admin Nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi để thực hiện tốt hơn vai trò bảo vệ người gửi tiền và hỗ trợ cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
07/09/2020 2.880 lượt xem
Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng không thể thực hiện các nghĩa vụ đối với người gửi tiền, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.
 
Thông lệ, chuẩn mực quốc tế
 
Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng không thể thực hiện các nghĩa vụ đối với người gửi tiền, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi bắt đầu được thành lập tại Mỹ từ sau cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1930 và tính đến nay, có 146 quốc gia trên thế giới đã thành lập tổ chức này. 
 
Mặc dù hoạt động của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đã có nhiều thay đổi so với thời điểm mới xuất hiện, nhưng vai trò bảo vệ người gửi tiền vẫn luôn là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi, dù là hoạt động theo mô hình chi trả đơn thuần (chỉ thực hiện chức năng chi trả tiền bảo hiểm) hay mô hình chi trả mở rộng, giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất (ngoài chi trả còn có chức năng giám sát, xử lý…). 
 
Theo Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), các nhà hoạch định chính sách cần xác định rõ ràng mức độ và phạm vi bảo hiểm tiền gửi (nguyên tắc 8 của Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả - IADI, 2014). Hạn mức bảo hiểm tiền gửi nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi tiền, phù hợp với mục tiêu chính sách công và đặc điểm liên quan của hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Các tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng hạn mức và phạm vi bảo hiểm phù hợp tại từng quốc gia gồm: (1) Có giới hạn để giảm thiểu rủi ro rút tiền ngân hàng và duy trì kỷ luật thị trường, đảm bảo phần lớn người gửi tiền ở các ngân hàng (90 - 95% người gửi tiền) được bảo vệ nhưng có một tỷ lệ nhất định giá trị tiền gửi không được bảo vệ; (2) Công bằng cho tất cả các ngân hàng thành viên; (3) Điều chỉnh định kỳ (khoảng 5 năm một lần) để đáp ứng mục tiêu chính sách công. Hạn mức bảo hiểm tiền gửi cần được cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố như lạm phát, thu nhập của người dân, năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tình hình hệ thống tài chính ngân hàng, hiệu lực của cơ chế giám sát...
 
Khi xảy ra khủng hoảng tài chính, nhiều quốc gia sử dụng hạn mức bảo hiểm tiền gửi như một công cụ hữu hiệu để duy trì niềm tin của công chúng, ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống. Khi đó, Chính phủ các nước quyết định nâng cao hạn mức bảo hiểm hoặc tạm thời áp dụng cơ chế bảo hiểm toàn bộ. Cam kết của Chính phủ giúp người gửi tiền yên tâm duy trì lượng tiền gửi tại ngân hàng, qua đó góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Sau khủng hoảng, các nước dần rút về cơ chế bảo hiểm có giới hạn ở mức hợp lý nhằm bảo vệ được đa số người gửi tiền nhỏ lẻ nhưng vẫn đảm bảo tránh rủi ro đạo đức, duy trì kỷ luật thị trường.
 
Hàn Quốc là một ví dụ điển hình khi giai đoạn khủng hoảng 1997 - 1998, Chính phủ Hàn Quốc đã tuyên bố đảm bảo chi trả đủ 100% tiền gửi cho tất cả người gửi tiền tại các ngân hàng. Giải pháp tình thế này đã giúp trấn an người dân và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, kinh tế, xã hội của Hàn Quốc. Thực tế, Chính phủ Hàn Quốc chưa phải thực hiện cam kết này do chưa để ngân hàng nào phải áp dụng biện pháp phá sản.
 
Theo khảo sát thường niên của IADI năm 2018, hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại một số quốc gia cụ thể như sau: (Bảng 1)
 
 
Thực tế Việt Nam
 
Tại Việt Nam, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được thành lập vào năm 1999 (theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ) với nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau: Thu phí bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định; Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm vi mức bảo hiểm tối đa quy định; Theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Hỗ trợ cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt; Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản; Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về bảo hiểm tiền gửi; Tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng; tổ chức tập huấn, đào tạo và tư vấn về các nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tiền gửi; Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
 
Để tạo điều kiện cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả, từ khi thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đến nay, hành lang pháp lý về hoạt động bảo hiểm tiền gửi luôn được Chính phủ, Quốc hội quan tâm hoàn thiện, đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP quy định khá đầy đủ về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP. Theo đó, nhiều nội dung quan trọng liên quan đến tiền gửi được bảo hiểm, số tiền được bảo hiểm tối đa, thẩm quyền xem xét nâng mức bảo hiểm tối đa, phí bảo hiểm tiền gửi, hỗ trợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm… đã được sửa đổi, bổ sung.
 
Đến năm 2012, cơ sở pháp lý về bảo hiểm tiền gửi đã được luật hóa bởi Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 ngày 18/6/2012 và quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, đồng bộ, toàn diện hơn về bảo hiểm tiền gửi. Luật bảo hiểm tiền gửi quy định: (1) Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản; (2) Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
 
Trên cơ sở các quy định của Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn theo quy định, đảm bảo cho các đối tượng liên quan có đủ cơ sở để tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
 
Mặc dù được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhiều lần, nhưng quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách bảo hiểm tiền gửi là nhằm mục đích bảo vệ người gửi tiền, đặc biệt là người gửi tiền quy mô nhỏ và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
 
Năm 2017, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng đã trao thêm quyền cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và hỗ trợ các tổ chức tín dụng yếu kém thực hiện phương án cơ cấu lại. Thực hiện vai trò mới này, thời gian qua, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những đóng góp nhất định trong việc theo dõi, kiểm tra chuyên sâu và đề xuất phương án xử lý đối với các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) yếu kém.
 
Cùng với quá trình hoàn thiện hành lang pháp lý, hạn mức bảo hiểm tiền gửi cũng được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định và điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam trong từng thời kỳ. Theo đó, từ năm 1999 - 2005 (6 năm), hạn mức bảo hiểm tiền gửi là 30 triệu đồng; từ 2005 - 2017 (12 năm), hạn mức là 50 triệu đồng và từ 2017 đến nay là 75 triệu đồng. (Hình 1) 
 
Hiện nay, luật pháp Việt Nam chưa quy định về việc chi trả tiền gửi vượt hạn mức bảo hiểm tiền gửi như nhiều nước trên thế giới đã quy định (khi xảy ra khủng hoảng tài chính, phá sản ngân hàng...) để duy trì niềm tin của công chúng, ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt, gây đổ vỡ hệ thống. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2017, trên cơ sở thông lệ quốc tế, Ngân hàng Nhà nước với vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất bổ sung quy định này. Nhiều đại biểu Quốc hội cũng đồng quan điểm với Ngân hàng Nhà nước khi cho rằng, ngoài hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, trong các trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể xem xét hỗ trợ chi trả phần tiền gửi còn lại cho người dân từ các nguồn lực hợp lý để đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, an ninh tiền tệ quốc gia, trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Tuy nhiên, Luật đã được Quốc hội thông qua mà không có quy định cụ thể về vấn đề này.
 
Tính đến thời điểm hiện tại, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đang bảo vệ cho hơn 5 triệu tỷ đồng tiền gửi của người gửi tiền tại 1.282 tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bao gồm 95 ngân hàng thương mại, 1 ngân hàng hợp tác xã, 1.182 QTDND và 4 tổ chức tài chính vi mô. 
 
Hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay đang bằng 1,25 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 2 lần theo thông lệ quốc tế; tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm đạt mức 87,72%, thấp hơn đáng kể so với mức khuyến nghị 90 - 95% của IADI. 
 
Sự cần thiết phải điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi
 
Từ thông lệ quốc tế và thực tế Việt Nam cho thấy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chưa phù hợp với 3 yêu cầu xây dựng hạn mức bảo hiểm tiền gửi phù hợp cho mỗi quốc gia nêu tại Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả (2014) và hướng dẫn của IADI. Cụ thể:
 
Đối với yêu cầu tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm:
 
Như đã nêu ở trên, tỷ lệ này ở Việt Nam đang là 87,72%, thấp hơn đáng kể so với mức khuyến nghị 90 - 95% của IADI. 
 
Đối với yêu cầu đảm bảo tính phù hợp của hạn mức với năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi:
 
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng gia tăng đáng kể. Sau 20 năm hoạt động, nhờ quá trình tích lũy từ phí bảo hiểm tiền gửi, đầu tư theo quy định của pháp luật và quản lý tài chính bài bản, nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tăng trưởng ở mức cao. Từ nguồn vốn được cấp ban đầu là 1.000 tỷ đồng, đến nay tổng tài sản của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã tăng lên hơn 64 nghìn tỷ đồng, trong đó quỹ dự phòng nghiệp vụ (thể hiện khả năng chi trả của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi) đạt hơn 58 nghìn tỷ đồng. Đây là nền tảng quan trọng giúp Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.
 
Bên cạnh nguồn vốn tự có, Luật bảo hiểm tiền gửi còn cho phép Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được tiếp nhận thêm các nguồn vốn hỗ trợ khác, gồm: 
 
(i) Tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của tổ chức tín dụng, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ trong trường hợp nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm; (ii) Tiếp nhận các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để tăng cường năng lực hoạt động. Như vậy, trong trường hợp nguồn vốn của Bảo hiểm tiền gửi tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có thể huy động thêm nguồn vốn khác phục vụ yêu cầu chi trả.
 
Đối với yêu cầu đảm bảo tính phù hợp với các điều kiện kinh tế vĩ mô:
 
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ và triển vọng trong trung hạn khá tích cực với đà tăng trưởng cao dự báo tiếp tục được duy trì. Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. GDP bình quân đầu người danh nghĩa (chưa tính đến yếu tố lạm phát) của Việt Nam tăng trưởng tốt, năm 2019 đạt tương đương 2.600 USD. Theo đó, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay chỉ bằng 1,25 lần GDP bình quân đầu người năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 2 lần theo thông lệ quốc tế.
 
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, hạn mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay không còn phù hợp đối với cả 3 yêu cầu theo thông lệ quốc tế. Với triển vọng tăng trưởng tích cực trong trung hạn của Việt Nam và sự gia tăng đáng kể về năng lực tài chính cũng như các nguồn hỗ trợ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, việc điều chỉnh tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là hoàn toàn khả thi.Vấn đề đặt ra là cần tính toán một mức tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay và xu hướng phát triển trong tương lai, cũng như thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
 
Mức bảo hiểm tiền gửi cần điều chỉnh tăng bao nhiêu là phù hợp?
 
Thời gian qua, triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 và 2016 - 2020, Ngân hàng Nhà nước và các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Nhờ đó, hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng đã từng bước được củng cố, chấn chỉnh và hoạt động an toàn, hiệu quả, trong đó các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng trưởng và phát triển ổn định hơn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, hoạt động của hệ thống QTDND vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại. Một số QTDND hoạt động yếu kém, xa rời tôn chỉ, mục đích hoạt động, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến ổn định trật tự, an toàn xã hội tại một số địa phương và an toàn hoạt động của cả hệ thống QTDND. Thực trạng này đặt ra đồng thời hai yêu cầu cấp bách là vừa phải tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm của các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật, vừa phải nâng cao hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền tại các QTDND, đặc biệt là những người gửi tiền quy mô nhỏ và dễ bị tổn thương nhằm bảo đảm an sinh và trật tự, an toàn xã hội.
 
Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước, với hạn mức 75 triệu đồng hiện nay, tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của hệ thống QTDND là 52,34%. Nếu nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức 125 triệu đồng, tương đương 2 lần GDP bình quân đầu người, thì tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của hệ thống QTDND tăng lên mức 69% và tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng cũng nâng lên mức 90,94%, nằm trong khoảng khuyến nghị của IADI.
 
Đồng thời, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng chi trả tiền gửi ngay lập tức cho người gửi tiền tại 100% QTDND. Hạn mức này cũng không làm tăng phí bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, giúp cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không phải chịu thêm gánh nặng tài chính trong bối cảnh đang phải tập trung nguồn lực thực hiện cơ cấu lại và ứng phó với tác động bất lợi từ dịch Covid-19.
 
Từ những phân tích và tính toán nêu trên cho thấy, điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức 125 triệu đồng là hoàn toàn phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định để giúp tạo niềm tin cao hơn khi gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, nhất là người dân gửi tiền tại các QTDND.
________
[1] Luật BHTG Indonesia năm 2004 quy định rõ hạn mức có thể được điều chỉnh trong các trường hợp sau: Có một lượng vốn lớn bị rút khỏi hệ thống ngân hàng; Có sự thay đổi lớn về tỷ lệ lạm phát trong thời gian một số năm; Khi số lượng người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ giảm xuống dưới mức ngưỡng 90%.

TS. Đào Minh Tú
Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng,
Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước


Theo Tạp chí Ngân hàng số 15/2020
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
26/07/2024 94 lượt xem
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một trong năm mũi đột phá của Việt Nam cần được tập trung để thúc đẩy tăng trưởng phát triển và hội nhập.
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/07/2024 256 lượt xem
Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) trên thị trường đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính, thúc đẩy phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống...
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
22/07/2024 246 lượt xem
Ở thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), thẻ tín dụng dần trở thành một phương tiện thanh toán khá phổ biến đối với bất kì khách hàng nào bởi tính tiện dụng trong chi tiêu và thanh toán.
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
22/07/2024 192 lượt xem
Ngày nay, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang trở thành xu hướng tất yếu, phát triển ngày càng sâu rộng trên thế giới, ngày càng có nhiều nước tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương đã được ký kết.
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
19/07/2024 239 lượt xem
Dựa trên bộ dữ liệu phức hợp mới được cập nhật, bài viết này đề xuất mô hình học máy nhằm phát hiện tin nhắn rác giúp giảm thiểu tối đa những rủi ro mà người dùng thiết bị di động đang phải đối mặt, đặc biệt là rủi ro liên quan đến vấn đề tài chính.
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
18/07/2024 263 lượt xem
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của tham nhũng địa phương (tham nhũng cấp tỉnh/thành phố) đến hoạt động ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội và Governance - quản trị) của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
16/07/2024 446 lượt xem
“Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng” - đây là phát biểu của nhà kinh tế học người Pháp A. Poial.
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
15/07/2024 327 lượt xem
Với xu hướng hội nhập tài chính quốc tế, để đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, minh bạch, việc áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là một trong những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh xu hướng này, góp phần hoàn thiện các giải pháp đồng bộ thúc đẩy lĩnh vực kế toán - kiểm toán phát triển; đảm bảo việc ghi nhận sổ sách theo cơ chế thị trường vận hành và thông lệ quốc tế.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
11/07/2024 431 lượt xem
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước (1986 - 2024), khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động và đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
01/07/2024 674 lượt xem
Mục tiêu của bài viết này là phân tích và đánh giá thực trạng an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023 trên các khía cạnh gồm an toàn vốn, thanh khoản và chất lượng tài sản. Qua đó, bài viết đưa ra một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam và kiến nghị đối với các cơ quan quản lí nhà nước nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
27/06/2024 560 lượt xem
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống và nghiên cứu định lượng qua việc chạy mô hình hồi quy Logistic nhị phân (Binary Logistic Regression) để đánh giá tác động từ truyền thông chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tới người tiêu dùng.
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/06/2024 623 lượt xem
Có nhiều mô hình thanh toán quốc tế đang được áp dụng tại các ngân hàng trên thế giới, bao gồm mô hình tập trung, phân tán, thuê ngoài và các mô hình thanh toán khác.
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
19/06/2024 671 lượt xem
Phát huy vai trò báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thời gian qua đã được Đảng, Nhà nước, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo chí trong cả nước và đội ngũ những người làm báo quan tâm, chăm lo, thực hiện; từng bước đề ra nhiều nội dung, giải pháp, phương thức, phát huy hiệu quả vai trò của báo chí cách mạng.
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
19/06/2024 659 lượt xem
Kinh doanh bền vững gắn với bảo vệ môi trường, đề cao trách nhiệm xã hội đang là xu thế tất yếu tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
17/06/2024 479 lượt xem
Là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống tài chính, các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong việc chuyển vốn từ bên thừa sang bên thiếu vốn.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?