admin Nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi để thực hiện tốt hơn vai trò bảo vệ người gửi tiền và hỗ trợ cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
07/09/2020 11:40 2.939 lượt xem
Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng không thể thực hiện các nghĩa vụ đối với người gửi tiền, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.
 
Thông lệ, chuẩn mực quốc tế
 
Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng không thể thực hiện các nghĩa vụ đối với người gửi tiền, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi bắt đầu được thành lập tại Mỹ từ sau cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1930 và tính đến nay, có 146 quốc gia trên thế giới đã thành lập tổ chức này. 
 
Mặc dù hoạt động của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đã có nhiều thay đổi so với thời điểm mới xuất hiện, nhưng vai trò bảo vệ người gửi tiền vẫn luôn là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi, dù là hoạt động theo mô hình chi trả đơn thuần (chỉ thực hiện chức năng chi trả tiền bảo hiểm) hay mô hình chi trả mở rộng, giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất (ngoài chi trả còn có chức năng giám sát, xử lý…). 
 
Theo Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), các nhà hoạch định chính sách cần xác định rõ ràng mức độ và phạm vi bảo hiểm tiền gửi (nguyên tắc 8 của Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả - IADI, 2014). Hạn mức bảo hiểm tiền gửi nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi tiền, phù hợp với mục tiêu chính sách công và đặc điểm liên quan của hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Các tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng hạn mức và phạm vi bảo hiểm phù hợp tại từng quốc gia gồm: (1) Có giới hạn để giảm thiểu rủi ro rút tiền ngân hàng và duy trì kỷ luật thị trường, đảm bảo phần lớn người gửi tiền ở các ngân hàng (90 - 95% người gửi tiền) được bảo vệ nhưng có một tỷ lệ nhất định giá trị tiền gửi không được bảo vệ; (2) Công bằng cho tất cả các ngân hàng thành viên; (3) Điều chỉnh định kỳ (khoảng 5 năm một lần) để đáp ứng mục tiêu chính sách công. Hạn mức bảo hiểm tiền gửi cần được cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố như lạm phát, thu nhập của người dân, năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tình hình hệ thống tài chính ngân hàng, hiệu lực của cơ chế giám sát...
 
Khi xảy ra khủng hoảng tài chính, nhiều quốc gia sử dụng hạn mức bảo hiểm tiền gửi như một công cụ hữu hiệu để duy trì niềm tin của công chúng, ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống. Khi đó, Chính phủ các nước quyết định nâng cao hạn mức bảo hiểm hoặc tạm thời áp dụng cơ chế bảo hiểm toàn bộ. Cam kết của Chính phủ giúp người gửi tiền yên tâm duy trì lượng tiền gửi tại ngân hàng, qua đó góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Sau khủng hoảng, các nước dần rút về cơ chế bảo hiểm có giới hạn ở mức hợp lý nhằm bảo vệ được đa số người gửi tiền nhỏ lẻ nhưng vẫn đảm bảo tránh rủi ro đạo đức, duy trì kỷ luật thị trường.
 
Hàn Quốc là một ví dụ điển hình khi giai đoạn khủng hoảng 1997 - 1998, Chính phủ Hàn Quốc đã tuyên bố đảm bảo chi trả đủ 100% tiền gửi cho tất cả người gửi tiền tại các ngân hàng. Giải pháp tình thế này đã giúp trấn an người dân và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, kinh tế, xã hội của Hàn Quốc. Thực tế, Chính phủ Hàn Quốc chưa phải thực hiện cam kết này do chưa để ngân hàng nào phải áp dụng biện pháp phá sản.
 
Theo khảo sát thường niên của IADI năm 2018, hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại một số quốc gia cụ thể như sau: (Bảng 1)
 
 
Thực tế Việt Nam
 
Tại Việt Nam, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được thành lập vào năm 1999 (theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ) với nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau: Thu phí bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định; Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm vi mức bảo hiểm tối đa quy định; Theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Hỗ trợ cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt; Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản; Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về bảo hiểm tiền gửi; Tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng; tổ chức tập huấn, đào tạo và tư vấn về các nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tiền gửi; Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
 
Để tạo điều kiện cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả, từ khi thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đến nay, hành lang pháp lý về hoạt động bảo hiểm tiền gửi luôn được Chính phủ, Quốc hội quan tâm hoàn thiện, đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP quy định khá đầy đủ về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP. Theo đó, nhiều nội dung quan trọng liên quan đến tiền gửi được bảo hiểm, số tiền được bảo hiểm tối đa, thẩm quyền xem xét nâng mức bảo hiểm tối đa, phí bảo hiểm tiền gửi, hỗ trợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm… đã được sửa đổi, bổ sung.
 
Đến năm 2012, cơ sở pháp lý về bảo hiểm tiền gửi đã được luật hóa bởi Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 ngày 18/6/2012 và quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, đồng bộ, toàn diện hơn về bảo hiểm tiền gửi. Luật bảo hiểm tiền gửi quy định: (1) Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản; (2) Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
 
Trên cơ sở các quy định của Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn theo quy định, đảm bảo cho các đối tượng liên quan có đủ cơ sở để tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
 
Mặc dù được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhiều lần, nhưng quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách bảo hiểm tiền gửi là nhằm mục đích bảo vệ người gửi tiền, đặc biệt là người gửi tiền quy mô nhỏ và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
 
Năm 2017, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng đã trao thêm quyền cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và hỗ trợ các tổ chức tín dụng yếu kém thực hiện phương án cơ cấu lại. Thực hiện vai trò mới này, thời gian qua, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những đóng góp nhất định trong việc theo dõi, kiểm tra chuyên sâu và đề xuất phương án xử lý đối với các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) yếu kém.
 
Cùng với quá trình hoàn thiện hành lang pháp lý, hạn mức bảo hiểm tiền gửi cũng được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định và điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam trong từng thời kỳ. Theo đó, từ năm 1999 - 2005 (6 năm), hạn mức bảo hiểm tiền gửi là 30 triệu đồng; từ 2005 - 2017 (12 năm), hạn mức là 50 triệu đồng và từ 2017 đến nay là 75 triệu đồng. (Hình 1) 
 
Hiện nay, luật pháp Việt Nam chưa quy định về việc chi trả tiền gửi vượt hạn mức bảo hiểm tiền gửi như nhiều nước trên thế giới đã quy định (khi xảy ra khủng hoảng tài chính, phá sản ngân hàng...) để duy trì niềm tin của công chúng, ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2017, trên cơ sở thông lệ quốc tế, Ngân hàng Nhà nước với vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất bổ sung quy định này. Nhiều đại biểu Quốc hội cũng đồng quan điểm với Ngân hàng Nhà nước khi cho rằng, ngoài hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, trong các trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể xem xét hỗ trợ chi trả phần tiền gửi còn lại cho người dân từ các nguồn lực hợp lý để đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, an ninh tiền tệ quốc gia, trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Tuy nhiên, Luật đã được Quốc hội thông qua mà không có quy định cụ thể về vấn đề này.
 
Tính đến thời điểm hiện tại, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đang bảo vệ cho hơn 5 triệu tỷ đồng tiền gửi của người gửi tiền tại 1.282 tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bao gồm 95 ngân hàng thương mại, 1 ngân hàng hợp tác xã, 1.182 QTDND và 4 tổ chức tài chính vi mô. 
 
Hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay đang bằng 1,25 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 2 lần theo thông lệ quốc tế; tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm đạt mức 87,72%, thấp hơn đáng kể so với mức khuyến nghị 90 - 95% của IADI. 
 
Sự cần thiết phải điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi
 
Từ thông lệ quốc tế và thực tế Việt Nam cho thấy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chưa phù hợp với 3 yêu cầu xây dựng hạn mức bảo hiểm tiền gửi phù hợp cho mỗi quốc gia nêu tại Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả (2014) và hướng dẫn của IADI. Cụ thể:
 
Đối với yêu cầu tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm:
 
Như đã nêu ở trên, tỷ lệ này ở Việt Nam đang là 87,72%, thấp hơn đáng kể so với mức khuyến nghị 90 - 95% của IADI. 
 
Đối với yêu cầu đảm bảo tính phù hợp của hạn mức với năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi:
 
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng gia tăng đáng kể. Sau 20 năm hoạt động, nhờ quá trình tích lũy từ phí bảo hiểm tiền gửi, đầu tư theo quy định của pháp luật và quản lý tài chính bài bản, nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tăng trưởng ở mức cao. Từ nguồn vốn được cấp ban đầu là 1.000 tỷ đồng, đến nay tổng tài sản của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã tăng lên hơn 64 nghìn tỷ đồng, trong đó quỹ dự phòng nghiệp vụ (thể hiện khả năng chi trả của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi) đạt hơn 58 nghìn tỷ đồng. Đây là nền tảng quan trọng giúp Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.
 
Bên cạnh nguồn vốn tự có, Luật bảo hiểm tiền gửi còn cho phép Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được tiếp nhận thêm các nguồn vốn hỗ trợ khác, gồm: 
 
(i) Tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của tổ chức tín dụng, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ trong trường hợp nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm; (ii) Tiếp nhận các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để tăng cường năng lực hoạt động. Như vậy, trong trường hợp nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có thể huy động thêm nguồn vốn khác phục vụ yêu cầu chi trả.
 
Đối với yêu cầu đảm bảo tính phù hợp với các điều kiện kinh tế vĩ mô:
 
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ và triển vọng trong trung hạn khá tích cực với đà tăng trưởng cao dự báo tiếp tục được duy trì. Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. GDP bình quân đầu người danh nghĩa (chưa tính đến yếu tố lạm phát) của Việt Nam tăng trưởng tốt, năm 2019 đạt tương đương 2.600 USD. Theo đó, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chỉ bằng 1,25 lần GDP bình quân đầu người năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 2 lần theo thông lệ quốc tế.
 
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay không còn phù hợp đối với cả 3 yêu cầu theo thông lệ quốc tế. Với triển vọng tăng trưởng tích cực trong trung hạn của Việt Nam và sự gia tăng đáng kể về năng lực tài chính cũng như các nguồn hỗ trợ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, việc điều chỉnh tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là hoàn toàn khả thi.Vấn đề đặt ra là cần tính toán một mức tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay và xu hướng phát triển trong tương lai, cũng như thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
 
Mức bảo hiểm tiền gửi cần điều chỉnh tăng bao nhiêu là phù hợp?
 
Thời gian qua, triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 và 2016 - 2020, Ngân hàng Nhà nước và các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Nhờ đó, hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng đã từng bước được củng cố, chấn chỉnh và hoạt động an toàn, hiệu quả, trong đó các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng trưởng và phát triển ổn định hơn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, hoạt động của hệ thống QTDND vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại. Một số QTDND hoạt động yếu kém, xa rời tôn chỉ, mục đích hoạt động, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến ổn định trật tự, an toàn xã hội tại một số địa phương và an toàn hoạt động của cả hệ thống QTDND. Thực trạng này đặt ra đồng thời hai yêu cầu cấp bách là vừa phải tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm của các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật, vừa phải nâng cao hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền tại các QTDND, đặc biệt là những người gửi tiền quy mô nhỏ và dễ bị tổn thương nhằm bảo đảm an sinh và trật tự, an toàn xã hội.
 
Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước, với hạn mức 75 triệu đồng hiện nay, tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của hệ thống QTDND là 52,34%. Nếu nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức 125 triệu đồng, tương đương 2 lần GDP bình quân đầu người, thì tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của hệ thống QTDND tăng lên mức 69% và tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng cũng nâng lên mức 90,94%, nằm trong khoảng khuyến nghị của IADI.
 
Đồng thời, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng chi trả tiền gửi ngay lập tức cho người gửi tiền tại 100% QTDND. Hạn mức này cũng không làm tăng phí bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, giúp cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không phải chịu thêm gánh nặng tài chính trong bối cảnh đang phải tập trung nguồn lực thực hiện cơ cấu lại và ứng phó với tác động bất lợi từ dịch Covid-19.
 
Từ những phân tích và tính toán nêu trên cho thấy, điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức 125 triệu đồng là hoàn toàn phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định để giúp tạo niềm tin cao hơn khi gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, nhất là người dân gửi tiền tại các QTDND.
________
[1] Luật BHTG Indonesia năm 2004 quy định rõ hạn mức có thể được điều chỉnh trong các trường hợp sau: Có một lượng vốn lớn bị rút khỏi hệ thống ngân hàng; Có sự thay đổi lớn về tỷ lệ lạm phát trong thời gian một số năm; Khi số lượng người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ giảm xuống dưới mức ngưỡng 90%.

TS. Đào Minh Tú
Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng,
Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước


Theo Tạp chí Ngân hàng số 15/2020
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị
Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị
22/10/2024 14:35 609 lượt xem
Tình hình kinh tế Việt Nam trong tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước; tính chung 9 tháng năm 2024 đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực.
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
21/10/2024 08:35 310 lượt xem
Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế.
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
18/10/2024 08:05 516 lượt xem
Nghiên cứu này xem xét tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2014 - 2023.
Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam
Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam
17/10/2024 08:45 565 lượt xem
Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động lớn đến đời sống và kinh tế toàn cầu, nông nghiệp tác động đến phát triển kinh tế - xã hội trên hai khía cạnh thích ứng với môi trường và tác động tiêu cực đến môi trường.
Tiếp cận phương pháp xác định hành vi quản trị lợi nhuận theo hướng truyền thống và hiện đại
Tiếp cận phương pháp xác định hành vi quản trị lợi nhuận theo hướng truyền thống và hiện đại
16/10/2024 08:00 454 lượt xem
Quản trị lợi nhuận là một chiến lược có thể được ban quản lí cố ý sử dụng để điều chỉnh chỉ tiêu thu nhập của công ty với các mục tiêu đã xác định trước.
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - công cụ hỗ trợ phát triển “tam nông”: Kinh nghiệm từ Nhật Bản và bài học cho Việt Nam
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - công cụ hỗ trợ phát triển “tam nông”: Kinh nghiệm từ Nhật Bản và bài học cho Việt Nam
15/10/2024 08:02 414 lượt xem
Bảo lãnh tín dụng được coi là một công cụ hữu hiệu giúp khắc phục được “điểm nghẽn” về vốn cho phát triển “tam nông”. Bài viết đề cập đến kinh nghiệm của Nhật Bản về bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững
14/10/2024 08:00 465 lượt xem
Quán triệt sâu sắc những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách, biện pháp về tiền tệ, tín dụng để khơi thông dòng vốn tín dụng vào khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Xây dựng mô hình dự báo hiện tại tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam
Xây dựng mô hình dự báo hiện tại tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam
11/10/2024 09:58 370 lượt xem
Dự báo hiện tại (Nowcasting) rất quan trọng trong kinh tế học vì dữ liệu cho các chỉ số chính như GDP thường có độ trễ và sai số đo lường đáng kể (Giannone và cộng sự, 2008)...
Giải pháp về giáo dục tài chính cho trẻ em của các ngân hàng thương mại
Giải pháp về giáo dục tài chính cho trẻ em của các ngân hàng thương mại
07/10/2024 08:06 510 lượt xem
Trong những năm gần đây, vấn đề dân trí tài chính đã trở thành một mối quan tâm lớn tại Việt Nam. Dân trí tài chính là khả năng hiểu biết và áp dụng các kiến thức tài chính trong cuộc sống hằng ngày, giúp cá nhân quản lý tài sản, lập kế hoạch tài chính và đưa ra các quyết định đầu tư một cách hiệu quả.
Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam
Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam
01/10/2024 10:00 731 lượt xem
Kinh tế xanh là sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính cá nhân
Tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính cá nhân
27/09/2024 10:24 934 lượt xem
Bài viết nghiên cứu về tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính của khách hàng cá nhân có vay vốn mua nhà tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Xây dựng khung chiến lược quản lý rủi ro quốc gia nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Xây dựng khung chiến lược quản lý rủi ro quốc gia nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
23/09/2024 09:30 1.024 lượt xem
Tần suất dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào và ra khỏi một nền kinh tế cụ thể cùng với biến động quy mô dòng vốn này thường xuyên chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố liên quan đến tính ổn định của môi trường kinh tế - chính trị quốc gia...
Tác động của tín dụng xanh đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam: Vai trò điều tiết của quy mô ngân hàng
Tác động của tín dụng xanh đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam: Vai trò điều tiết của quy mô ngân hàng
20/09/2024 10:40 1.906 lượt xem
Trong bối cảnh mở rộng và thúc đẩy tăng trưởng xanh, tín dụng xanh đang dần trở thành lĩnh vực kinh doanh tiềm năng mà các tổ chức tín dụng ngày càng quan tâm.
Phát triển thanh toán qua kênh điện thoại di động ở Việt Nam hiện nay
Phát triển thanh toán qua kênh điện thoại di động ở Việt Nam hiện nay
16/09/2024 08:14 1.280 lượt xem
Bài viết nghiên cứu sự phát triển của thanh toán qua kênh ĐTDĐ ở Việt Nam trong những năm gần đây, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế trong thanh toán qua kênh ĐTDĐ thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động thanh toán qua kênh ĐTDĐ tại Việt Nam trong thời gian tới.
Các biến thể tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương và những tác động lên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương
Các biến thể tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương và những tác động lên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương
10/09/2024 08:28 1.204 lượt xem
Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của tiền điện tử đã mở đường cho sự ra đời và phát triển tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

Vàng SJC 5c

82.000

84.020

Vàng nhẫn 9999

81.600

83.000

Vàng nữ trang 9999

81.550

82.700


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,550 24,920 26,604 28,064 31,668 33,015 163.07 172.56
BIDV 24,580 24,920 26,828 28,045 32,079 33,022 165.6 172.99
VietinBank 24,578 24,918 26,859 28,059 32,139 33,149 165.46 173.21
Agribank 24,570 24,930 26,777 28,005 31,882 33,001 164.72 173.02
Eximbank 24,520 24,980 26,795 27,806 31,943 33,105 166.07 172.35
ACB 24,560 24,920 26,840 27,772 32,108 33,091 165.78 172.4
Sacombank 24,580 24,920 26,852 27,824 32,039 33,191 166.17 173.18
Techcombank 24,560 24,951 26,679 28,031 31,738 33,083 162.54 175.04
LPBank 24,365 25,090 26,732 28,383 32,170 33,181 164.34 176.25
DongA Bank 24,600 24,910 26,830 27,720 32,030 33,010 164.10 171.70
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết

(Cập nhật trong ngày)

Ngân hàng

KKH

1 tuần

2 tuần

3 tuần

1 tháng

2 tháng

3 tháng

6 tháng

9 tháng

12 tháng

24 tháng

Vietcombank

0,10

0,20

0,20

-

1,60

1,60

1,90

2,90

2,90

4,60

4,70

BIDV

0,10

-

-

-

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,70

VietinBank

0,10

0,20

0,20

0,20

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,80

ACB

0,01

0,50

0,50

0,50

2,30

2,50

2,70

3,50

3,70

4,40

4,50

Sacombank

-

0,50

0,50

0,50

2,80

2,90

3,20

4,20

4,30

4,90

5,00

Techcombank

0,05

-

-

-

3,10

3,10

3,30

4,40

4,40

4,80

4,80

LPBank

0.20

0,20

0,20

0,20

3,00

3,00

3,20

4,20

4,20

5,30

5,60

DongA Bank

0,50

0,50

0,50

0,50

3,90

3,90

4,10

5,55

5,70

5,80

6,10

Agribank

0,20

-

-

-

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,80

Eximbank

0,10

0,50

0,50

0,50

3,10

3,30

3,40

4,70

4,30

5,00

5,80


Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?