Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác và một số kiến nghị hoàn thiện
10/07/2023 6.959 lượt xem
Tóm tắt: Luật Hợp tác xã năm 2012 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ đề nghị xây dựng dự thảo sửa đổi Luật Hợp tác xã 2012 (dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác) nhằm tạo hành lang pháp lí thông thoáng, loại bỏ các quy định rào cản hợp tác xã tham gia thị trường, phát triển kinh tế trong xu hướng hội nhập. Trong những điểm mới của dự thảo sửa đổi Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bổ sung một chương về Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác. Bài viết tập trung vào phân tích chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức kinh tế hợp tác và từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
 
Từ khóa: Tổ chức kinh tế hợp tác, chính sách, hợp tác xã.
 
SUPPORT POLICIES FOR COOPERATIVE ECONOMIC ORGANIZATIONS 
AND COMPLETE RECOMMENDATIONS
 
Abstract: The 2012 Cooperative Law institutionalized the Party’s policies on continuing to innovate and improve collective economic efficiency. However, in addition to the results achieved, after nearly 10 years of implementation, the Law on Cooperatives in 2012 has revealed a number of shortcomings and limitations that need to be studied, amended and perfected to be more suitable to reality. The Ministry of Planning and Investment has submitted to the Government a proposal to develop the draft amendments to the Law on Cooperatives 2012 (Draft Law on Cooperative Economic Organizations) in order to create an open legal corridor, eliminate regulations that prevent cooperatives from participating in the market, and develop the economy in the integration trend. In the new points of the draft amendments to the Law on Cooperatives 2012 added a chapter on policies to support cooperative economic organizations. The article focuses on analyzing and clarifying the issue of completing support policies for cooperative economic organizations and thereby making some complete recommendations.
 
Keywords: Cooperative economic organizations, policies, cooperatives.
 
1. Đặt vấn đề 
 
Việc thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bước đầu làm thay đổi nhận thức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về vai trò quan trọng của phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện Luật Hợp tác xã cho thấy, khu vực kinh tế tập thể còn chưa đa dạng về mô hình, quy mô nhỏ và nguồn lực hạn chế. Nguyên nhân một phần xuất phát từ công tác quản lí, hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế tập thể còn nhiều bất cập. Do đó, việc Quốc hội xem xét, sửa đổi Luật Hợp tác xã trong đó bổ sung một chương về Chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức kinh tế hợp tác là cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
 


Kinh tế hợp tác luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, qua đó góp phần xây dựng nông thôn mới... (ảnh minh họa, nguồn Internet) 
 
2. Các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước đối với các tổ chức kinh tế hợp tác
 
2.1. Chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức kinh tế hợp tác trong Luật Hợp tác xã năm 2012
 
Kinh tế hợp tác luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tại Việt Nam, kinh tế hợp tác hay còn gọi là hợp tác xã được hình thành, hoạt động khá sớm, tuy nhiên bắt đầu từ Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể là bước ngoặt đánh dấu sự phát triển của loại hình kinh tế này gắn với sự đổi mới, hội nhập kinh tế thị trường, phát triển kinh tế quốc dân. Nghị quyết số 13-NQ/TW đặt ra mục tiêu sớm đưa kinh tế hợp tác xã thoát khỏi yếu kém, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỉ trọng ngày càng lớn hơn. Để triển khai thực hiện mục tiêu trên, với sự nỗ lực các cấp, các ngành đã xây dựng hàng loạt cơ chế, chính sách đối với kinh tế hợp tác tạo động lực cho hợp tác xã phát triển, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 13-NQ/TW được hoàn thiện dần, nhiều văn bản hướng dẫn bổ sung những cơ chế, chính sách đặc thù được các cấp, các ngành quan tâm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện. Trong đó, Luật Hợp tác xã năm 2003 và Luật Hợp tác xã năm 2012 được Quốc hội thông qua đã tạo hành lang pháp lí đầy đủ, chặt chẽ, khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hợp tác. 
 
Điều 6 Luật Hợp tác xã năm 2012 đã có các quy định chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; ứng dụng khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới; tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội; thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Những chính sách trên được hướng dẫn tại Điều 24 Nghị định số 193/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã, cụ thể:
 
Đối với chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, Nhà nước hỗ trợ kinh phí đào tạo chính quy, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, kĩ thuật đối với cán bộ quản lí hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, thành viên hợp tác xã.
 
Đối với chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tham gia các triển lãm trong và ngoài nước; tổ chức các hội chợ, triển lãm dành riêng cho khu vực hợp tác xã; xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, xây dựng và triển khai cổng thông tin điện tử, sàn giao dịch thương mại điện tử cho các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
 
Đối với chính sách ứng dụng khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ cấp quốc gia và cấp tỉnh hằng năm dành một phần kinh phí hỗ trợ các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đổi mới, ứng dụng công nghệ và thông báo kết quả thực hiện cho cơ quan quản lí nhà nước về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Nhà nước hỗ trợ nghiên cứu khoa học công nghệ từ nguồn kinh phí sự nghiệp nghiên cứu khoa học công nghệ đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có dự án nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
 
Đối với chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh; hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, địa bàn nông thôn được ưu đãi về lãi suất và bảo lãnh tín dụng từ quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; ưu tiên vay vốn tín dụng từ ngân hàng phát triển và các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật; được vay ưu đãi theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
 
Đối với chính sách tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có đủ năng lực được ưu tiên tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội như: Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn và quản lí các công trình sau khi hoàn thành, kể cả các công trình chợ và công trình hạ tầng phục vụ phát triển cụm công nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn; các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác trên địa bàn phù hợp với khả năng của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
 
Đối với chính sách thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, sáng lập viên hợp tác xã được cung cấp miễn phí thông tin, tư vấn, tập huấn về quy định pháp luật hợp tác xã trước khi thành lập hợp tác xã. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được hỗ trợ tư vấn xây dựng điều lệ, hướng dẫn và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng kí và tổ chức hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
 
Với những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế hợp tác đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Theo báo cáo của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, năm 2022, cả nước đã thành lập mới được 2.187 hợp tác xã, đạt 109,35% chỉ tiêu kế hoạch năm 20221. Hiện tại, cả nước có 29.021 hợp tác xã, trong đó có 19.384 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm 68,8%, 8.456 hợp tác xã phi nông nghiệp, chiếm 29,1%; 1.181 quỹ tín dụng nhân dân, chiếm 4,1%2. Các hợp tác xã thu hút khoảng 6,4 triệu thành viên với 2,6 triệu lao động. Tổng giá trị tài sản của các hợp tác xã khoảng 187,75 nghìn tỉ đồng, bình quân 6,5 tỉ đồng. Cả nước hiện có 125 liên hiệp hợp tác xã, tạo việc làm cho 39.750 lao động3. Doanh thu bình quân của các liên hiệp hợp tác xã là 258 tỉ đồng/năm, lãi bình quân 8,9 tỉ đồng/năm4.
 
Sự phát triển của kinh tế tập thể trong bối cảnh mới đã góp phần khẳng định vai trò to lớn trong việc xây dựng chính sách hỗ trợ phù hợp của Nhà nước, tạo động lực mạnh mẽ cho kinh tế tập thể phục hồi và phát triển, qua đó, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế. Số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác được thành lập mới và hộ cá thể, cá nhân tham gia thành viên tăng khá ở hầu hết các tỉnh, thành phố, nhất là lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn cho thấy được mô hình kinh tế tập thể phù hợp với nhu cầu tổ chức sản xuất của người dân, thực hiện liên kết chuỗi giá trị với các doanh nghiệp, tạo việc làm cho thành viên và người lao động, đóng góp tích cực cho xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững.
 
2.2. Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác trong dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác
 
Thực tế cho thấy, tiềm năng phát triển các tổ chức kinh tế tập thể rất lớn nếu Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiếp cận được các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai Luật Hợp tác xã năm 2012, các văn bản hướng dẫn thi hành luật và các quyết định của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020, giai đoạn 2021 - 2026. Mặc dù Nhà nước, Chính phủ đã ban hành và tổ chức nhiều chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, tuy nhiên, quá trình triển khai còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho kinh tế tập thể tuy nhiều nhưng dàn trải, thiếu tập trung, thiếu nguồn lực và chưa được khả thi. 
 
Dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển hợp tác xã ở nước ta, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với xu thế vận động và phát triển của các tổ chức kinh tế hợp tác trong bối cảnh mới. Dự thảo đã dành chương XIII quy định về chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức kinh tế hợp tác. Theo đó, dự thảo quy định 8 nhóm chính sách hỗ trợ của Nhà nước: Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, thông tin, tư vấn; hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; hỗ trợ xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, đầu tư; hỗ trợ tín dụng, bảo hiểm; hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất; ưu đãi thuế, phí và lệ phí; hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng, trang thiết bị; hỗ trợ về kiểm toán. 
 
Các chính sách hỗ trợ kinh tế tập thể được nêu ra trong dự thảo Luật khá toàn diện, bao phủ các phương diện liên quan đến kinh tế tập thể, từ hỗ trợ nâng cao nhận thức, năng lực quản lí điều hành hợp tác xã, đến các hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển liên kết chuỗi giá trị, ngành hàng, hỗ trợ nghiên cứu thị trường sản phẩm, tập trung quan tâm tích tụ đất để sản xuất quy mô lớn, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm cho các tổ chức kinh tế tập thể. Dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác đã quy định chi tiết và bao quát hơn các chính sách hỗ trợ. Điều này tạo nên hành lang pháp lí thông thoáng cho việc mở rộng tiếp cận các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đến các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã… Dự thảo cũng bổ sung nhiều nội dung mới để tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác phát triển, trong đó có chế độ kiểm toán. Đây là điểm đáng lưu ý vì kiểm toán không chỉ là công cụ làm minh bạch hóa tài chính, kiểm soát việc chấp hành quy định pháp luật, mà còn là công cụ hỗ trợ, tư vấn cho hợp tác xã làm đúng theo quy định của pháp luật.
 
3. Thách thức khi thực hiện chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác
 
Cùng với những cơ hội đặt ra khi mở rộng quy định về các chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác thì thực tế vẫn đặt ra nhiều khó khăn, thách thức trong việc thực hiện. Nhiều hợp tác xã chưa tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật. Các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lí, phân phối trong nhiều hợp tác xã còn biểu hiện xa rời bản chất và các giá trị của kinh tế tập thể. Nhà nước đã có các chính sách về vốn, tín dụng cho hợp tác xã nhưng chưa thật sự mang lại hiệu quả. Số lượng hợp tác xã được tiếp cận nguồn vốn còn rất ít và khó khăn. Cụ thể là vướng mắc về tính thống nhất, hiệu lực của các quy định pháp luật chưa cao, dẫn đến đóng góp vào GDP của nền kinh tế chưa hiệu quả, sản xuất, kinh doanh và thu nhập của người lao động đã cải thiện nhưng còn thấp. Ngoài ra, chuyển đổi số là một nội dung mới nên các cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã để thực hiện chuyển đổi số còn hạn chế. Các nghị quyết, đề án phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã chưa lồng ghép với các tiêu chí về chuyển đổi số cũng như đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế tập thể chưa đồng đều, chưa thành thạo các kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin nên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; chưa đi sâu vào việc lồng ghép chuyển đổi số vào công tác quản trị, điều hành sản xuất, kinh doanh, do vậy, việc tiếp cận các nguồn thông tin, chính sách hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước vẫn còn chậm dẫn đến khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã chưa triệt để số hóa quá trình sản xuất, nuôi trồng, sử dụng các công nghệ thanh toán điện tử trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 
 
Không chỉ vậy, số hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã xây dựng được thương hiệu sản phẩm chưa nhiều, giá trị để xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế và chưa chủ động ứng dụng quản lí trên phần mềm từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm; các sản phẩm đưa lên sàn thương mại điện tử còn ít. Năng lực nội tại của các tổ chức kinh tế tập thể còn phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà nước, ít có khả năng tự huy động nguồn lực từ thị trường. Việc tháo gỡ khó khăn về vốn, đất đai xây dựng trụ sở và cơ sở sản xuất chế biến còn thiếu quy hoạch, chưa được giải quyết kịp thời. 
 
4. Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác
 
Nhìn chung, dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác đã chú trọng hơn khi quy định về các chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác thể hiện ở việc phân chia rõ ràng từng nhóm chính sách hỗ trợ, quy định bao quát các vấn đề hỗ trợ trong từng chính sách để áp dụng pháp luật một cách hiệu quả và đồng bộ. Tuy nhiên, từ thực tế 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 thì việc một số chính sách hỗ trợ thực hiện chưa thực sự hiệu quả, tính khả thi chưa cao mặc dù quy định pháp luật đưa ra rất khả thi. Xuất phát từ đó, bài viết đưa ra một số kiến nghị nhằm mục tiêu hoàn thiện chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác như sau:
 
Một là, vấn đề phát triển nguồn nhân lực: Ngoài việc quy định về việc tập trung giáo dục đào tạo chuyên sâu hoặc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, xây dựng, triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng có cấp chứng chỉ về năng lực thì Luật cần quy định thêm chế độ ưu đãi, tuyển chọn cho các tổ chức kinh tế hợp tác người lao động có chất lượng cao. Đây chính là nguồn nhân lực cốt lõi trong việc phát triển kinh tế hợp tác trên nền tảng hội nhập, hiện đại hóa. Đồng thời, cần có hướng dẫn rõ ràng về vấn đề hỗ trợ lương, thưởng và phúc lợi cho người lao động có chất lượng cao làm việc tại các tổ chức kinh tế hợp tác5. Trên thực tế, mặc dù Luật quy định về hỗ trợ lương, thưởng cho nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng hệ số lương, thưởng nhận được chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân lực lao động chất lượng cao cho các hợp tác xã, liên minh hợp tác xã. Ngoài ra, Nhà nước cần có cơ chế, tạo điều kiện cho các địa phương liên kết với các trường đại học, cao đẳng tổ chức tuyển sinh viên phục vụ công tác tại các hợp tác xã sau khi tốt nghiệp. Bởi thực tế chính sách hỗ trợ thu hút cán bộ trẻ vào làm việc tại hợp tác xã của Nhà nước mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của cán bộ trẻ có trình độ đại học, cao đẳng hiện nay.
 
Hai là, về việc hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Kiến nghị quy định thêm những cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trực tiếp xử lí, hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác để hạn chế tình trạng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã… cần hỗ trợ nhưng chưa được xử lí kịp thời do chồng chéo cơ quan. Ngoài ra, việc quy định hỗ trợ cung cấp thiết bị đầu cuối và các phần mềm, ứng dụng dùng chung cần phải được xem xét và hướng dẫn kĩ hơn nhằm mục tiêu chuyển đổi số toàn diện, khắc phục tình trạng các tổ chức kinh tế hợp tác quy mô nhỏ, nguồn vốn cho đầu tư, kinh doanh hạn hẹp, nguồn nhân lực tại chỗ hầu như không đáp ứng được những điều kiện về kĩ năng số. Bên cạnh đó, pháp luật hiện nay còn thiếu những quy định, cơ chế thực hiện chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc thù áp dụng cho đối tượng đặc thù hợp tác xã liên quan đến chuyển đổi. Các hợp tác xã còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư phát triển và thông tin liên quan đến chuyển đổi số.
 
Ba là, về vấn đề hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất: Cần xem xét quy định về tổ chức kinh tế hợp tác được Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét cho thuê mặt bằng, quỹ đất công ích với giá ưu đãi để xây dựng các công trình như trụ sở, nhà kho, cửa hàng mua bán, trưng bày, giới thiệu sản phẩm. Cụ thể, số lượng quỹ đất công ích tại địa phương có giới hạn trong khi đó nhu cầu mở rộng diện tích, xây dựng nhà kho, nhà xưởng, trụ sở để đáp ứng nhu cầu của thị trường, tạo niềm tin đối với doanh nghiệp trong và ngoài nước là khá nhiều. Song đến nay, hầu hết các địa phương chưa bố trí được quỹ đất hoặc vị trí thuận tiện cho việc sản xuất kinh doanh của hợp tác xã6. Vấn đề này dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác và Luật Đất đai (sửa đổi) cần quy định rõ ràng và đưa ra những giải pháp thuận tiện nhất để có thể hỗ trợ về mặt bằng cho các tổ chức kinh tế hợp tác. Về phía các địa phương, cần chủ động cân đối quỹ đất chung; trong đó, quan tâm bổ sung quy hoạch diện tích đất để sử dụng vào mục đích thực hiện các dự án đầu tư phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã.
 
5. Kết luận
 
Nhìn chung, dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác hay dự thảo sửa đổi Luật Hợp tác xã năm 2012 bảo đảm cụ thể, đơn giản hơn, phù hợp nhận thức, nhu cầu và giải quyết được khó khăn của các hợp tác xã hiện nay. Không chỉ đơn thuần là việc tìm tên gọi phù hợp, việc sửa đổi, bổ sung Luật tạo ra bước đột phá về tư duy, cách nhìn nhận để thúc đẩy kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển tương xứng tiềm năng. Việc bổ sung thêm chương về Chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức kinh tế hợp tác trong dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác là bước tiến lớn điều chỉnh phù hợp hơn, đáp ứng yêu cầu quản lí thực tiễn, tạo hành lang pháp lí cho lĩnh vực hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể trong điều kiện hội nhập.
 
1 Nhật Hạ (2022), Cả nước có hơn 29.000 hợp tác xã, thu hút gần 7 triệu lao động, Báo Đầu tư Online, truy cập ngày 30/12/2022, https://baodautu.vn/ca-nuoc-co-hon-29000-hop-tac-xa-thu-hut-gan-7-trieu-lao-dong-d177367.html
2 Nguyễn Kiểm (2022), Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong giai đoạn mới, Báo Quân đội Nhân dân, truy cập ngày 30/12/2022, https://www.qdnd.vn/kinh-te/tin-tuc/phat-trien-kinh-te-tap-the-hop-tac-xa-trong-giai-doan-moi-710378
3  Vân Khánh (2022), Đẩy mạnh tuyên truyền về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong giai đoạn mới, Tạp chí Tuyên giáo, truy cập ngày 30/12/2022, https://tuyengiao.vn/nhip-cau-tuyen-giao/ban-tuyen-giao-tw/day-manh-cong-tac-tuyen-truyen-ve-phat-trien-kinh-te-tap-the-hop-tac-xa-trong-giai-doan-moi-141664
4 Thục Quyên (2022), Thực trang phát triển kinh tế hợp tác xã trong thời gian qua, Tạp chí Tài chính Online, truy cập ngày 30/12/2022, https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-phat-trien-kinh-te-hop-tac-xa-trong-thoi-gian-qua.html
5 Điểm c khoản 1 Điều 114 dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác.
6 Huyền Trang (2022), Để hợp tác xã không vướng rào cản trong tiếp cận đất đai, VnBusiness, https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/de-htx-khong-vuong-rao-can-trong-tiep-can-dat-dai-1083261.html

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 
1. Luật Hợp tác xã năm 2012.
2. Dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác.
3. Nhật Hạ (2022), Cả nước có hơn 29.000 hợp tác xã, thu hút gần 7 triệu lao động, Báo đầu tư Online, truy cập ngày 30/12/2022, https://baodautu.vn/ca-nuoc-co-hon-29000-hop-tac-xa-thu-hut-gan-7-trieu-lao-dong-d177367.html
4. Nguyễn Kiểm (2022), Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong giai đoạn mới, Báo Quân đội nhân dân, truy cập ngày 30/12/2022, https://www.qdnd.vn/kinh-te/tin-tuc/phat-trien-kinh-te-tap-the-hop-tac-xa-trong-giai-doan-moi-710378
5. Vân Khánh (2022), Đẩy mạnh tuyên truyền về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong giai đoạn mới, Tạp chí Tuyên giáo, truy cập ngày 30/12/2022, https://tuyengiao.vn/nhip-cau-tuyen-giao/ban-tuyen-giao-tw/day-manh-cong-tac-tuyen-truyen-ve-phat-trien-kinh-te-tap-the-hop-tac-xa-trong-giai-doan-moi-141664
6. Thục Quyên (2022), Thực trang phát triển kinh tế hợp tác xã trong thời gian qua, Tạp chí Tài chính Online, truy cập ngày 30/12/2022, https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-phat-trien-kinh-te-hop-tac-xa-trong-thoi-gian-qua.html
7. Huyền Trang (2022), Để hợp tác xã không vướng rào cản trong tiếp cận đất đai, VnBusiness, https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/de-htx-khong-vuong-rao-can-trong-tiep-can-dat-dai-1083261.html

 
ThS. Đỗ Thị Lan Anh (Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh)
TS. Nguyễn Thị Thư, ThS. Trần Linh Huân, Đặng Thị Ngọc Hà (Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
01/05/2024 369 lượt xem
Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật và quy chế nội bộ của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) về hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ bảo toàn) và thực tiễn thi hành từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo toàn.
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 996 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 684 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 973 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.434 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.947 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.265 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 7.439 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.328 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.379 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 9.739 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.384 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.747 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.342 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 4.462 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?