Nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi để thực hiện tốt hơn vai trò bảo vệ người gửi tiền và hỗ trợ cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
07/09/2020 2.788 lượt xem
Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng không thể thực hiện các nghĩa vụ đối với người gửi tiền, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.
 
Thông lệ, chuẩn mực quốc tế
 
Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng không thể thực hiện các nghĩa vụ đối với người gửi tiền, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi bắt đầu được thành lập tại Mỹ từ sau cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1930 và tính đến nay, có 146 quốc gia trên thế giới đã thành lập tổ chức này. 
 
Mặc dù hoạt động của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đã có nhiều thay đổi so với thời điểm mới xuất hiện, nhưng vai trò bảo vệ người gửi tiền vẫn luôn là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi, dù là hoạt động theo mô hình chi trả đơn thuần (chỉ thực hiện chức năng chi trả tiền bảo hiểm) hay mô hình chi trả mở rộng, giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất (ngoài chi trả còn có chức năng giám sát, xử lý…). 
 
Theo Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), các nhà hoạch định chính sách cần xác định rõ ràng mức độ và phạm vi bảo hiểm tiền gửi (nguyên tắc 8 của Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả - IADI, 2014). Hạn mức bảo hiểm tiền gửi nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi tiền, phù hợp với mục tiêu chính sách công và đặc điểm liên quan của hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Các tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng hạn mức và phạm vi bảo hiểm phù hợp tại từng quốc gia gồm: (1) Có giới hạn để giảm thiểu rủi ro rút tiền ngân hàng và duy trì kỷ luật thị trường, đảm bảo phần lớn người gửi tiền ở các ngân hàng (90 - 95% người gửi tiền) được bảo vệ nhưng có một tỷ lệ nhất định giá trị tiền gửi không được bảo vệ; (2) Công bằng cho tất cả các ngân hàng thành viên; (3) Điều chỉnh định kỳ (khoảng 5 năm một lần) để đáp ứng mục tiêu chính sách công. Hạn mức bảo hiểm tiền gửi cần được cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố như lạm phát, thu nhập của người dân, năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tình hình hệ thống tài chính ngân hàng, hiệu lực của cơ chế giám sát...
 
Khi xảy ra khủng hoảng tài chính, nhiều quốc gia sử dụng hạn mức bảo hiểm tiền gửi như một công cụ hữu hiệu để duy trì niềm tin của công chúng, ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống. Khi đó, Chính phủ các nước quyết định nâng cao hạn mức bảo hiểm hoặc tạm thời áp dụng cơ chế bảo hiểm toàn bộ. Cam kết của Chính phủ giúp người gửi tiền yên tâm duy trì lượng tiền gửi tại ngân hàng, qua đó góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Sau khủng hoảng, các nước dần rút về cơ chế bảo hiểm có giới hạn ở mức hợp lý nhằm bảo vệ được đa số người gửi tiền nhỏ lẻ nhưng vẫn đảm bảo tránh rủi ro đạo đức, duy trì kỷ luật thị trường.
 
Hàn Quốc là một ví dụ điển hình khi giai đoạn khủng hoảng 1997 - 1998, Chính phủ Hàn Quốc đã tuyên bố đảm bảo chi trả đủ 100% tiền gửi cho tất cả người gửi tiền tại các ngân hàng. Giải pháp tình thế này đã giúp trấn an người dân và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, kinh tế, xã hội của Hàn Quốc. Thực tế, Chính phủ Hàn Quốc chưa phải thực hiện cam kết này do chưa để ngân hàng nào phải áp dụng biện pháp phá sản.
 
Theo khảo sát thường niên của IADI năm 2018, hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại một số quốc gia cụ thể như sau: (Bảng 1)
 
 
Thực tế Việt Nam
 
Tại Việt Nam, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được thành lập vào năm 1999 (theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ) với nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau: Thu phí bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định; Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm vi mức bảo hiểm tối đa quy định; Theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Hỗ trợ cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt; Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản; Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về bảo hiểm tiền gửi; Tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng; tổ chức tập huấn, đào tạo và tư vấn về các nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tiền gửi; Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
 
Để tạo điều kiện cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả, từ khi thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đến nay, hành lang pháp lý về hoạt động bảo hiểm tiền gửi luôn được Chính phủ, Quốc hội quan tâm hoàn thiện, đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP quy định khá đầy đủ về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP. Theo đó, nhiều nội dung quan trọng liên quan đến tiền gửi được bảo hiểm, số tiền được bảo hiểm tối đa, thẩm quyền xem xét nâng mức bảo hiểm tối đa, phí bảo hiểm tiền gửi, hỗ trợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm… đã được sửa đổi, bổ sung.
 
Đến năm 2012, cơ sở pháp lý về bảo hiểm tiền gửi đã được luật hóa bởi Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 ngày 18/6/2012 và quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, đồng bộ, toàn diện hơn về bảo hiểm tiền gửi. Luật bảo hiểm tiền gửi quy định: (1) Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản; (2) Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
 
Trên cơ sở các quy định của Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn theo quy định, đảm bảo cho các đối tượng liên quan có đủ cơ sở để tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
 
Mặc dù được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhiều lần, nhưng quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách bảo hiểm tiền gửi là nhằm mục đích bảo vệ người gửi tiền, đặc biệt là người gửi tiền quy mô nhỏ và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
 
Năm 2017, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng đã trao thêm quyền cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và hỗ trợ các tổ chức tín dụng yếu kém thực hiện phương án cơ cấu lại. Thực hiện vai trò mới này, thời gian qua, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những đóng góp nhất định trong việc theo dõi, kiểm tra chuyên sâu và đề xuất phương án xử lý đối với các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) yếu kém.
 
Cùng với quá trình hoàn thiện hành lang pháp lý, hạn mức bảo hiểm tiền gửi cũng được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định và điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam trong từng thời kỳ. Theo đó, từ năm 1999 - 2005 (6 năm), hạn mức bảo hiểm tiền gửi là 30 triệu đồng; từ 2005 - 2017 (12 năm), hạn mức là 50 triệu đồng và từ 2017 đến nay là 75 triệu đồng. (Hình 1) 
 
Hiện nay, luật pháp Việt Nam chưa quy định về việc chi trả tiền gửi vượt hạn mức bảo hiểm tiền gửi như nhiều nước trên thế giới đã quy định (khi xảy ra khủng hoảng tài chính, phá sản ngân hàng...) để duy trì niềm tin của công chúng, ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2017, trên cơ sở thông lệ quốc tế, Ngân hàng Nhà nước với vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất bổ sung quy định này. Nhiều đại biểu Quốc hội cũng đồng quan điểm với Ngân hàng Nhà nước khi cho rằng, ngoài hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, trong các trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể xem xét hỗ trợ chi trả phần tiền gửi còn lại cho người dân từ các nguồn lực hợp lý để đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, an ninh tiền tệ quốc gia, trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Tuy nhiên, Luật đã được Quốc hội thông qua mà không có quy định cụ thể về vấn đề này.
 
Tính đến thời điểm hiện tại, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đang bảo vệ cho hơn 5 triệu tỷ đồng tiền gửi của người gửi tiền tại 1.282 tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bao gồm 95 ngân hàng thương mại, 1 ngân hàng hợp tác xã, 1.182 QTDND và 4 tổ chức tài chính vi mô. 
 
Hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay đang bằng 1,25 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 2 lần theo thông lệ quốc tế; tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm đạt mức 87,72%, thấp hơn đáng kể so với mức khuyến nghị 90 - 95% của IADI. 
 
Sự cần thiết phải điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi
 
Từ thông lệ quốc tế và thực tế Việt Nam cho thấy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chưa phù hợp với 3 yêu cầu xây dựng hạn mức bảo hiểm tiền gửi phù hợp cho mỗi quốc gia nêu tại Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả (2014) và hướng dẫn của IADI. Cụ thể:
 
Đối với yêu cầu tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm:
 
Như đã nêu ở trên, tỷ lệ này ở Việt Nam đang là 87,72%, thấp hơn đáng kể so với mức khuyến nghị 90 - 95% của IADI. 
 
Đối với yêu cầu đảm bảo tính phù hợp của hạn mức với năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi:
 
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng gia tăng đáng kể. Sau 20 năm hoạt động, nhờ quá trình tích lũy từ phí bảo hiểm tiền gửi, đầu tư theo quy định của pháp luật và quản lý tài chính bài bản, nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tăng trưởng ở mức cao. Từ nguồn vốn được cấp ban đầu là 1.000 tỷ đồng, đến nay tổng tài sản của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã tăng lên hơn 64 nghìn tỷ đồng, trong đó quỹ dự phòng nghiệp vụ (thể hiện khả năng chi trả của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi) đạt hơn 58 nghìn tỷ đồng. Đây là nền tảng quan trọng giúp Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.
 
Bên cạnh nguồn vốn tự có, Luật bảo hiểm tiền gửi còn cho phép Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được tiếp nhận thêm các nguồn vốn hỗ trợ khác, gồm: 
 
(i) Tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của tổ chức tín dụng, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ trong trường hợp nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm; (ii) Tiếp nhận các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để tăng cường năng lực hoạt động. Như vậy, trong trường hợp nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có thể huy động thêm nguồn vốn khác phục vụ yêu cầu chi trả.
 
Đối với yêu cầu đảm bảo tính phù hợp với các điều kiện kinh tế vĩ mô:
 
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ và triển vọng trong trung hạn khá tích cực với đà tăng trưởng cao dự báo tiếp tục được duy trì. Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. GDP bình quân đầu người danh nghĩa (chưa tính đến yếu tố lạm phát) của Việt Nam tăng trưởng tốt, năm 2019 đạt tương đương 2.600 USD. Theo đó, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chỉ bằng 1,25 lần GDP bình quân đầu người năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 2 lần theo thông lệ quốc tế.
 
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay không còn phù hợp đối với cả 3 yêu cầu theo thông lệ quốc tế. Với triển vọng tăng trưởng tích cực trong trung hạn của Việt Nam và sự gia tăng đáng kể về năng lực tài chính cũng như các nguồn hỗ trợ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, việc điều chỉnh tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là hoàn toàn khả thi.Vấn đề đặt ra là cần tính toán một mức tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay và xu hướng phát triển trong tương lai, cũng như thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
 
Mức bảo hiểm tiền gửi cần điều chỉnh tăng bao nhiêu là phù hợp?
 
Thời gian qua, triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 và 2016 - 2020, Ngân hàng Nhà nước và các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Nhờ đó, hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng đã từng bước được củng cố, chấn chỉnh và hoạt động an toàn, hiệu quả, trong đó các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng trưởng và phát triển ổn định hơn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, hoạt động của hệ thống QTDND vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại. Một số QTDND hoạt động yếu kém, xa rời tôn chỉ, mục đích hoạt động, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến ổn định trật tự, an toàn xã hội tại một số địa phương và an toàn hoạt động của cả hệ thống QTDND. Thực trạng này đặt ra đồng thời hai yêu cầu cấp bách là vừa phải tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm của các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật, vừa phải nâng cao hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền tại các QTDND, đặc biệt là những người gửi tiền quy mô nhỏ và dễ bị tổn thương nhằm bảo đảm an sinh và trật tự, an toàn xã hội.
 
Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước, với hạn mức 75 triệu đồng hiện nay, tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của hệ thống QTDND là 52,34%. Nếu nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức 125 triệu đồng, tương đương 2 lần GDP bình quân đầu người, thì tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của hệ thống QTDND tăng lên mức 69% và tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng cũng nâng lên mức 90,94%, nằm trong khoảng khuyến nghị của IADI.
 
Đồng thời, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng chi trả tiền gửi ngay lập tức cho người gửi tiền tại 100% QTDND. Hạn mức này cũng không làm tăng phí bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, giúp cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không phải chịu thêm gánh nặng tài chính trong bối cảnh đang phải tập trung nguồn lực thực hiện cơ cấu lại và ứng phó với tác động bất lợi từ dịch Covid-19.
 
Từ những phân tích và tính toán nêu trên cho thấy, điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức 125 triệu đồng là hoàn toàn phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định để giúp tạo niềm tin cao hơn khi gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, nhất là người dân gửi tiền tại các QTDND.
________
[1] Luật BHTG Indonesia năm 2004 quy định rõ hạn mức có thể được điều chỉnh trong các trường hợp sau: Có một lượng vốn lớn bị rút khỏi hệ thống ngân hàng; Có sự thay đổi lớn về tỷ lệ lạm phát trong thời gian một số năm; Khi số lượng người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ giảm xuống dưới mức ngưỡng 90%.

TS. Đào Minh Tú
Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng,
Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước


Theo Tạp chí Ngân hàng số 15/2020
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/04/2024 280 lượt xem
Thời gian qua, quá trình số hóa diễn ra liên tục và mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự ổn định của khu vực tài chính nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Nhờ quá trình này mà các tổ chức tài chính có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng với chi phí thấp hơn, giúp nâng cao trải nghiệm và khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của khách hàng, tăng cường minh bạch trong giao dịch tài chính và phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng.
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng  phát triển trong thời đại 4.0
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng phát triển trong thời đại 4.0
23/04/2024 286 lượt xem
Dữ liệu đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp. Việc chia sẻ dữ liệu mở ra những cơ hội mới, tạo thêm nhiều giá trị, đồng thời góp phần bồi đắp kho dữ liệu hiện có, khai phá tiềm năng tối ưu hóa và đổi mới mô hình kinh doanh.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
19/04/2024 0 lượt xem
Do nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp ngày càng cao nên thị trường tín dụng liên kết bền vững toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam cần nhanh chóng thúc đẩy và mở rộng hoạt động cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ở đa dạng ngành, nghề thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 1.105 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 1.129 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 1.389 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 1.262 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 1.164 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 1.157 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 1.245 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.643 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.401 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.624 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 3.728 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
07/03/2024 2.481 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân Lê Thị Bích Trân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Australia; thăm chính thức Australia và New Zealand từ ngày 05 - 11/3/2024 theo lời mời của Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?