Tại sao các ngân hàng trung ương mua vàng?

Quốc tế
Hoạt động mua vàng của các ngân hàng trung ương (NHTW) vào cuối năm 2023 lập kỷ lục cao thứ hai sau năm 2022.
aa

Hoạt động mua vàng của các ngân hàng trung ương (NHTW) vào cuối năm 2023 lập kỷ lục cao thứ hai sau năm 2022. Năm 2024, trong số 70 NHTW được Hội đồng Vàng thế giới (World Gold Council - WGC) tiến hành khảo sát thì có gần 1/3 có ý định bổ sung dự trữ vàng - đây là tỉ lệ cao nhất trong thời gian sáu năm qua.




Ảnh minh họa, nguồn Internet


Theo báo cáo năm 2024 của WGC, cuối năm 2023, các NHTW đã bổ sung thêm 1.037 tấn vàng dự trữ, đây là kỷ lục thứ hai sau năm 2022 (1.082 tấn). Trên cơ sở số liệu từ khảo sát của WGC đối với 70 NHTW từ tháng 2 đến tháng 4/2024, có tới 29% các NHTW có ý định tiếp tục mua vàng trong 12 tháng tới. Đây là tỉ lệ cao nhất kể từ năm 2018, khi WGC bắt đầu tiến hành khảo sát. Năm 2023, 24% NHTW dự định bổ sung dự trữ vàng và năm 2019 - chỉ 8%. (Biểu đồ 1).

Đồng thời, 81% NHTW được khảo sát trong năm 2024 cho rằng, dự trữ vàng của các NHTW trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong năm tới - đây cũng là tỉ lệ cao nhất trong sáu năm qua (phần còn lại 19% NHTW tin rằng dự trữ vàng sẽ không thay đổi). (Biểu đồ 2)

Biểu đồ 1: Kỳ vọng thay đổi dự trữ vàng của NHTW trong 12 tháng tới

Từ năm 2023, lựa chọn “Không biết” đã được loại bỏ khỏi khảo sát.

Nguồn: WGC (2024)

Biểu đồ 2: Dự trữ vàng của các NHTW trên toàn cầu trong 12 tháng tới

Từ năm 2023, lựa chọn “Không biết” đã được loại bỏ khỏi khảo sát.

Nguồn: WGC (2024)

Bảo hiểm rủi ro

Trong những năm qua, các NHTW coi vị thế lịch sử của vàng là lý do chính để mua vàng. Từ xa xưa, người dân thuộc mọi nền văn hóa đều coi trọng vàng và những nhà cai trị tích trữ nó để củng cố vị thế và quyền lực kinh tế của họ. Ngoài vai trò là tiền, vàng còn là một mặt hàng tương đối khan hiếm (ví dụ như so với đồng hoặc sắt). Việc vàng được sử dụng trong nhiều thế kỷ làm thước đo giá trị đã mang lại cho nó một vị trí lịch sử vững chắc.

Nhưng trong cuộc khảo sát năm 2024, tầm quan trọng (được xếp hạng theo tổng của các mức “liên quan cao” và “có liên quan”) của nguyên nhân lịch sử trên đã giảm xuống vị trí thứ năm (46% cho rằng có liên quan cao và 25% cho rằng có liên quan). Và nhân tố quan trọng nhất khuyến khích các NHTW mua vàng là khả năng của vàng trong phòng ngừa lạm phát và bảo toàn giá trị của các khoản đầu tư vào vàng trong dài hạn (42% cho rằng có liên quan cao và 46% cho rằng có liên quan).


Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy, có 5 lý do hàng đầu khiến các NHTW mua vàng như sau: (i) Nơi bảo tồn giá trị dài hạn và phòng ngừa lạm phát (88%); (ii) Tài sản chống khủng hoảng (82%); (iii) Phương tiện đa dạng hóa danh mục đầu tư (76%); (iv) Tài sản không có rủi ro vỡ nợ (73%); và (v) Vị trí lịch sử của vàng (71%) (Biểu đồ 3).


Biểu đồ 3: Các nhân tố tác động đến việc mua vàng của NHTW


Nguồn: WGC (2024)


Cụ thể, theo kết quả khảo sát vào năm 2023, lý do đầu tiên các NHTW mua vàng vì coi đây là một biện pháp bảo hiểm chống lạm phát và bảo tồn giá trị dài hạn, được chỉ ra bởi 27% NHTW ở các nền kinh tế phát triển và 89% NHTW ở các nền kinh tế đang phát triển; tương ứng năm 2024, lý do này được chỉ ra bởi 83% NHTW các nền kinh tế phát triển và 90% các nền kinh tế đang phát triển (Biểu đồ 4 và 5); vàng là một tài sản có nguồn cung hạn chế (nó không thể được “phát hành thêm” theo quyết định của chính phủ), điều này khiến nó có khả năng chống lại lạm phát. Lý do thứ hai các NHTW mua vàng vì vàng được coi là tài sản chống khủng hoảng, là tài sản trú ẩn an toàn, một giải pháp thay thế cho việc đầu tư vào tài sản tài chính trong những thời điểm không ổn định. Cả hai lý do trên đều được hơn 80% NHTW ghi nhận (Biểu đồ 5).

Đứng ở vị trí cuối cùng trong danh mục 15 lý do nêu ra trong khảo sát năm 2023 là chính sách phi đô la hóa: Không một NHTW nào đánh giá nó có tương quan cao; 11% cho rằng nó có liên quan một chút; còn đại đa số (68%) cho rằng nó không liên quan; chỉ có NHTW các nền kinh tế đang phát triển chỉ ra lý do này là có liên quan. Tuy nhiên, trong cuộc khảo sát năm 2024, lý do này cũng đã được 6% NHTW các nền kinh tế phát triển ghi nhận (Biểu đồ 3; 4 và 5).

Biểu đồ 4: Các nhân tố tác động đến quyết định mua vàng của NHTW
phân theo hai nhóm nước năm 2023


Nguồn: WGC (2024)

Biểu đồ 5: Các nhân tố tác động đến quyết định mua vàng của NHTW phân theo nhóm nước năm 2024


Nguồn: WGC (2024)


Sự khác biệt và hội tụ giữa các nước phát triển và đang phát triển

Có sự khác biệt đáng chú ý giữa NHTW ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về động cơ mua vàng. Đồng thời, một số lý do trước đây chủ yếu liên quan đến NHTW của các nền kinh tế đang phát triển thì vào năm 2024, đã trở thành vấn đề tương tự đối với NHTW của các nền kinh tế phát triển (Biểu đồ 5). Cụ thể:

Thứ nhất, hơn một nửa số NHTW được khảo sát đưa ra lý do mua vàng do lo ngại về rủi ro tài chính hệ thống (62%) và không có rủi ro chính trị đối với vàng như một tài sản (54%); trong khi chỉ có 33% NHTW các nền kinh tế phát triển đồng tình với hai lý do này.

Thứ hai, vàng được coi như một công cụ của chính sách tiền tệ, mua vàng do tâm lý lo ngại về các biện pháp trừng phạt và kỳ vọng về những thay đổi trong hệ thống tiền tệ quốc tế được 23% đến 33% NHTW ở các nền kinh tế đang phát triển chỉ ra; trong khi đó, không có NHTW thuộc các nền kinh tế phát triển đề cập đến lý do này.

Thứ ba, các NHTW mua vàng vì nó được sản xuất trong nước và được độc quyền bởi NHTW, lý do này được chỉ ra bởi 44% NHTW các nền kinh tế đang phát triển, trong khi tỉ lệ này ở NHTW các nền kinh tế phát triển là 0%.

Thứ tư, lý do vàng đã trở nên quan trọng như một phương pháp đa dạng hóa rủi ro địa chính trị được chỉ ra bởi 67% NHTW các nền kinh tế phát triển và 64% NHTW các nền kinh tế đang phát triển. Đối với NHTW các nền kinh tế phát triển, tầm quan trọng của nhân tố này đã tăng hơn 1,5 lần trong năm, khiến vị thế của hai nhóm nước xích lại gần nhau hơn (1 năm trước đó, nhân tố rủi ro địa chính trị được 45% NHTW các nền kinh tế phát triển và 61% các nền kinh tế đang phát triển đồng tình).

Thứ năm, số lượng NHTW các nền kinh tế phát triển bắt đầu xem xét vàng như một tài sản có tính thanh khoản cao tăng gấp 2,2 lần so với năm trước (61% so với 27% một năm trước đó; câu trả lời của NHTW các nền kinh tế đang phát triển lần lượt là 67% và 72%). Nếu xét đến tỉ trọng NHTW các nền kinh tế phát triển đánh giá sự đa dạng hóa danh mục đầu tư và “đặc tính chống khủng hoảng” của tài sản này là một trong các lý do mua vàng ngày càng tăng thì có vẻ như các nền kinh tế phát triển đã bắt đầu đánh giá cao vai trò tài chính của vàng so với những năm trước đây.

WGC lưu ý rằng, sự hội tụ quan điểm của NHTW các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về vai trò của vàng trước sự bất ổn địa chính trị và những lo ngại về ổn định tài chính cho thấy rõ các bối cảnh kinh tế và chiến lược khó khăn mà cả hai nhóm quốc gia phải đối mặt.

Vàng so với Đô la Mỹ

Dự báo của NHTW các nền kinh tế phát triển và đang phát triển về triển vọng tỉ trọng USD và vàng trong cơ cấu dự trữ quốc tế nhìn chung là giống nhau - phần lớn dự đoán tỉ trọng USD sẽ giảm và vàng sẽ tăng; nhưng khác nhau về quy mô - đại diện của các nền kinh tế phát triển có kỳ vọng bảo thủ hơn.

Một là, gần 2/3 (62%) NHTW được khảo sát năm 2024 kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ quốc tế sẽ giảm trong 5 năm tới, tăng từ 55% năm 2023 và 42% năm 2022; 20% kỳ vọng tỉ lệ này sẽ tăng, 18% kỳ vọng tỉ trọng này không đổi so với tỉ trọng dự trữ bằng USD hiện tại là 49% (Biểu đồ 6).

Biểu đồ 6: Kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới

Nguồn: WGC (2024)


Hai là, NHTW các nền kinh tế đang phát triển có thiên hướng bi quan hơn về vai trò dự trữ của USD với 64% kì vọng tỉ trọng USD sẽ giảm so với mức 56% đối với NHTW các nền kinh tế phát triển. Trong khi 30% đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển cho rằng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ không thay đổi trong vòng 5 năm tới thì chỉ có 11% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế đang phát triển ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là tỉ lệ các đáp viên từ các nền kinh tế phát triển tin rằng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu sẽ sụt giảm đã tăng từ 46% vào năm 2023 lên 56% vào năm 2024 (Biểu đồ 7). Điều này phản ánh tâm lý ngày càng bi quan về triển vọng tỉ trọng USD trong dự trữ ngoại hối toàn cầu ngay cả với các đáp viên từ các nền kinh tế phát triển.

Biểu đồ 7: Kỳ vọng tỉ trọng USD trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới phân theo nhóm nước


Nguồn: WGC (2024)


Ba là, 69% NHTW (46% năm 2022 và 62% năm 2023) cũng dự đoán tỉ trọng vàng trong dự trữ quốc tế toàn cầu sẽ tăng từ mức 16% hiện tại (Biểu đồ 8); trong đó, 75% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển kỳ vọng điều này so với mức 57% ở NHTW các nền kinh tế đang phát triển. Trong khi đó, 35% đáp viên từ NHTW các nền kinh tế phát triển cho rằng tỉ trọng vàng trong dự trữ quốc tế sẽ không thay đổi trong 5 năm tới, quan điểm này chỉ được 9% các đáp viên từ NHTW các nền kinh tế đang phát triển đồng tình (Biểu đồ 9).

Biểu đồ 8: Kỳ vọng tỉ trọng vàng trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới


Nguồn: WGC (2024)


Biểu đồ 9: Kỳ vọng tỉ trọng vàng trong dự trữ toàn cầu trong 5 năm tới phân theo nhóm nước

Nguồn: WGC (2024)


WGC (2024) dẫn lời một đáp viên trong cuộc khảo sát: “Vai trò của vàng như một công cụ phòng ngừa lạm phát, biến động thị trường và rủi ro địa chính trị sẽ tăng dần, bất chấp lãi suất toàn cầu tăng, nếu môi trường lạm phát, bất ổn tài chính và/hoặc căng thẳng địa chính trị tiếp tục diễn ra như hiện nay”.

Tóm lại, căng thẳng địa chính trị và các nhân tố kinh tế vĩ mô như lạm phát và lãi suất được nhiều nhà quản lý dự trữ ngoại hối của các NHTW quan tâm đặc biệt. NHTW các nền kinh tế đang phát triển đã bày tỏ mối lo ngại thường trực về tác động của rủi ro địa chính trị và sự bất ổn tài chính tiềm tàng đối với các quyết định quản lý dự trữ của họ; trong đó, nhiều NHTW xem vàng như một phương thức để quản lý các rủi ro đó. Tương lai của hệ thống tiền tệ quốc tế tiếp tục thay đổi, cùng với việc NHTW bày tỏ ít tin tưởng hơn vào sự thống trị lâu dài của USD. Với những xu hướng này và môi trường đầu tư luôn thay đổi, nhu cầu vàng từ các NHTW trên toàn cầu chắc chắn vẫn mạnh mẽ trong thời gian tới.

Tài liệu tham khảo:

World Gold Council (2024). 2024 Central Bank Gold Reserves Survey. https://www.gold.org/goldhub/data/2024-central-bank-gold-reserves-survey

TS. Nghiêm Văn Trọng, Nhật Trung
Trường Đại học Hòa Bình
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho  Việt Nam

Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho Việt Nam

Xếp hạng tín nhiệm không phải là một thuật ngữ xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn.
Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”

Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”

Ủy ban về quyền kinh tế, văn hóa và xã hội của Liên hợp quốc năm 2023 xác định già hóa dân số là một xu hướng mang tính toàn cầu. Xu hướng già hóa dân số không chỉ diễn ra mạnh mẽ ở châu Âu mà đã, đang và sẽ lan rộng sang khu vực châu Á, tạo ra những cơ hội lẫn thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế, xã hội.
Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho  Việt Nam

Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho Việt Nam

Tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và lĩnh vực tài chính trong những năm qua đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hành vi của người tiêu dùng và hệ thống tài chính trên toàn cầu.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 47/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Sửa đổi khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài