Tác động của địa chính trị đến thương mại quốc tế

Quốc tế
Vào giữa thế kỷ 20, các mô hình kinh tế giải thích hướng đi của các dòng thương mại quốc tế có cơ sở xuất phát từ khối lượng thương mại giữa các quốc gia được xác định bởi số lợi nhuận mà nó mang lại và khoảng cách địa lý giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
aa

Tóm tắt: Vào giữa thế kỷ 20, các mô hình kinh tế giải thích hướng đi của các dòng thương mại quốc tế có cơ sở xuất phát từ khối lượng thương mại giữa các quốc gia được xác định bởi số lợi nhuận mà nó mang lại và khoảng cách địa lý giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Tuy nhiên, sự phân cách địa chính trị của thế giới đang gia tăng trong thời gian gần đây ngày càng đóng vai trò quan trọng trong định hướng các dòng chảy thương mại quốc tế giữa các quốc gia trên toàn cầu. Động lực của thương mại quốc tế đã trở thành sự tương đồng về quan điểm chính sách đối ngoại của các nước đối tác thương mại. Bài viết giới thiệu một số kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác động của địa chính trị đến thương mại toàn cầu thông qua phương pháp nghiên cứu định tính với kỹ năng chính là khai thác, phân tích, tổng hợp và bình luận các thông tin thứ cấp từ các nghiên cứu có liên quan.

Từ khóa: Địa chính trị, thương mại quốc tế, toàn cầu hóa.

THE IMPACT OF GEOPOLITICS ON INTERNATIONAL TRADE

Abstract: In the mid-20th century, economic models explaining the direction of international trade flows were based on the premise that the volume of trade between countries was determined by the amount of profit it brought and the geographical distance between the exporting and importing countries. However, the increasing geopolitical fragmentation of the world in recent times has played an increasingly important role in the direction of international trade flows between countries around the globe. The driving force of international trade has become the similarity in foreign policy views of trading partner countries. The purpose of this article is to introduce some empirical research results on the impact of geopolitics on global trade through qualitative research methods with the main skills being to exploit, analyze, synthesize and comment on secondary information from relevant studies.

Keywords: Geopolitics, international trade, globalization.


1. Đặt vấn đề

Thương mại quốc tế (hay thương mại toàn cầu) là việc mua, bán, hợp tác trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, thương nhân có quốc tịch khác nhau nhằm mang lại lợi ích tối đa cho các bên tham gia. Thoạt đầu, trao đổi hàng hóa là một hình thức phổ biến nhất của thương mại quốc tế, phản ánh mối quan hệ kinh tế - xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất và kinh doanh hàng hóa riêng biệt của các quốc gia. Ngày nay, thương mại quốc tế phát triển rất đa dạng và phong phú, bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại đầu tư, thương mại dịch vụ và khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Có thể nói, thương mại quốc tế được coi như một tiền đề, một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động, chuyên môn hóa quốc tế và được coi là xu hướng phát triển tất yếu mang tính toàn cầu hóa của nhân loại.



Ảnh minh họa, nguồn Internet

Để đánh giá mức độ trao đổi thương mại giữa các nước, các chỉ số sau đây có thể được sử dụng: (i) Chỉ số lợi thế so sánh; (ii) Chỉ số định hướng khu vực; (iii) Chỉ số cường độ thương mại; (iv) Mô hình trọng lực. Trong đó, mô hình trọng lực được dùng để đánh giá dựa trên cách tiếp cận hậu nghiệm, tức là, sau khi các nước ký các hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong mô hình trọng lực, xuất khẩu từ một quốc gia này đến một quốc gia khác được giải thích bởi quy mô kinh tế (được đo lường bằng tổng sản phẩm quốc gia - GNP hoặc tổng sản phẩm quốc nội - GDP) và khoảng cách địa lý giữa các quốc gia. Các mô hình kinh tế đầu tiên vào giữa thế kỷ 20 đánh giá hướng dịch chuyển của các dòng chảy thương mại quốc tế dựa trên kỳ vọng lợi nhuận mà nó mang lại và khoảng cách địa lý giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Tuy nhiên, thập kỷ gần đây, căng thẳng địa chính trị đang định hình lại thương mại toàn cầu và khiến nhiều quốc gia phải thay đổi chiến lược, đẩy mạnh hợp tác khu vực và liên kết với các đối tác thân thiết nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế. Lợi nhuận và khoảng cách không còn là yếu tố quan trọng, quyết định dòng chảy ngoại thương: Động lực của thương mại quốc tế đã trở thành sự tương đồng về quan điểm chính sách đối ngoại của các nước đối tác thương mại.

2. Năm giai đoạn phát triển của toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa bao gồm nhiều yếu tố khác nhau: Dòng chảy thương mại; đầu tư; dữ liệu; ý tưởng và công nghệ xuyên biên giới; chưa kể đến con người, bao gồm người lao động, khách du lịch và sinh viên. Thương mại toàn cầu, được đo bằng tỉ lệ xuất khẩu và nhập khẩu thế giới so với GDP thế giới, là thước đo hợp lý cho hội nhập kinh tế. Hình bên dưới cho thấy năm giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay.

Hình 1: Toàn cầu hóa đang suy giảm lần đầu tiên kể từ Thế chiến thứ II

Nguồn: Douglas A. Irwin, “The pandemic adds momentum to the deglobalization trend”, 2020. PIIE.


Trong giai đoạn đầu tiên từ năm 1870 đến năm 1914, hội nhập kinh tế tăng lên, được thúc đẩy bởi tàu hơi nước và các tiến bộ khác cho phép vận chuyển nhiều hàng hóa hơn với giá rẻ hơn giữa các thị trường.

Toàn cầu hóa đảo ngược trong giai đoạn thứ hai, từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914 cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ nhất gây ra sự gián đoạn kinh tế kéo dài, bao gồm việc Nga rút khỏi thương mại thế giới sau cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918, bất ổn tiền tệ vào đầu những năm 1920, các hạn chế nhập cư mới, đại suy thoái bắt đầu vào năm 1929 và sự bùng phát nghiêm trọng của chủ nghĩa bảo hộ vào những năm 1930. Sự hỗn loạn này đã làm giảm sự hội nhập và nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng.

Hội nhập kinh tế đã phục hồi trong giai đoạn thứ ba, ba thập kỷ sau Thế chiến II. Nhiều thể chế mới cho hợp tác kinh tế đã ra đời, như Hiệp định chung về thuế quan và thương mại, cho phép các quốc gia “mở cửa” nền kinh tế một lần nữa để giao thương và đầu tư. Những bước đi này đã giúp mở ra một thời kỳ hoàng kim của tăng trưởng.

Trong giai đoạn thứ tư, từ những năm 1980 cho đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, hội nhập kinh tế đã tăng lên đến quy mô toàn cầu chưa từng có trong lịch sử
1. Dẫn đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, các nước đang phát triển bắt đầu dỡ bỏ các rào cản thương mại. Khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã chuyển sang tự do hóa kinh tế với sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1989, tiếp theo là sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Những thay đổi về công nghệ, container vận tải và những cải tiến trong công nghệ thông tin và truyền thông, cũng đã thúc đẩy sự hội nhập và dẫn đến việc tạo ra các chuỗi cung ứng toàn cầu hóa cho thương mại thế giới. Tăng trưởng toàn cầu mạnh mẽ và tình trạng nghèo đói trên thế giới đã giảm đáng kể.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính, tốc độ tăng trưởng thương mại toàn cầu bắt đầu tụt hậu so với tốc độ tăng trưởng GDP thế giới. Hiện tượng này được gọi là “slowbalisation” - nhấn mạnh rằng, toàn cầu hóa không hề dừng lại hay đảo ngược, mà đang trải qua giai đoạn suy giảm tự nhiên sau khi tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, nghiên cứu của các nhà kinh tế thuộc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Đại học Pavia (The University of Pavia, Italy) cho thấy, sự phân mảnh địa chính trị của thế giới, vốn ngày càng gia tăng trong những năm gần đây, đóng một vai trò trong quá trình này.

Theo tính toán của họ, bước ngoặt chính là từ năm 2018 - năm đánh dấu sự khởi đầu của cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, địa chính trị đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng, quyết định hướng đi của dòng chảy thương mại toàn cầu. Và rào cản thương mại chính là sự khác biệt trong quan điểm của chính phủ về các vấn đề chính sách đối ngoại. Sự sụt giảm mạnh trong thương mại giữa các nước EU và Nga diễn ra vào năm 2022 sau khi bùng nổ xung đột quân sự ở Ukraine đã củng cố xu hướng friend-shoring
2.

3. Khoảng cách và thương mại

Các mô hình kinh tế đầu tiên vào giữa thế kỷ 20 giải thích hướng đi của các dòng thương mại quốc tế có cơ sở xuất phát từ khối lượng thương mại giữa các quốc gia, được xác định bởi số lợi nhuận mà nó mang lại và khoảng cách địa lý giữa nước xuất khẩu với nước nhập khẩu. Sau đó, các mô hình được cải tiến và bắt đầu tính đến quy mô nền kinh tế của các đối tác thương mại, sự hiện diện của các thỏa thuận hội nhập kinh tế giữa các đối tác, tư cách thành viên trong liên minh tiền tệ và mức độ rào cản thương mại và phi thương mại. Tuy nhiên, nguyên tắc cơ bản mà các quốc gia tuân theo trong thương mại quốc tế vẫn là lợi nhuận và sự gần gũi về mặt địa lý.

Tính toán của các nhà nghiên cứu ECB và Đại học Pavia dựa trên mô hình trọng lực của ngoại thương, tức là, mô hình có tính đến quy mô nền kinh tế và khoảng cách địa lý giữa các đối tác ngoại thương, được các tác giả bổ sung yếu tố địa chính trị. Để đo lường, các nhà kinh tế đã xây dựng chỉ số khoảng cách địa chính trị cho từng cặp quốc gia, dựa trên sự khác biệt trong kết quả bỏ phiếu của các quốc gia đó tại các cuộc họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các vấn đề chính sách đối ngoại quan trọng. Các tác giả đã nghiên cứu thương mại (không bao gồm năng lượng và dịch vụ) của 4 cặp quốc gia trong 10 năm, từ 2012 đến 2022, bao gồm hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc, cùng với ba cặp khác: Mỹ và Pháp, Đức và Trung Quốc, Đức và Pháp.

Con số biểu thị khoảng cách địa chính trị càng lớn thì khoảng cách thương mại càng lớn. Chẳng hạn, tính từ năm 2018 đến năm 2022, khoảng cách địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc là 3 lên 3,5; giữa Đức và Trung Quốc là 1,5 lên 2,3; giữa Đức và Pháp, tỉ lệ này đã giảm, từ 0,3 xuống 0; và giữa Mỹ và Pháp cũng giảm từ 0,1 xuống 0 (Hình 2, b).

Hình 2: Thương mại toàn cầu và khoảng cách địa chính trị giữa các cặp quốc gia

Nguồn: ECB, Economic Bulletin, Issue 3/2024


Bằng cách so sánh các chỉ số khoảng cách địa chính trị với khối lượng thương mại song phương, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng mối tương quan giữa các chỉ số này trở nên tiêu cực vào năm 2018 (thời điểm các tranh chấp thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ gia tăng) và kể từ đó, đã tiến sâu hơn vào vùng tiêu cực (Hình 3, a). Điều này có nghĩa là khi sự khác biệt về chính trị ngày càng gia tăng, thương mại giữa các quốc gia bắt đầu suy giảm và tiếp tục giảm sút, tức là, quan hệ thương mại ngày càng phụ thuộc vào chính trị.

Tính bình quân, nếu khoảng cách địa chính trị tăng thêm 10% thì khối lượng thương mại song phương giữa hai nước sẽ giảm 2%, hay khoảng một phần mười hiệu ứng thương mại là do hiệp định thương mại tự do. Kết quả không chỉ phù hợp với các mô hình thương mại của Mỹ, vì các ước tính vẫn có ý nghĩa khi loại trừ Mỹ khỏi mẫu khảo sát (Hình 3, b).

Hình 3: Tác động theo thời gian của khoảng cách địa chính trị
đến thương mại song phương

Nguồn: ECB, Economic Bulletin, Issue 3/2024


“Thân thiện” và “không thân thiện (đối thủ)” không chỉ làm giảm yếu tố lợi ích, mà còn giảm cả sự gần gũi về mặt địa lý của các đối tác thương mại. Do đó, thương mại giữa các "đối thủ" thấp hơn khoảng 4% so với mức có thể đạt được nếu căng thẳng địa chính trị không gia tăng sau năm 2017, trong khi thương mại giữa các nước “thân thiện" cao hơn khoảng 6%. Nhìn chung, trong khi địa chính trị làm giảm thương mại giữa các quốc gia xa cách về mặt địa chính trị, thì nó cũng củng cố mối liên kết thương mại giữa các quốc gia có cùng quan điểm địa chính trị (Hình 4, a).

Hình 4: Hiệu ứng khoảng cách địa chính trị đối với nhóm nước
và nhập khẩu của Liên minh châu Âu (EU)

Nguồn: ECB, Economic Bulletin, Issue 3/2024


Có bằng chứng hạn chế về xu hướng friend-shoring trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU. Nhập khẩu các hàng sản xuất của EU không chịu ảnh hưởng đáng kể bởi yếu tố địa chính trị (Hình 4, b). Kết quả này có thể phản ánh mức độ hội nhập chuỗi cung ứng toàn cầu cao của EU, thực tế là các cấu trúc sản xuất rất không linh hoạt trước những thay đổi về giá cả, ít nhất là trong ngắn hạn và sự cứng nhắc như vậy tăng lên khi các quốc gia hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, có bằng chứng về việc giảm rủi ro ở EU trong các ngành chiến lược. Hàng hóa chiến lược (thiết bị quân sự, nguyên liệu thô, bộ pin, hàng hóa công nghệ cao và y tế,...) chiếm khoảng 9% tổng lượng nhập khẩu ngoài EU và đặc biệt liên quan đến các lĩnh vực như an ninh, y tế công cộng, quá trình chuyển đổi xanh và kỹ thuật số. Đối với các sản phẩm chiến lược, khoảng cách địa chính trị được phát hiện làm giảm đáng kể lượng nhập khẩu của EU (Hình 4, b). Bằng chứng thực nghiệm cho thấy, EU đang tách rời có chọn lọc bằng cách giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp có khoảng cách về địa chính trị trong các ngành chiến lược.

Chính sách của EU hướng tới giảm dần sự phụ thuộc vào các quốc gia khác biệt về địa chính trị, được thực hiện vào cuối những năm 2010 và tăng tốc mạnh mẽ vào năm 2022. Theo các nhà nghiên cứu, đến đầu năm 2024, các nước thuộc khu vực đồng Euro đã giảm hơn một nửa xuất khẩu hàng hóa sang Nga. Xuất khẩu từ khu vực đồng Euro vào các quốc gia “không thân thiện” khác giảm gần một phần tư.

Đồng thời, EU tăng mạnh xuất khẩu. Cụ thể, tăng 30% xuất khẩu sang các nước láng giềng của Nga là Armenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Georgia, những quốc gia mà EU vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp. Xuất khẩu sang các quốc gia “thân thiện” khác hóa ra lại cao hơn 13% so với mức ước tính nếu quan hệ chính sách đối ngoại được duy trì như trước năm 2022. Mức chênh lệch này là do xuất khẩu sang Mỹ “xa xôi” về mặt địa lý. Bản thân xuất khẩu giữa các nước trong khu vực đồng Euro đã tăng 4% do yếu tố địa chính trị. Điều này cho thấy, sự định hướng lại chuỗi cung ứng theo nguyên tắc friend-shoring: Thương mại toàn cầu hiện đang bị chi phối bởi các lực lượng mới không chỉ được thúc đẩy bởi các chiến lược định hướng lợi nhuận, mà còn bởi các chiến lược địa chính trị.

Bằng cách giảm thương mại giữa các quốc gia “không thân thiện”, địa chính trị có thể đồng thời mở rộng quan hệ thương mại giữa các đồng minh địa chính trị. Điều này có thể giải thích tại sao, mặc dù có sự phân mảnh địa chính trị đang nổi lên, thương mại quốc tế vẫn đạt mức kỷ lục vào năm 2022 cũng như tỉ trọng trong GDP toàn cầu về khối lượng và về giá trị vật chất.

4. Kết luận

Quá trình toàn cầu hóa vô cùng ấn tượng trong nửa sau thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 (khi tỉ lệ thương mại so với GDP toàn cầu tăng từ 26% năm 1970 lên 61% năm 2008) phải đột ngột dừng lại do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 (khi tỉ lệ thương mại so với GDP toàn cầu giảm xuống 53% vào năm 2009)
3. Thế giới chưa phục hồi sau cú sốc này được bao lâu thì chiến tranh thương mại Mỹ - Trung bùng nổ, một lần nữa tạo ra vết nứt trong bức tranh thương mại toàn cầu. Dần dần, các quốc gia đã tìm được cách điều chỉnh. Thương mại bắt đầu khởi sắc trở lại thì đại dịch Covid-19 ập đến khiến nhiều chuỗi cung ứng bị tê liệt và tỉ lệ thương mại so với GDP toàn cầu giảm xuống mức 52% vào năm 20204. Từ năm 2021, thế giới dần phục hồi sau đại dịch Covid-19. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng, toàn cầu hóa đã trở thành quá khứ, tuy nhiên, một điều không tưởng đã xảy ra, thương mại quốc tế đã hồi sinh. Dữ liệu mới nhất từ năm 2022 cho thấy, tỉ lệ thương mại so với GDP toàn cầu đã phục hồi ấn tượng từ 52% năm 2020 lên 63%5 vào năm 2022, đạt mức cao kỷ lục mới bất chấp xung đột quân sự Nga - Ukraine từ tháng 02/2022. Vậy, động lực nào đứng đằng sau sự vận động của các dòng thương mại quốc tế trong hơn thập kỷ qua? Kết quả nghiên cứu đã cho thấy: Lợi nhuận và khoảng cách không còn là yếu tố quan trọng, quyết định dòng chảy ngoại thương: Động lực của thương mại quốc tế đã trở thành sự tương đồng về quan điểm chính sách đối ngoại hay quan điểm địa chính trị của các nước đối tác thương mại. Và khi khoảng cách địa chính trị tăng lên 10% thì khối lượng thương mại song phương giữa hai nước sẽ giảm 2%.

1 Đây là giai đoạn mà nhà kinh tế John Williamson gọi là Washington Consensus.

2 Chuyển các hoạt động trong chuỗi cung ứng hàng hóa về các nước thân thiện, nhằm vừa tận dụng lợi ích của toàn cầu hóa, vừa hạn chế các rủi ro gián đoạn sản xuất vì đặt ở các nước không thân thiện. https://thesaigontimes.vn/friend-shoring-la-gi-vi-sao-bi-phan-doi/

3 https://data.worldbank.org/indicator/NE.TRD.GNFS.ZS?end=2023&start=1960&view=chart
4 Như trên

5 Như trên

Tài liệu tham khảo:

1. Bùi Quý Thuần, “Lý thuyết và phương pháp đánh giá tác động của hiệp định thương mạit tự do đến thương mại”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3 tháng 01/2020.
2. Douglas A. Irwin, “The pandemic adds momentum to the deglobalization trend”, 2020. PIIE.
https://www.piie.com/blogs/realtime-economics/pandemic-adds-momentum-deglobalization-trend
3. Kevin O’Rourke and Jeffrey G. Williamson, Globalization and History: The Evolution of a Nineteenth-Century Atlantic Economy (Cambridge: MIT Press, 1999).
4. Harold James, The End of Globalization: Lessons from the Great Depression (Cambridge: Harvard University Press, 2001); and Douglas A. Irwin, Trade Policy Disaster: Lessons from the 1930s (Cambridge: MIT Press, 2012).
5. Costanza Bosone, Ernest Dautovic, M. Fidora and G. Stamato, How geopolitics is changing trade. ECB, Economic Bulletin, Issue 3/2024, p. 49-53.
https://www.ecb.europa.eu/pub/pdf/ecbu/eb202402.en.pdf
6. Chad P. Bown and Melina Kolb, “Trump’s Trade War Timeline: An Up-to-Date Guide”, 2023. https://www.piie.com/blogs/trade-and-investment-policy-watch/2018/trumps-trade-war-timeline-date-guide (Accessed September 26, 2024).
7. Mahfuz Kabir, Ruhul Salim, Nasser-Al-Mawali, “The gravity model and trade flows: Recent developments in economic modeling and empirical evidence”, Economic Analysis and Policy, V.56.
https://doi.org/10.1016/j.eap.2017.08.005

8. Bailey M.A, Streznhev A. and Voeten E., “Estimating Dynamic State Preferences from United Nations Voting Data”, Journal of Conflict Resolution, Vol. 61(2), 2017.

TS. Nguyễn Đình Trung, Nguyễn Thị Thu Hằng
Trường Đại học Hòa Bình


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho  Việt Nam

Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho Việt Nam

Xếp hạng tín nhiệm không phải là một thuật ngữ xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn.
Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”

Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”

Ủy ban về quyền kinh tế, văn hóa và xã hội của Liên hợp quốc năm 2023 xác định già hóa dân số là một xu hướng mang tính toàn cầu. Xu hướng già hóa dân số không chỉ diễn ra mạnh mẽ ở châu Âu mà đã, đang và sẽ lan rộng sang khu vực châu Á, tạo ra những cơ hội lẫn thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế, xã hội.
Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho  Việt Nam

Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho Việt Nam

Tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và lĩnh vực tài chính trong những năm qua đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hành vi của người tiêu dùng và hệ thống tài chính trên toàn cầu.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 47/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Sửa đổi khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài