ, một trong những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư của nguồn vốn NSNN được đưa ra là đổi mới phương thức phát triển tín dụng nhà nước theo nguyên tắc thương mại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các khoản chi từ NSNN cho các tổ chức thực hiện chính sách tín dụng nhà nước, trong đó có VDB, sẽ được thu hẹp nhằm giảm dần bội chi NSNN và đảm bảo tính bền vững của nền tài chính quốc gia.
 
Song song với yêu cầu về phát triển tín dụng nhà nước theo nguyên tắc thương mại như trên, tại Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, một trong những mục tiêu được Thủ tướng Chính phủ đặt ra đối với VDB là từng bước giảm cấp bù của NSNN và tiến tới tự chủ về tài chính trong hoạt động của ngân hàng này.
 
Trong bối cảnh nền kinh tế đang cần sử dụng nguồn lực rất lớn từ NSNN để hỗ trợ phòng, chống dịch Covid-19 cũng như phục hồi sau đại dịch theo Nghị quyết của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và việc giảm dần bội chi NSNN vẫn tiếp tục là mục tiêu được đặt ra trong Nghị quyết này cũng như trong Chiến lược Tài chính đến năm 2030, thì việc nghiên cứu các giải pháp giảm bớt gánh nặng chi NSNN trong việc hỗ trợ hoạt động tín dụng đầu tư (TDĐT) và tín dụng xuất khẩu (TDXK) của Nhà nước tại VDB là rất cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu nói trên.
 
2. Khái quát về hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB
 
VDB được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ với nhiệm vụ ban đầu được giao là thực hiện chính sách TDĐT và TDXK của Nhà nước. Đến năm 2017, sau khi Nghị định số 32/2017/NĐ-CP được Chính phủ ban hành, VDB không còn cho vay vốn TDXK của Nhà nước nữa mà chỉ thực hiện nhiệm vụ cho vay vốn TDĐT và thu hồi các khoản nợ TDXK đã cho vay trước ngày Nghị định này có hiệu lực.
 
Theo quy định của pháp luật, VDB được huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính sách TDĐT và TDXK của Nhà nước; trong đó, việc huy động vốn được VDB thực hiện chủ yếu dưới hình thức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của VDB nhiều năm trở lại đây, vốn huy động từ phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh thường xuyên chiếm tỷ trọng rất lớn, phổ biến ở mức trên 90%.
 
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cho vay vốn TDĐT và TDXK của Nhà nước, VDB được NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý. Từ ngày 31/5/2021 trở về trước, theo Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg ngày 30/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ, mức cấp bù chênh lệch lãi suất được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất hòa đồng các nguồn vốn với lãi suất cho vay và dư nợ vay TDĐT, TDXK của Nhà nước, không phân biệt nợ trong hạn hay quá hạn; còn phí quản lý được xác định bằng 25% trên số thu nợ lãi cho vay từ các hoạt động tín dụng này. 
 
Đến ngày 01/6/2021, khi Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg nói trên hết hiệu lực, đồng thời Nghị định số 46/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 của Chính phủ có hiệu lực, thì cơ chế cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý đối với hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB có sự thay đổi. Theo đó, số tiền cấp bù chênh lệch lãi suất được xác định bằng phần chênh lệch giữa tổng chi phí huy động vốn được cấp bù và tổng thu từ sử dụng vốn (bao gồm thu lãi cho vay và thu lãi tiền gửi từ nguồn vốn tồn ngân); còn phí quản lý đối với hoạt động TDĐT và TDXK được tính trên dư nợ bình quân của các khoản cho vay theo một tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ 03 năm. Riêng đối với các khoản cho vay theo hợp đồng tín dụng ký và giải ngân sau thời điểm Nghị định số 32/2017/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, phí quản lý chỉ tính trên dư nợ bình quân không bao gồm nợ khoanh và nợ quá hạn.
 
Trải qua hơn 15 năm hoạt động, VDB đã cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác vay gần 350 nghìn tỷ đồng vốn TDĐT và TDXK của Nhà nước để thực hiện các dự án đầu tư hoặc các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa theo danh mục được Chính phủ quy định trong từng thời kỳ. Đến hết năm 2021, dư nợ TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB là hơn 58.000 tỷ đồng.
 
3. Thực trạng chi NSNN cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước 
 
3.1. Tình hình cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ NSNN cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước
 
Với cơ chế tài chính được quy định như mô tả ở phần trên của bài viết, trong những năm qua, NSNN đã bố trí một phần dự toán chi ĐTPT để cấp cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước do VDB thực hiện. Tính từ khi VDB thành lập đến hết năm 2021, khoản chênh lệch lãi suất và phí quản lý mà NSNN chi cho các hoạt động tín dụng này đã lên tới 45.428 tỷ đồng. Số tiền được cấp từ NSNN đã đóng góp một phần rất lớn vào tổng thu nhập của VDB mỗi năm. (Hình 1)
 
Hình 1: Cơ cấu thu nhập của VDB giai đoạn 2006 - 2021


Nguồn: Tính toán từ báo cáo thường niên của VDB
 
Tuy nhiên, do gặp khó khăn trong việc cân đối nguồn để bố trí dự toán chi ĐTPT, nên việc thanh toán số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB chưa được NSNN thực hiện đầy đủ và kịp thời theo số phát sinh thực tế, đặc biệt là từ sau năm 2010. Trong 05 năm đầu VDB đi vào hoạt động (2006 - 2010), trong số 9.501 tỷ đồng chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh từ hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước, thì NSNN đã bố trí dự toán chi ĐTPT để thanh toán 9.359 tỷ đồng, đạt tỷ lệ gần 99%. Nhưng từ năm 2011 trở lại đây, ngoại trừ năm 2015, 2020 và 2021 có số chênh lệch lãi suất và phí quản lý được cấp từ NSNN lớn hơn số phát sinh do NSNN thanh toán một phần chênh lệch lãi suất và phí quản lý chưa được cấp của các năm trước; còn lại các năm khác, NSNN thường xuyên không thanh toán đủ số chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho VDB. Đặc biệt, có những năm (2012, 2013, 2016, 2019), NSNN chỉ thanh toán một phần rất nhỏ của số chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh thực tế trong năm. Tính chung trong giai đoạn 2011 - 2021, NSNN chỉ thanh toán 36.069 tỷ đồng trong tổng số 46.687 tỷ đồng chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh từ hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước, đạt tỷ lệ 77,3%. Tính đến hết năm 2021, số chênh lệch lãi suất và phí quản lý mà NSNN chưa thanh toán cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước đã lên tới 11.468 tỷ đồng.  

Hình 2: Tình hình thanh toán chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ NSNN 
cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước giai đoạn 2011 - 2021


Nguồn: Tính toán từ báo cáo thường niên của VDB

 
Việc NSNN không cấp đủ chênh lệch lãi suất và phí quản lý như trên đã gây ra cho VDB những khó khăn trong việc đảm bảo nguồn vốn để đáp ứng yêu cầu triển khai hoạt động TDĐT và TDXK theo chính sách của Nhà nước. Nguyên nhân là do VDB phải sử dụng nguồn vốn huy động (trong đó, chủ yếu là vốn huy động từ phát hành trái phiếu) để bù đắp cho phần thiếu hụt từ số chênh lệch lãi suất và phí quản lý chưa được NSNN thanh toán. Việc sử dụng nguồn vốn thay thế này đã ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của VDB do chi phí huy động vốn bị tăng lên. 
 
Bằng một phép tính đơn giản, giả định trong giai đoạn 2011 - 2021, mỗi năm VDB phải sử dụng nguồn vốn huy động để bù đắp vào phần thiếu hụt do NSNN không cấp đủ chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK, với hình thức huy động là phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và lãi suất huy động bằng lãi suất phát hành trái phiếu bình quân trong năm, thì với số chênh lệch lãi suất và phí quản lý mà NSNN chưa cấp đủ cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước như thể hiện trên Hình 2, VDB phải trả thêm gần 6.500 tỷ đồng tiền lãi huy động vốn. Chi tiết số lãi ước tính mà VDB phải trả thêm mỗi năm do NSNN không cấp đủ chênh lệch lãi suất và phí quản lý được thể hiện trên Hình 3.

Hình 3: Ước tính chi phí huy động vốn của VDB để bù đắp 
số chênh lệch lãi suất và phí quản lý chưa cấp giai đoạn 2011 - 2021


Nguồn: Tính toán từ báo cáo phát hành trái phiếu và báo cáo thường niên của VDB 

Trong bối cảnh tỷ lệ thu nhập từ tiền lãi cho vay của VDB từ năm 2011 đến nay có xu hướng sụt giảm do ảnh hưởng từ sự thu hẹp quy mô cho vay và khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng vay vốn, việc phải chi thêm số tiền lớn để trả lãi huy động vốn như trên đã góp phần đáng kể làm giảm chênh lệch thu chi của VDB. Đồng thời, với cơ chế xác định số tiền cấp bù chênh lệch lãi suất dựa trên chênh lệch giữa lãi suất hòa đồng các nguồn vốn với lãi suất cho vay (theo Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) hoặc chênh lệch giữa chi phí huy động vốn được cấp bù và tổng thu từ sử dụng vốn (theo Nghị định số 46/2021/NĐ-CP của Chính phủ), việc phát sinh thêm chi phí huy động vốn như trên cũng lại góp phần làm tăng số cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN cho VDB.
 
Trong các năm tiếp theo, với số dư nợ cho vay đã nêu ở phần 2 của bài viết, số chênh lệch lãi suất và phí quản lý mà NSNN phải cấp cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB sẽ còn tiếp tục phát sinh cho đến khi khách hàng vay vốn trả hết nợ. Trong khi đó, phần chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho các hoạt động tín dụng này được bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 (theo Quyết định số 1535/QĐ-TTg ngày 15/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ) chỉ là 10.903,5 tỷ đồng. Sau khi trừ đi 4.500 tỷ đồng đã được chi để cấp chênh lệch lãi suất và phí quản lý trong năm 2021, thì phần còn lại để cấp cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước trong các năm 2022 - 2025 chỉ là 6.403,5 tỷ đồng. Hệ quả là NSNN sẽ không thể thanh toán đủ số chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB, bởi chỉ tính riêng số chênh lệch lãi suất và phí quản lý chưa cấp đến hết năm 2021 cũng đã lên tới 11.486 tỷ đồng. Điều này sẽ tiếp tục làm tình hình tài chính của VDB xấu đi do phải tăng chi phí huy động vốn, tương tự như những gì đã xảy ra trong giai đoạn 2011 - 2021. 
 
3.2. Ảnh hưởng của các khoản chi cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước đến NSNN 
 
Từ năm 2011 đến hết năm 2021, NSNN đã chi hơn 14,57 triệu tỷ đồng, trong đó chi ĐTPT là 3,83 triệu tỷ đồng, chiếm 26,3%. Mặc dù có những năm, số chi NSNN thực hiện thấp hơn so với năm trước, song nhìn chung, quy mô chi NSNN cũng như chi ĐTPT trong giai đoạn này có xu hướng tăng, trong đó tốc độ tăng chi ĐTPT lớn hơn tốc độ tăng chi NSNN. 
 
Đi cùng với sự mở rộng quy mô chi NSNN như trên, số bội chi NSNN trong giai đoạn này cũng có xu hướng tăng, với tốc độ cao hơn tốc độ tăng chi NSNN cũng như tốc độ tăng chi ĐTPT. Trong khi tốc độ tăng bình quân của chi NSNN và chi ĐTPT giai đoạn 2011 - 2021 lần lượt là 6%/năm và 8,9%/năm, thì tốc độ tăng bội chi NSNN bình quân lên tới 11,9%/năm. (Hình 4)
Hình 4: Tình hình chi NSNN giai đoạn 2011 - 2021


Nguồn: Bộ Tài chính, trong đó số liệu năm 2020 - 2021 chưa quyết toán

Trong tổng số chi NSNN nói trên, có 36.069 tỷ đồng được đưa vào chi ĐTPT để cấp chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB. Mặc dù không thanh toán đủ chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước theo số phát sinh thực tế (như mô tả trên Hình 2), tuy nhiên, so với số tổng chi NSNN cũng như chi ĐTPT hằng năm, thì số chênh lệch lãi suất và phí quản lý mà NSNN đã thanh toán cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Tính toán từ số liệu dự toán và quyết toán NSNN hằng năm cho thấy, trong giai đoạn 2011 - 2021, số chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB chiếm khoảng 0,25% tổng chi NSNN và khoảng 0,94% chi ĐTPT. Còn nếu so sánh với số bội chi NSNN thì số chênh lệch lãi suất và phí quản lý nói trên cũng chiếm khoảng 1,55%. (Hình 5)

Hình 5: Tỷ trọng chênh lệch lãi suất và phí quản lý thực cấp 
cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước trong chi NSNN 2011 - 2021


Nguồn: Tính toán từ số liệu của VDB và Bộ Tài chính 

Với việc phải bố trí NSNN để cấp chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước như trên, số chi ĐTPT cũng như tổng chi NSNN hằng năm đã phải tăng lên, từ đó góp phần làm tăng bội chi NSNN. Có thể hình dung tác động của số cấp chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước đến biến động của chi NSNN qua mô tả trên Hình 6.

Hình 6: Biến động chi NSNN nếu không cấp chênh lệch lãi suất 
và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước


Nguồn: Tính toán từ số liệu của VDB và Bộ Tài chính 

Số liệu trên Hình 6 cho thấy, nếu loại trừ số chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước thì số chi NSNN mỗi năm trong giai đoạn 2011 - 2021 sẽ giảm đi, trong đó chi ĐTPT giảm 0,23 - 2,33%, tổng chi NSNN giảm 0,05 - 0,57%. Tính chung trong cả giai đoạn 2011 - 2021, nếu NSNN không cấp chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước thì chi ĐTPT sẽ giảm 0,94% và tổng chi NSNN sẽ giảm 0,25%. Nói cách khác, các khoản cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý để thực hiện các chính sách tín dụng này đã làm chi ĐTPT và tổng chi NSNN giai đoạn này tăng thêm với tỷ lệ lần lượt là 0,94% và 0,25%.
 
Tuy nhiên, vì cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý đối với hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước là vấn đề đã được pháp luật quy định và thuộc nghĩa vụ thực hiện của Nhà nước, nên mỗi năm, NSNN vẫn phải bố trí dự toán chi ĐTPT để thanh toán số chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh cho VDB như trên. Trường hợp NSNN bố trí đủ dự toán để thanh toán số chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh thực tế cho VDB thì trong giai đoạn 2011 - 2021, số chi ĐTPT và tổng chi NSNN sẽ không dừng lại ở những con số thể hiện trên Hình 4 mà còn tiếp tục tăng thêm như minh họa trên Hình 7. 

Hình 7: Biến động chi NSNN nếu cấp đủ chênh lệch lãi suất và phí quản lý
cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước



Nguồn: Tính toán từ số liệu của VDB và Bộ Tài chính

 
Số liệu trên Hình 7 cho thấy, trong giai đoạn 2011 - 2021, nếu NSNN bố trí dự toán chi ĐTPT để thanh toán cho VDB bằng đúng số chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh trong năm, thì ngoại trừ các năm 2015, 2020 và 2021 có số chi NSNN giảm, các năm còn lại đều có số chi NSNN tăng lên, trong đó chi ĐTPT tăng thêm 0,03 - 1,26%, còn tổng chi NSNN tăng thêm 0,01 - 0,33%. Tính chung trong cả giai đoạn 2011 - 2021, nếu NSNN cấp đủ chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước thì chi ĐTPT sẽ tăng thêm 0,28% và tổng chi NSNN sẽ tăng thêm 0,07%. 
 
Đến lượt nó, sự biến động về quy mô chi NSNN lại dẫn đến sự thay đổi số bội chi NSNN. Theo đó, nếu bố trí đủ dự toán chi ĐTPT để thanh toán chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh thực tế cho VDB thì trong giai đoạn 2011 - 2021, bội chi NSNN mỗi năm sẽ tăng thêm 0,07 - 1,85% và bội chi NSNN cả giai đoạn sẽ tăng thêm 0,46%. Tuy nhiên, nếu không đưa số chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước vào dự toán chi NSNN thì trong giai đoạn này, bội chi NSNN mỗi năm sẽ giảm 0,28 - 2,73% và bội chi NSNN cả giai đoạn sẽ giảm 1,55%. 
 
Số liệu trên Hình 8 cho thấy, tình hình bội chi NSNN sẽ có sự khác biệt đáng kể giữa việc cấp hoặc không cấp chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước. Chính vì vậy, nếu chính sách về các hoạt động tín dụng này của Nhà nước có thể thay đổi để không phụ thuộc vào số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ NSNN thì sẽ góp phần đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu giảm dần bội chi NSNN mà Nghị quyết của Quốc hội cũng như Chiến lược tài chính đến 
năm 2030 đã đặt ra. 
 
4. Kết luận và khuyến nghị 
 
Kết quả phân tích ở phần 3 của bài viết cho thấy, việc chậm thanh toán chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ NSNN cho hoạt động TDĐT và TDXK đã ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính của VDB. Ở chiều ngược lại, việc cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho các hoạt động tín dụng nhà nước tại ngân hàng này cũng góp phần đáng kể vào việc làm tăng bội chi NSNN. 
 
Đến thời điểm hiện tại, VDB đang được giao thực hiện chính sách TDĐT theo Nghị định số 32/2017/NĐ-CP của Chính phủ. Theo quy định tại Nghị định này, lãi suất cho vay vốn TDĐT của Nhà nước được xác định trên cơ sở lãi suất phát hành trái phiếu và tỷ lệ chi phí quản lý hoạt động của VDB do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong từng thời kỳ 03 năm. Điều đó đồng nghĩa số thu lãi cho vay của VDB đối với các dự án vay vốn TDĐT theo quy định tại Nghị định này sẽ cao hơn chi phí huy động vốn tương ứng; do đó, NSNN sẽ không còn phải cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho VDB khi thực hiện chính sách TDĐT của Nhà nước theo Nghị định số 32/2017/NĐ-CP. Tuy nhiên, đối với hoạt động TDĐT và TDXK của Nhà nước thực hiện trước thời điểm hiệu lực của Nghị định này, thì NSNN vẫn sẽ phải bố trí dự toán chi ĐTPT để cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh từ các khoản cho vay cho đến khi VDB thu hồi hết dư nợ.
 
Mặc dù vậy, với những yêu cầu và mục tiêu đã đặt ra cho việc phục hồi và phát triển kinh tế cũng như quản lý tài chính quốc gia, có thể thấy rằng, trong những năm tới, phần chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho các khoản nợ TDĐT và TDXK của Nhà nước phát sinh trước đây tại VDB sẽ khó được thanh toán đầy đủ và kịp thời. Do đó, để không làm tăng thêm gánh nặng bội chi NSNN và giảm thiểu tác động tiêu cực từ sự thiếu hụt NSNN đến tình hình tài chính của VDB, thì việc giảm nhanh dư nợ của các khoản cho vay vốn TDĐT và TDXK được cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý, đặc biệt là các khoản nợ quá hạn, là giải pháp có tính cốt lõi. Cùng với đó, việc mở rộng quy mô dư nợ của các khoản vay theo Nghị định số 32/2017/NĐ-CP để tăng thu nhập từ tiền lãi cho vay cho VDB cũng rất cần thiết để bù đắp phần thu nhập bị mất đi từ tiền lãi cho vay của các khoản vay phát sinh trước khi Nghị định số 32/2017/NĐ-CP có hiệu lực, cũng như số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý mà NSNN không thanh toán đủ cho các khoản vay này.
 
Vấn đề vướng mắc hiện nay là trong số dư nợ TDĐT và TDXK của Nhà nước tại VDB còn có một phần nợ quá hạn đáng kể, nhưng VDB chưa có căn cứ để quyết định hoặc đề xuất Bộ Tài chính hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng các biện pháp xử lý rủi ro cần thiết, do Quy chế xử lý rủi ro tín dụng tại VDB chưa được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Cùng với đó, tỷ lệ chi phí quản lý hoạt động của VDB cũng chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nên VDB chưa có cơ sở xác định lãi suất để có thể cho vay vốn TDĐT của Nhà nước đối với các dự án theo quy định tại Nghị định số 32/2017/NĐ-CP.
 
Chính vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn giữa việc giảm bội chi NSNN và bảo đảm nguồn lực cho các hoạt động tín dụng theo chính sách của Nhà nước, thì song song với việc đẩy mạnh thu hồi các khoản nợ TDĐT và TDXK quá hạn có thể thu hồi được, VDB cần báo cáo các cơ quan nhà nước sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế xử lý rủi ro tín dụng và phê duyệt tỷ lệ phí quản lý hoạt động như đã đề cập trên.

Tài liệu tham khảo:
 
1. Bộ Tài chính, Số liệu công khai ngân sách nhà nước, truy cập ngày 15/3/2022 tại https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/lvtc/ngan-sach-nha-nuoc/cong-khai-theo-quy-dinh-cua-luat-nsnn 
2. Chính phủ (2017), Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 về tín dụng đầu tư của Nhà nước .
3. Chính phủ (2021), Nghị định số 46/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 về chế độ quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
4. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2007 - 2022), Báo cáo thường niên 2006 - 2021.
5. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012 - 2022), Báo cáo phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh 2011 - 2021.
6. Quốc hội (2002), Luật số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002 về ngân sách nhà nước.
7. Quốc hội (2022), Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
8. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 về việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam. 
9. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg ngày 30/3/2007 về việc ban hành Quy chế quản lý tài chính đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam.  
10. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 18/4/2012 về việc phê duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2020.
11. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 
12. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 21/3/2022 về việc phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030.

TS. Nguyễn Cảnh Hiệp 
Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, hỗ trợ vốn tín dụng cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh
Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, hỗ trợ vốn tín dụng cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh
25/10/2024 09:25 602 lượt xem
Ở Việt Nam, đầu tư vốn, hỗ trợ tín dụng cho nông nghiệp, nông dân được triển khai theo nhiều hình thức và có sự chuyển đổi theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường.
Nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của cán bộ, viên chức và người lao động tại các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước
Nhân tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của cán bộ, viên chức và người lao động tại các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước
03/10/2024 09:34 1.245 lượt xem
Nguồn nhân lực xã hội là tài sản quan trọng nhất của mỗi quốc gia, quyết định sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khẳng định vị thế dân tộc trên trường quốc tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại Việt Nam
Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại Việt Nam
02/10/2024 08:46 1.653 lượt xem
Các ngân hàng thương mại hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và có nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, chi trả đối với khách hàng, ảnh hưởng đến danh tiếng và lợi nhuận của ngân hàng...
Đào tạo cá nhân hóa tại ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
Đào tạo cá nhân hóa tại ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
14/08/2024 15:59 741 lượt xem
Phát triển nguồn nhân lực luôn là một trong các nhiệm vụ hàng đầu của NHTM; trong đó, đào tạo cá nhân hóa được xem là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại các NHTM trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Mối quan hệ giữa quy định vốn theo Basel III với một số giải pháp chính và khuyến nghị
Mối quan hệ giữa quy định vốn theo Basel III với một số giải pháp chính và khuyến nghị
06/08/2024 08:47 964 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu khảo sát định lượng 115 tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam, phân tích hồi quy đa biến mối quan hệ giữa mức độ thực hiện các quy định vốn Basel III với một số giải pháp chính (liên quan đến tăng vốn và hệ thống) bằng phần mềm SPSS, AMOS
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản lý tài chính của sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản lý tài chính của sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
12/07/2024 08:35 5.046 lượt xem
Quản lý tài chính cá nhân là một trong những yếu tố quan trọng để xác định phúc lợi tài chính của mỗi cá nhân (Xiao và cộng sự, 2009). Theo đó, quản lý tài chính cá nhân liên quan đến việc áp dụng các hoạt động khác nhau để lập kế hoạch, quản lý và kiểm soát chi tiêu của một người.
Giải pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân hướng đến phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam
Giải pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân hướng đến phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam
05/07/2024 19:37 1.678 lượt xem
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước có nhiều biến động, việc huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn nhưng cũng không kém phần rủi ro đối với nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam.
Cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương tại một số tỉnh, thành Việt Nam
Cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương tại một số tỉnh, thành Việt Nam
26/06/2024 10:21 2.706 lượt xem
Nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương trong tương lai cho các tỉnh, thành nói riêng và Việt Nam nói chung.
Tác động của phát triển thị trường vốn đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Tác động của phát triển thị trường vốn đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN và hàm ý chính sách cho Việt Nam
14/06/2024 08:30 1.513 lượt xem
Thị trường vốn đóng một vai trò thiết yếu trong nền kinh tế quốc gia nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá thực nghiệm tác động của phát triển thị trường vốn đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN trong giai đoạn 2013 - 2023.
Bàn về quy định chuyển nhóm nợ và tài sản có rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn và vốn kinh tế đối với ngân hàng thương mại
Bàn về quy định chuyển nhóm nợ và tài sản có rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn và vốn kinh tế đối với ngân hàng thương mại
04/06/2024 08:54 2.258 lượt xem
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích luật viết và phương pháp so sánh trong luật học để làm rõ một số bất cập của quy định về chuyển nhóm nợ, tài sản có rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn và vốn kinh tế trong đánh giá mức đủ vốn tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Tác động của nghiên cứu - phát triển, môi trường - xã hội - quản trị đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Tác động của nghiên cứu - phát triển, môi trường - xã hội - quản trị đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
15/05/2024 07:56 5.207 lượt xem
Với sự phát triển không ngừng của công nghệ số đang bùng nổ trong kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) được xem là chiến lược quan trọng với doanh nghiệp (trong đó có ngân hàng) để duy trì tính cạnh tranh, R&D cho phép các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới mà đối thủ khó có thể sao chép được, bên cạnh đó, quy trình tạo ra sản phẩm mới, cũng như công năng của sản phẩm mang lại đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong tiến trình phát triển bền vững.
Thực thi bộ tiêu chuẩn ESG trong hoạt động của ngân hàng thương mại: Tổng quan lí luận và hàm ý cho Việt Nam
Thực thi bộ tiêu chuẩn ESG trong hoạt động của ngân hàng thương mại: Tổng quan lí luận và hàm ý cho Việt Nam
07/05/2024 08:10 1.823 lượt xem
Mục tiêu của bài nghiên cứu này là đề xuất các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy quá trình thực thi bộ tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (Environmental, Social và Governance - ESG) trong hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam.
Lập kế hoạch kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại theo định hướng rủi ro bằng mô hình định lượng
Lập kế hoạch kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại theo định hướng rủi ro bằng mô hình định lượng
02/05/2024 09:10 1.764 lượt xem
Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính để xác định yếu tố tác động chính gây ra các rủi ro trọng yếu trong ngân hàng thương mại (NHTM) (đo bằng lỗi) dẫn đến tổn thất trong kinh doanh (mức độ thiệt hại quy ra bằng tiền). Nghiên cứu sử dụng mô hình tối ưu hóa tuyến tính theo dữ liệu nội bộ phát sinh tại từng đơn vị để lập kế hoạch kiểm toán theo định hướng rủi ro.
Mối quan hệ giữa sự phát triển của thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh tế đối ngoại - Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam
Mối quan hệ giữa sự phát triển của thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh tế đối ngoại - Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam
26/04/2024 08:20 9.753 lượt xem
Việc quản lý và phát triển thị trường ngoại tệ Việt Nam vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, vừa phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập của nền kinh tế hiện nay nhằm mục tiêu xây dựng một thị trường ngoại tệ hoạt động hiệu quả, an toàn, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển ngành Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Phân loại trong xử lí nợ xấu tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Phân loại trong xử lí nợ xấu tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
01/04/2024 11:21 1.754 lượt xem
Nghiên cứu phân biệt ba nhóm doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, gồm: Doanh nghiệp không có nợ xấu, doanh nghiệp có nợ xấu còn hoạt động và doanh nghiệp có nợ xấu dừng hoạt động.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

82,800

85,300

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

82,800

85,300

Vàng SJC 5c

82,800

85,320

Vàng nhẫn 9999

82,500

84,300

Vàng nữ trang 9999

82,400

83,800


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,130 25,463 26,096 27,527 31,372 32,705 162.40 171.84
BIDV 25,160 25,463 26,357 27,573 31,833 32,763 164.28 172.22
VietinBank 25,160 25,463 26,202 27,402 31,558 32,568 164.56 172.31
Agribank 25,160 25,463 26,224 27,429 31,557 32,648 164.39 172.35
Eximbank 25,110 25,463 26,297 27,191 31,655 32,689 165.71 171.37
ACB 25,110 25,463 26,389 27,296 31,879 32,843 165.63 172.18
Sacombank 25,065 25,415 26,342 27,317 31,715 32,880 165 172.97
Techcombank 25,152 25,463 26,204 27,556 31,466 32,813 162.48 175
LPBank 25,160 25,463 26,603 27,610 32,050 32,575 166.24 173.36
DongA Bank 25,190 25,463 26,360 27,190 31,730 32,670 163.80 171.20
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?