Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán và một số kiến nghị hoàn thiện
Tóm tắt: Bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán là vấn đề quan trọng và cấp thiết bởi điều này giúp đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư chứng khoán khi sử dụng dịch vụ môi giới. Hiện nay, pháp luật chứng khoán đã có sự điều chỉnh về vấn đề này, tuy nhiên trên thực tế thi hành vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định, điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán, chỉ ra thực trạng hạn chế, bất cập trong quy định và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Môi giới chứng khoán, nhà đầu tư, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, thực trạng, hoàn thiện.
THE LAW ON PROTECTING THE INTERESTS OF INVESTORS IN SECURITIES BROKERAGE ACTIVITIES: CURRENT SITUATION AND SOME RECOMMENDATIONS FOR COMPLETION
Abstract: Protecting investors' interests in securities brokerage activities is an important and urgent issue because this helps ensure the legitimate interests of securities investors when using brokerage services. Currently, the securities law has been adjusted, however, in fact, there are still certain limitations and inadequacies, which significantly affect the legitimate interests of investors. Starting from there, the article focuses on clarifying the need to protect the interests of investors in securities brokerage activities, assessing the current situation of limitations and inadequacies in regulations and law enforcement on protecting investors' interests in securities brokerage activities, thereby proposing some recommendations for completion on this issue.
Keywords: Stock brokerage, investors, protection of investors' interests, current situation, completion.
1. Đặt vấn đề
Vấn đề bảo vệ nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư chứng khoán là một trong những mục tiêu quan trọng và cơ bản nhất mà cơ quan quản lý nhà nước hướng đến, nhằm phát triển thị trường chứng khoán ổn định, công bằng và bền vững. Tại Việt Nam, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư được ghi nhận là một nguyên tắc của pháp luật chứng khoán. Hệ thống pháp luật cũng từng bước được hoàn thiện để tạo khung pháp lý và cơ chế để bảo vệ nhóm chủ thể này trong hoạt động kinh doanh dịch vụ của công ty chứng khoán nói riêng và trong thị trường chứng khoán nói chung. Với sự ra đời của Luật Chứng khoán năm 2019, Thông tư số 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về hoạt động của công ty chứng khoán (Thông tư số 121/2020/TT-BTC) đã thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong việc xây dựng các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của thị trường chứng khoán, hoạt động của công ty chứng khoán; đặc biệt là hàng loạt các quy định nâng cao tiêu chuẩn, chuẩn mực hành xử trên thị trường chứng khoán góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Mặc dù vậy, mức độ bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thật sự đảm bảo. Trong thời gian gần đây, tình hình vi phạm pháp luật của công ty chứng khoán diễn ra có xu hướng gia tăng về số lượng, tính chất phức tạp và mức độ nghiêm trọng, gây ra những tác động tiêu cực đến quyền lợi nhà đầu tư. Trong khi đó, quy định về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh dịch vụ của công ty chứng khoán, trong đó có dịch vụ môi giới chứng khoán vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, điều này trực tiếp gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ đó cho thấy, việc nghiên cứu, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành cũng như đề xuất những kiến nghị phù hợp nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán là một việc làm cần thiết, quan trọng trong bối cảnh hiện nay.
Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư được ghi nhận là một nguyên tắc của pháp luật chứng khoán (Nguồn ảnh: Internet)
2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một trong các nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Cụ thể, khoản 29 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 quy định: “Môi giới chứng khoán là việc làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng”. Đây là ngành nghề giúp khách hàng là các nhà đầu tư vạch ra những hướng giao dịch sinh lợi dựa trên việc tìm hiểu, đánh giá, tổng hợp, kiểm tra thông tin thị trường chứng khoán trong và ngoài nước; chứng khoán và trái phiếu. Như vậy, môi giới chứng khoán có thể hiểu là hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong đó công ty chứng khoán làm trung gian đại diện cho khách hàng tiến hành mua hoặc bán chứng khoán cho khách hàng và được hưởng hoa hồng từ hoạt động đó. Hoạt động môi giới chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng bởi thông qua hoạt động môi giới sẽ giúp kết nối khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư, cung cấp cho khách hàng báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư; giúp kết nối các nhà đầu tư với nhau, góp phần phát triển thị trường chứng khoán và nền kinh tế; giảm thiểu chi phí giao dịch nhờ lợi thế chuyên môn hóa; phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, hoạt động môi giới chứng khoán cũng góp phần cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường. Các thông tin có thể cung cấp bao gồm cổ phiếu, thông tin giao dịch, tin tức của tổ chức phát hành, dữ liệu ngành và doanh nghiệp. Từ đó, cơ quan quản lý thị trường có cơ sở dữ liệu tham khảo để có các biện pháp hợp lý điều chỉnh thị trường.
Dưới góc độ kinh tế, nhà đầu tư chứng khoán được hiểu là những người bỏ tiền mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Khác với việc mua bán các hàng hóa thông thường, tư cách nhà đầu tư không bắt đầu phát sinh khi họ thực hiện hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mà tư cách này xuất hiện ngay khi làm các thủ tục mở tài khoản tại công ty chứng khoán và sẽ chấm dứt khi làm thủ tục đóng tài khoản. Khi tham gia đầu tư chứng khoán, quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán sẽ gồm quyền được hưởng các lợi ích vật chất từ việc mua, bán, nắm giữ chứng khoán, quyền tham gia, giao dịch trên thị trường, quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia quản trị điều hành công ty niêm yết, quyền khởi kiện khi quyền lợi bị xâm phạm… nhà đầu tư sẽ được hưởng đầy đủ quyền lợi khi bắt đầu giao dịch trên thị trường chứng khoán và sẽ chấm dứt khi chuyển nhượng hết chứng khoán cho chủ thể khác và làm thủ tục đóng tài khoản.
Khi tham gia vào đầu tư chứng khoán, nhiều nhà đầu tư không có kinh nghiệm, hạn chế về kiến thức chuyên môn hoặc thời gian nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu tư và đưa ra các quyết định phù hợp với thị trường. Vì vậy, các nhà đầu tư thay vì tự đầu tư thời gian, công sức để nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng thì họ sẽ tìm kiếm sự trợ giúp từ các môi giới chứng khoán như một người bạn đồng hành để quá trình đầu tư được thuận lợi hơn. Hơn nữa, đầu tư chứng khoán là một lĩnh vực có nhiều cơ hội để gia tăng thu nhập nhưng rủi ro luôn bên cạnh, nên việc “quá hưng phấn” khi lãi to hoặc “quá bi quan” khi thua lỗ chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư. Do đó, việc có một người bạn đồng hành là môi giới chứng khoán sẽ giúp các nhà đầu tư tỉnh táo hơn, bởi vì họ sẽ là người “kìm hãm" bớt đà hưng phấn quá mức hay cùng đưa ra các giải pháp khi gặp thua lỗ. Tuy nhiên, khi nhà đầu tư đặt cược mình vào các nhà môi giới chứng khoán cũng tiềm ẩn rủi ro, bởi không phải đội ngũ môi giới chứng khoán nào cũng đảm bảo chất lượng và hiệu quả tư vấn. Thực tế, một bộ phận không nhỏ các nhà môi giới làm việc chỉ vì lợi ích cá nhân, vì hoa hồng, vì để hoàn thành chỉ tiêu bằng mọi giá mà không quan tâm đến việc nhà đầu tư lời hay lỗ, bởi thường chỉ có nhà đầu tư là mất tiền. Điều này sẽ gây ra nhiều bất lợi và thiệt hại cho nhà đầu tư nếu không có cơ chế ngăn chặn, kiểm soát hiệu quả, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Mặt khác, nhà đầu tư đóng vai trò rất quan trọng trong sự tạo lập, phát triển thị trường chứng khoán nói chung và sự tồn tại của công ty chứng khoán nói riêng. Nhà đầu tư cung cấp vốn cho các doanh nghiệp và nền kinh tế bằng cách chuyển hóa các nguồn vốn nhàn rỗi của mình thành nguồn vốn trung và dài hạn đem vào sản xuất, kinh doanh. Hoạt động mua, bán chứng khoán của nhà đầu tư tạo tính thanh khoản cho thị trường và thu hút nhà đầu tư khác tham gia. Do đó, việc bảo vệ nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh dịch vụ của công ty chứng khoán, trong đó có hoạt động môi giới bằng hệ thống pháp luật nghiêm minh, cơ chế quản lý hiệu quả để tạo ra môi trường hoạt động minh bạch và một sân chơi công bằng cho các nhà đầu tư là hết sức cần thiết.
3. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán
3.1. Mở tài khoản giao dịch chứng khoán
Theo quy định của pháp luật, để thực hiện giao dịch mua, bán chứng khoán trên thị trường tập trung, nhà đầu tư phải mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán và công ty chứng khoán có trách nhiệm mở tài khoản cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng mở tài khoản. Hợp đồng mở tài khoản là bằng chứng pháp lý xác lập mối quan hệ giữa khách hàng và công ty chứng khoán. Nội dung hợp đồng phải đảm bảo có đầy đủ những nội dung bắt buộc được quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư số 121/2020/TT-BTC. Theo đó, nội dung sẽ bao gồm các điều khoản thỏa thuận về cách thức nhận lệnh của công ty; tỉ lệ ký quỹ đặt mua/bán chứng khoán được áp dụng; thỏa thuận về lãi suất trên số dư tiền gửi giao dịch chứng khoán; thời hạn, cách thức xử lý tài sản trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán đúng hạn; thỏa thuận về thời gian, phương thức chuyển đổi ngoại tệ sang đồng Việt Nam; các điều khoản về quyền và nghĩa vụ các bên; các điều khoản về bồi thường thiệt hại, giải quyết tranh chấp… Nếu công ty chứng khoán giao kết hợp đồng với khách hàng mà thiếu một trong các nội dung cơ bản này thì công ty chứng khoán đã vi phạm quy định về mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho khách hàng và có thể bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 26 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ.
Thực tế, khi khách hàng mở tài khoản để giao dịch tại một công ty chứng khoán, hợp đồng mở tài khoản giao dịch sẽ kiêm giấy đề nghị mở tài khoản, đăng ký dịch vụ giao dịch trực tuyến, các dịch vụ khác, kể cả hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ, tài khoản giao dịch chứng khoán phái sinh cũng được tích hợp chung vào hợp đồng này. Bên cạnh đó, khách hàng còn điền thông tin vào “Bảng kê khai thông tin bổ sung”, trong đó, nhà đầu tư cung cấp các thông tin như kinh nghiệm, kiến thức về đầu tư, mức độ chấp nhận rủi ro, mục tiêu đầu tư, tài khoản tại công ty chứng khoán khác, tên công ty đại chúng mà khách hàng thuộc đối tượng công bố thông tin… Điều này là phù hợp với quy định của pháp luật về nghĩa vụ thu thập thông tin của công ty chứng khoán khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng1. Tuy nhiên, hiện nay, việc quy định về mở tài khoản giao dịch chứng khoán có một số bất cập như sau:
Một là, một trong những nội dung bắt buộc trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán là nội dung “Tỉ lệ ký quỹ đặt mua/bán chứng khoán được áp dụng”. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch ký quỹ, là cơ sở để công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ. Tuy nhiên, hiện nay, giao dịch ký quỹ đã được hướng dẫn cụ thể ở Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ ban hành kèm theo Quyết định số 87/QĐ-UBCK ngày 25/01/2017 của Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán. Theo Điều 12 Quy chế này, khách hàng và công ty chứng khoán phải ký kết một hợp đồng riêng là hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ (cũng đồng thời là hợp đồng tín dụng cho các khoản vay trên tài khoản giao dịch ký quỹ) chứ không sử dụng tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường để thực hiện giao dịch ký quỹ. Quy chế cũng quy định rõ những nội dung tối thiểu của hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ như là tỉ lệ ký quỹ ban đầu, cách xác định giá trị chứng khoán thế chấp, tỉ lệ ký quỹ duy trì, hạn mức cho vay, lãi suất cho vay, quy định bảo vệ quyền lợi các bên ký hợp đồng... Do đó, việc quy định hợp đồng mở tài khoản giao dịch bắt buộc có nội dung về “Tỉ lệ ký quỹ đặt mua/bán chứng khoán được áp dụng” là không cần thiết, vô hình trung tạo sự chồng chéo nếu có sự khác nhau về thỏa thuận này trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch thông thường và tài khoản giao dịch ký quỹ. Chính sự mâu thuẫn đó có thể dẫn đến công ty chứng khoán khai thác để xâm phạm quyền và lợi ích của nhà đầu tư.
Hai là, một nội dung bắt buộc khác trong hợp đồng mở tài khoản về “Thỏa thuận về lãi suất trên số dư tiền gửi giao dịch chứng khoán”. Theo các tác giả, nội dung này là chưa hợp lý. Bởi vì, bản chất số tiền trong tài khoản của nhà đầu tư là tiền của nhà đầu tư, công ty chứng khoán là chủ thể được ủy quyền để sử dụng số tiền này mua, bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng. Công ty chứng khoán có nghĩa vụ quản lý tách bạch tiền, chứng khoán của khách hàng, không được lạm dụng tiền của khách hàng dưới mọi hình thức. Do đó, công ty chứng khoán không thể sử dụng tiền này vào hoạt động kinh doanh của mình để mang lại lợi nhuận. Về bản chất, việc công ty chứng khoán nhận tiền của khách hàng là hoàn toàn khác so với việc tổ chức tín dụng nhận tiền gửi của khách hàng vào tài khoản đăng ký tại ngân hàng2. Vì vậy, việc yêu cầu công ty chứng khoán trả lãi cho khách hàng là điều bất cập và không phù hợp với nguyên lý hoạt động của việc môi giới chứng khoán.
3.2. Nhận lệnh và thực hiện lệnh giao dịch
Để tránh trường hợp khách hàng không có đủ tiền khi mua chứng khoán hay không có đủ chứng khoán khi bán sẽ dẫn đến rối loạn thị trường chứng khoán và xâm phạm quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư khác, công ty chứng khoán chỉ được thực hiện nhận lệnh của khách hàng khi có đủ 100% tiền, chứng khoán trong tài khoản và phải có các biện pháp cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán của khách hàng khi thực hiện lệnh giao dịch3.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại khá nhiều trường hợp công ty chứng khoán sẵn sàng vì lợi ích mà vi phạm những quy định này và đã bị xử lý4. Sau khi nhận lệnh, nhân viên môi giới có trách nhiệm nhập đầy đủ, chính xác, nhanh chóng nội dung lệnh vào hệ thống kết nối tới Sở Giao dịch chứng khoán để thực hiện giao dịch. Lệnh giao dịch của khách hàng phải được ghi nhận thời gian (ngày, giờ, phút) nhận lệnh. Đặc biệt, nếu có lệnh giao dịch trong hoạt động tự doanh cùng lúc với lệnh khách hàng thì nhân viên môi giới phải ưu tiên lệnh khách hàng trước5.
Pháp luật Việt Nam cũng quy định khá bao quát các trường hợp nhà đầu tư phải thực hiện chào mua công khai6 và hoạt động giao dịch chứng khoán của người nội bộ của công ty đại chúng, người nội bộ của quỹ đại chúng và người có liên quan của người nội bộ là hành vi phải báo cáo cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán và phải công bố thông tin7. Hoạt động chào mua công khai là một trong những hoạt động mua bán đặc biệt theo một cơ chế khác với các giao dịch trên thị trường, người chào mua có thể đạt được một tỉ lệ nhất định để sở hữu và kiểm soát công ty. Tương tự, hoạt động mua bán của các đối tượng đặc biệt cũng có sức ảnh hưởng đến thị trường, nếu các hoạt động mua bán này diễn ra một cách bí mật, không công khai thì sẽ có thể tác động tiêu cực đến thị trường. Do đó, việc quản lý, giám sát chặt chẽ từ khâu đưa ra lời đề nghị chào mua cho đến lúc thực hiện mua và báo cáo, công bố thông tin của các bên sau khi mua sẽ giúp nâng cao tính công khai, minh bạch của thị trường. Quản lý hoạt động chào mua công khai nhằm hướng đến việc bảo vệ các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn xảy ra hàng hoạt hành vi vi phạm quy định trên đã bị phát hiện và xử lý. Nhìn chung, pháp luật đã có quy định, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng tăng cường xử lý nhưng những hành vi vi phạm vẫn lặp đi lặp lại trong thời gian dài. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư cũng như tính công bằng, minh bạch trên thị trường chứng khoán. Do đó, cần có giải pháp kiên quyết hơn để chấm dứt tình trạng này, góp phần giúp thị trường lành mạnh, hoạt động ổn định và phát triển.
3.3. Quản lý tài khoản khách hàng
Về nguyên tắc, công ty chứng khoán phải quản lý tách biệt tiền, chứng khoán của từng khách hàng, của khách hàng với của công ty chứng khoán. Để cụ thể nguyên tắc này, Luật Chứng khoán năm 2019 cũng quy định rõ, tài sản của khách hàng do công ty chứng khoán tiếp nhận và quản lý là tài sản của khách hàng, không phải của công ty chứng khoán; trường hợp công ty chứng khoán giải thể hoặc bị phá sản, tài sản của khách hàng phải được hoàn trả cho khách hàng sau khi trừ đi nghĩa vụ nợ phải trả của khách hàng đối với công ty chứng khoán8.
Pháp luật Việt Nam cũng quy định công ty chứng khoán không trực tiếp nhận và chi trả tiền mặt để giao dịch chứng khoán của khách hàng mà phải thực hiện thông qua ngân hàng thương mại; không được lạm dụng tiền khách hàng dưới mọi hình thức; công ty chứng khoán không được nhận ủy quyền của khách hàng chuyển tiền nội bộ giữa các tài khoản của khách hàng dù các chủ tài khoản chủ động ủy quyền và ký giấy ủy quyền thì công ty chứng khoán cũng không được thực hiện nghiệp vụ này. Pháp luật đặt ra các yêu cầu như vậy nhằm mục đích tránh trường hợp công ty chứng khoán lạm dụng tài khoản của khách hàng bởi vì đã xảy ra nhiều tranh chấp khi công ty chứng khoán sử dụng tài khoản của khách hàng mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước không thể quản lý được. Theo đó, công ty chứng khoán cần phải tôn trọng quyền sở hữu của khách hàng, đặt yếu tố quản trị rủi ro và đạo đức nghề nghiệp lên hàng đầu. Tuy nhiên, qua thực tế áp dụng pháp luật tại Việt Nam, vấn đề quản lý tài khoản của khách hàng tồn tại một số hạn chế như sau:
Một là, công ty chứng khoán huy động vốn từ tiền nhàn rỗi trong tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư để cho vay. Các công ty chứng khoán chạy đua nhau để đáp ứng “cơn khát” margin của thị trường đến mức “cạn vốn” cho dịch vụ này. Bên cạnh phương thức huy động vốn truyền thống như phát hành cổ phiếu, vay vốn từ ngân hàng, một số công ty chứng khoán đã kêu gọi tiền nhàn rỗi trong tài khoản giao dịch của nhà đầu tư. Cụ thể, công ty chứng khoán đã sử dụng các hình thức hợp tác kinh doanh, đầu tư, tiết kiệm tiền gửi… mà bản chất là công ty chứng khoán lấy tiền nhàn rỗi của khách hàng rồi đem cho khách hàng khác vay, bên cho vay thu lãi, bên vay có tiền dư đầu tư, công ty chứng khoán sẽ thu lời dựa trên khoản chênh lệch tiền lãi. Các nhà đầu tư chỉ cần chuyển tiền từ tài khoản giao dịch chứng khoán sang tài khoản tiền gửi tiết kiệm mà không cần bất kỳ hợp đồng hợp tác nào9. Cách huy động vốn này giúp công ty chứng khoán có tiền nhanh hơn, lãi suất thấp hơn đi vay; nhà đầu tư cho vay thì được lãi suất cao hơn gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Tuy nhiên, song hành với lợi ích đó là những rủi ro tiềm ẩn. Đặc biệt là khi thị trường đi xuống, nhà đầu tư đi vay bị “cháy túi”, thua lỗ, nếu công ty chứng khoán có vốn điều lệ “mỏng” sẽ dẫn đến khó khăn trong việc hoàn trả tiền cho nhà đầu tư cho vay.
Hai là, nhân viên môi giới nhận ủy thác quản lý tài khoản của nhà đầu tư cá nhân. Một thực tế khác xảy ra trong vấn đề quản lý tài khoản khách hàng, đó là nhân viên môi giới trong công ty chứng khoán trực tiếp nhận ủy thác đầu tư từ nhà đầu tư cá nhân diễn ra phổ biến10. Cụ thể, nhân viên môi giới thỏa thuận với nhà đầu tư để ủy thác quản lý tài khoản của mình; giao mật khẩu, mã PIN cho nhân viên môi giới để nhân viên tự mình truy cập vào tài khoản của khách hàng và đặt lệnh giao dịch chứng khoán… Việc ủy thác này diễn ra ngày càng phổ biến, bởi một bên có cầu và một bên thì có cung. Nhà đầu tư có tiền nhưng không đủ thời gian, kiến thức, kinh nghiệm để đầu tư; trong khi môi giới là người có thời gian thường xuyên theo dõi thị trường và nếu tự giao dịch thì khả năng cao môi giới sẽ tự chủ được doanh số của mình, đồng thời cũng được chia lợi nhuận hấp dẫn từ khoản đầu tư mà không cần vốn. Các bên có tỉ lệ phân chia lãi lỗ khá đa dạng, chẳng hạn, nếu tỉ lệ lãi/vốn dưới 10% thì không chia lãi, chỉ tính phí uỷ thác; nếu lãi/vốn từ 10 - 20% thì môi giới được hưởng 15% cho phần vượt này; từ 20 - 30% được cộng thêm 20% trên phần vượt ngưỡng mới; lỗ cũng chia như vậy, nếu lỗ/vốn dưới 10% thì khách chịu hết, lỗ từ 10 - 20% thì môi giới chịu lỗ 15% trên phần lỗ11. Tuy nhiên, nếu khả năng tài chính để chịu lỗ của môi giới không đủ để trả hoặc cố tình không trả thì nhà đầu tư phải tự gánh chịu. Một lý do khác mà tình trạng ủy thác này vẫn diễn ra đó là phần lớn tâm lý nhà đầu tư chứng khoán muốn nhanh gọn, thủ tục đơn giản và đôi khi số tiền không lớn nên họ “lười” ủy thác cho tổ chức có chức năng nhận ủy thác. Chỉ vì nhìn vào sự tiện lợi và lợi nhuận mà nhà đầu tư không nhận ra rủi ro về mặt tài chính, rủi ro pháp lý mà mình phải đối mặt.
Việc nhận ủy thác đầu tư thường do chính người hành nghề chứng khoán tự móc nối với khách hàng mà công ty chứng khoán không thể kiểm soát. Mặt khác, nhiều ý kiến cho rằng, bản thân các công ty chứng khoán biết về hình thức nhận ủy thác đầu tư của nhân viên nhưng đa phần đều “nhắm mắt cho qua” bởi vì những lợi ích mà nó mang lại như là giúp công ty có thêm khách hàng, thậm chí là khách hàng lớn mở tài khoản và giao dịch, cũng như tăng cho vay ký quỹ. Tuy nhiên, cũng không thể loại trừ khả năng công ty chứng khoán chủ trương cho nhân viên của mình thỏa thuận riêng với nhà đầu tư nhằm mục đích phân chia lợi nhuận, trốn tránh trách nhiệm mà pháp luật quy định công ty chứng khoán phải thực hiện khi nhận ủy thác quản lý tài khoản giao dịch của khách hàng.
Việc nhân viên môi giới chứng khoán trực tiếp nhận ủy thác quản lý tài khoản giao dịch chứng của khách hàng mà không thông qua hợp đồng giữa công ty chứng khoán và khách hàng là không hợp pháp. Bởi người hành nghề chứng khoán không được sử dụng tiền, chứng khoán trên tài khoản khách hàng khi không được công ty chứng khoán ủy quyền theo sự ủy thác của khách hàng cho công ty chứng khoán bằng văn bản12. Công ty chứng khoán sau khi nhận ủy thác quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân sẽ chỉ định người hành nghề chứng khoán có chứng chỉ phân tích tài chính hoặc quản lý quỹ thực hiện quản lý tài khoản giao dịch ủy thác và ghi tên người được chỉ định vào hợp đồng với nhà đầu tư. Do đó, trường hợp nhân viên môi giới chỉ có chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán thì không đáp ứng được điều kiện về chuyên môn để nhận ủy thác. Quyền hạn của môi giới đối với tài khoản khách hàng chỉ dừng lại ở việc đặt lệnh giao dịch chứng khoán hoặc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong hợp đồng.
Ngoài ra, bởi sự cả tin, thiếu hiểu biết của nhà đầu tư dẫn đến họ phải đối mặt với các rủi ro như: (i) Việc ủy thác thường chỉ thực hiện bằng miệng mà không có tài liệu, văn bản nào chứng minh nên khi tranh chấp, nhà đầu tư gặp bất lợi; (ii) Hợp đồng ủy thác có thể bị tuyên vô hiệu vì môi giới không được quyền nhận ủy thác trực tiếp từ nhà đầu tư cá nhân; (iii) Nhà đầu tư sẽ bị thiệt hại khi nhân viên môi giới vi phạm cam kết của hai bên hay không đủ khả năng tài chính để bù lỗ theo thỏa thuận; (iv) Nhân viên môi giới sử dụng hàng loạt tài khoản để thao túng giá chứng khoán. Khi các rủi ro này xảy ra, người đầu tiên gánh chịu những thiệt hại là nhà đầu tư. Do đó, bên cạnh việc nâng cao nhận thức của nhà đầu tư thì công ty chứng khoán, cơ quan quản lý nhà nước cần có biện pháp để chấm dứt tình trạng này.
4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán
Để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, đề nghị bỏ nội dung “Tỉ lệ ký quỹ đặt mua/bán chứng khoán được áp dụng” trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Như đã chỉ ra, quy định về “Tỉ lệ ký quỹ đặt mua/bán chứng khoán được áp dụng” trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường là không hợp lý, gây mâu thuẫn chồng chéo. Vì vậy, pháp luật cần quy định rõ có hai loại tài khoản giao dịch chứng khoán là tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường và tài khoản giao dịch chứng khoán ký quỹ. Việc mở tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường sẽ được áp dụng theo mẫu tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư số 121/2020/TT-BTC, còn tài khoản giao dịch chứng khoán ký quỹ thì được hướng dẫn tại Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ ban hành kèm theo Quyết định số 87/QĐ-UBCK ngày 25/01/2017 của Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán. Cần bỏ nội dung “Tỉ lệ ký quỹ đặt mua/bán chứng khoán được áp dụng” ra khỏi hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán thông thường. Điều này vừa đảm bảo tính chặt chẽ trong quy định pháp luật vừa đảm bảo tính hợp lý trong việc điều chỉnh giao dịch ký quỹ nhằm đảm bảo tính ổn định, an toàn cho thị trường chứng khoán.
Thứ hai, đề nghị bỏ nội dung “Thỏa thuận về lãi suất trên số dư tiền gửi giao dịch chứng khoán”, đồng thời, bổ sung quy định “công ty chứng khoán có nghĩa vụ phân bổ tiền lãi trên số dư tiền gửi giao dịch chứng khoán cho từng tài khoản của khách hàng”. Sự điều chỉnh trên nhằm đảm bảo đúng bản chất của hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán, giúp cho công ty chứng khoán hiểu đúng bản chất hợp đồng này, nâng cao nghĩa vụ quản lý tách bạch tài khoản của công ty chứng khoán, đồng thời cũng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhà đầu tư.
Thứ ba, cần tiếp tục hoàn thiện quy định về quá trình nhận lệnh và thực hiện giao dịch. Theo đó, pháp luật cần bổ sung các quy định về trách nhiệm của công ty chứng khoán trong việc kiểm tra tài khoản của khách hàng trước khi nhập lệnh bán chứng khoán vào hệ thống để kiểm soát giao dịch của đối tượng phải thực hiện việc chào mua công khai hoặc là cổ đông nội bộ của quỹ đại chúng dạng đóng, người được ủy quyền công bố thông tin và người có liên quan của các đối tượng trên dự kiến giao dịch chứng khoán hay không. Đồng thời, bổ sung quy định xử lý vi phạm hành chính nếu công ty chứng khoán không thực hiện trách nhiệm này. Bởi vì, ở vị trí là người thực hiện lệnh giao dịch, những thông tin đã được công bố thì công ty chứng khoán phải có trách nhiệm biết. Hơn nữa, những thông tin này cũng được khách hàng cung cấp cho công ty chứng khoán khi giao kết hợp đồng mở tài khoản giao dịch và thông báo để công ty chứng khoán cập nhật thông tin trong quá trình thực hiện hợp đồng, đây là một nghĩa vụ mà khách hàng phải thực hiện thường được đưa vào nội dung của hợp đồng mở tài khoản. Do đó, công ty chứng khoán cần biết và phải ngăn chặn cùng với cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, việc ngăn chặn ngay từ đầu, không để hành vi vi phạm được thực hiện sẽ mang lại hiệu quả bảo vệ nhà đầu tư hơn là cơ chế xử phạt khi hậu quả đã xảy ra và nhà đầu tư đã gánh chịu thiệt hại. Mặt khác, cần tăng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về chào mua công khai tại Điều 17 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP; vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán của người nội bộ của công ty đại chúng, người nội bộ của quỹ đại chúng và người có liên quan của người nội bộ tại Điều 33 Nghị định này.
Thứ tư, cần hoàn thiện quy định về hoạt động quản lý tài khoản khách hàng. Cụ thể, cần tăng cường công tác giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm đối với hành vi huy động vốn từ tiền nhàn rỗi trong tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng để cho vay. Thị trường chứng khoán càng phát triển, sẽ có nhiều hành vi “biến tướng” mà bản chất của nó là huy động vốn từ nhà đầu tư trái phép. Do đó, nếu phối hợp ba hoạt động trên một cách chặt chẽ, sẽ giúp thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với công ty chứng khoán. Thông qua giám sát, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ phát hiện kịp thời, chấn chỉnh hành vi xâm phạm quyền lợi của khách hàng, đồng thời cũng phản ánh sự đúng đắn, phù hợp với thực tế của chính sách, quy định sẵn có của pháp luật. Nếu phát hiện các dấu hiệu nghi vấn, tổ chức giám sát có thể đề nghị Thanh tra chứng khoán tiến hành thanh tra. Sau đó, nếu đầy đủ chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có thể tiến hành xử lý vi phạm theo hướng xử lý hành chính hoặc hình sự.
Công ty chứng khoán cần tăng cường rà soát, quản lý và có biện pháp xử lý vi phạm đối với nhân viên của mình đang thực hiện nhận ủy thác; cơ quan quản lý, giám sát thị trường cần tích cực giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm đối với công ty chứng khoán vi phạm quy định về ủy thác quản lý tài khoản của nhà đầu tư cá nhân. Để tránh quyền lợi của nhà đầu tư bị xâm phạm, pháp luật cần phải gia tăng hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế bằng việc kiểm soát và xử lý vi phạm.
5. Kết luận
Từ kết quả phân tích, đánh giá có thể thấy rằng, vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán đóng vai trò quan trọng và cần thiết, bởi điều này sẽ góp phần vào việc đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư, lành mạnh hóa thị trường chứng khoán. Về cơ bản hiện nay, dưới góc độ pháp lý, pháp luật đã đưa ra được các quy định cần thiết để điều chỉnh vấn đề bảo vệ nhà đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán. Đây là khung hành lang pháp lý cần thiết và không thể thiếu để có thể bảo vệ hiệu quả quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán khi sử dụng dịch vụ chứng khoán. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những hạn chế, bất cập nhất định như phân tích, đánh giá ở trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của việc bảo vệ kịp thời quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán khi sử dụng dịch vụ môi giới chứng khoán. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu áp dụng các giải pháp cần thiết như đã đề xuất để khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trước yêu cầu thực tiễn hiện nay.
1 Khoản 6 Điều 89 Luật Chứng khoán năm 2019.
2 Phan Phương Nam (2014), “Một số vấn đề của pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03(82)/2014, trang 46.
3 Khoản 6 Điều 16 Thông tư số 121/2020/TT-BTC; khoản 4 Điều 52 Thông tư số 210/2020/TT-BTC ngày 30/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán.
4 Đông Tư (2019), Hai công ty chứng khoán bị xử phạt vì cho khách hàng mua chứng khoán khi không đủ tiền, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/chung-khoan-bao-minh%C2%A0bi-phat-350-trieu-dong-312380.html.
5 Khoản 5 Điều 89 Luật Chứng khoán năm 2019.
6 Điều 35 Luật Chứng khoán năm 2019.
7 Điều 31, 32, 33 Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
8 Điều 88 Luật Chứng khoán năm 2019.
9 Mai Phương (2021), Bộ Tài chính “tuýt còi” các công ty chứng khoán biến tướng huy động vốn, https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/bo-tai-chinh-tuyt-coi-cac-cong-ty-chung-khoan-bien-tuong-huy-dong-von-1378556.html.
10 Gia Nghi (2019), Ủy thác đầu tư: Nên hay không?, https://vietstock.vn/2019/09/uy-thac-dau-tu-nen-hay-khong-3355-702286.htm.
11 Phan Hằng (2020), Ủy thác đầu tư cá nhân: Khoảng hở chế tài, https://tinnhanhchungkhoan.vn/uy-thac-dau-tu-ca-nhan-khoang-ho-che-tai-post232193.html.
12 Khoản 3 Điều 15 Thông tư số 197/2015/TT-BTC ngày 03/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về hành nghề chứng khoán.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Chứng khoán năm 2019.
2. Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ.
3. Thông tư số 197/2015/TT-BTC ngày 03/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
4. Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
5. Thông tư số 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
6. Hà An (2021), Biến tướng huy động vốn, nhiều công ty chứng khoán bị “sờ gáy”, http://cand.com.vn/Kinh-te/Bien-tuong-huy-dong-von-nhieu-cong-ty-chung-khoan-bi-so-gay-641336
7. Phan Hằng (2020), Ủy thác đầu tư cá nhân: Khoảng hở chế tài, https://tinnhanhchungkhoan.vn/uy-thac-dau-tu-ca-nhan-khoang-ho-che-tai-post232193.html
8. Bông Mai (2021), Bộ Tài chính xử lý công ty chứng khoán lạm dụng tiền khách hàng để huy động vốn”, https://tuoitre.vn/bo-tai-chinh-xu-ly-cong-ty-chung-khoan-lam-dung-tien-cua-khach-hang-de-huy-dong-von-20210505142911156.htm
9. Phan Phương Nam (2014), “Một số vấn đề của pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 03(82)/2014.
10 Gia Nghi (2019), Ủy thác đầu tư: Nên hay không?, https://vietstock.vn/2019/09/uy-thac-dau-tu-nen-hay-khong-3355-702286.htm.
11. M.K (2021), Sáu nhà đầu tư chứng khoán bị phạt 265 triệu đồng, https://nhandan.vn/chungkhoan-doanhnghiep/sau-nha-dau-tu-chung-khoan-bi-phat-265-trieu-dong-644127
12. Mai Phương (2021), Bộ Tài chính “tuýt còi” các công ty chứng khoán biến tướng huy động vốn, https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/bo-tai-chinh-tuyt-coi-cac-cong-ty-chung-khoan-bien-tuong-huy-dong-von-1378556.html
13. Đông Tư (2019), Hai công ty chứng khoán bị xử phạt vì cho khách hàng mua chứng khoán khi không đủ tiền, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/chung-khoan-bao-minh%C2%A0bi-phat-350-trieu-dong-312380.html
14. Tạ Thành (2021), Xử phạt 2 nhà đầu tư do không công bố thông tin về việc dự kiến giao dịch, https://kinhtedouong.vn/xu-phat-2-nha-dau-tu-do-khong-cong-bo-thong-tin-ve-viec-du-kien-giao-dich-75522.html
15. Minh Sơn (2024) Các công ty chứng khoán cho vay margin cao kỷ lục, https://vnexpress.net/cac-cong-ty-chung-khoan-cho-vay-margin-ky-luc-4773930.html
ThS. Trần Linh Huân
Lê Hoàng Nữ Tố Quyên
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh