Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng

Kinh tế - Xã hội
Điểm hội tụ chiến lược sau 40 năm đổi mới đất nước đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đồng thời, cũng đặt ra yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Việc đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng không chỉ là đòi hỏi tất yếu mà còn là mục tiêu trọng tâm, mang tính quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát triển toàn diện kinh tế-xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
aa

Điểm hội tụ chiến lược sau 40 năm đổi mới đất nước đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đồng thời, cũng đặt ra yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Việc đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng không chỉ là đòi hỏi tất yếu mà còn là mục tiêu trọng tâm, mang tính quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát triển toàn diện kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)

Trong bài viết “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Đây là một trong những yếu tố then chốt đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tinh anh đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Việc tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền và khẳng định sức chiến đấu của Đảng, không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng mà còn là sứ mệnh cao cả để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, phồn vinh, hạnh phúc.

Khẳng định sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền giúp Đảng thực hiện tốt vai trò định hướng chiến lược và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Năng lực lãnh đạo, cầm quyền không chỉ thể hiện ở việc xây dựng các chủ trương, đường lối đúng đắn mà còn ở khả năng tổ chức thực hiện hiệu quả, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, nhân dân và mọi chủ thể trong xã hội. Điều này đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo, tránh bảo thủ, trì trệ và sẵn sàng tiếp thu, chọn lọc những mô hình quản trị hiện đại phù hợp thực tiễn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra yêu cầu “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(1).

Tiếp đó, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục bổ sung nhiều điểm mới và quan trọng, trong đó có thuật ngữ “năng lực cầm quyền” vào mục tiêu tổng quát “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(2); từ đó, nêu lên quan điểm chỉ đạo: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(3).

Sức chiến đấu của Đảng là yếu tố cốt lõi để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền trước các thách thức nội tại và ngoại lực. Đảng không chỉ phải đối mặt với nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ mà còn phải đứng vững trước sự chống phá từ các thế lực thù địch. Sức chiến đấu mạnh mẽ được thể hiện ở sự đoàn kết nội bộ, tính kỷ luật cao và khả năng hành động đồng bộ của từng tổ chức đảng. Mỗi đảng viên, cán bộ cần không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân.

Để hiện thực hóa tinh thần “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” - kim chỉ nam cho việc cải cách và đổi mới năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức của Đảng và Nhà nước, chúng ta cần làm rõ nội dung trọng tâm và áp dụng các phương pháp cụ thể trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện. Đây không chỉ là một yêu cầu về cải cách bộ máy, mà còn là nguyên tắc cốt lõi nhằm tối ưu hóa tổ chức bộ máy, bảo đảm sự gọn nhẹ nhưng vẫn giữ được sức mạnh toàn diện, từ đó nâng cao hiệu quả trong mọi hoạt động, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước để bước vào kỷ nguyên mới.

Tinh thần “Tinh - Gọn” đề cao việc tổ chức bộ máy một cách khoa học, hợp lý, loại bỏ những đầu mối, tầng nấc trung gian không cần thiết, giảm thiểu tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Một tổ chức tinh gọn giúp cải thiện khả năng ra quyết định, giảm bớt thủ tục hành chính, đồng thời tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đối với hệ thống chính trị, tinh gọn không chỉ là sắp xếp lại cơ cấu mà còn là cải cách mạnh mẽ về tư duy và phương pháp làm việc. Bộ máy tinh gọn tạo điều kiện để các cấp lãnh đạo tập trung vào nhiệm vụ chiến lược, thúc đẩy sự sáng tạo, hiệu quả trong chỉ đạo và thực thi.

Tinh thần “Mạnh” chú trọng sức mạnh nội tại của bộ máy tổ chức, được xây dựng từ chất lượng của đội ngũ cán bộ và sự thống nhất trong hành động. Một tổ chức mạnh mẽ phải có đội ngũ nhân sự tinh hoa, được đào tạo bài bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Sự mạnh mẽ còn thể hiện ở khả năng thích ứng nhanh trước các thay đổi, giải quyết hiệu quả các thách thức và tận dụng tốt các cơ hội phát triển. Đây là yếu tố quan trọng để bảo vệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự ổn định và phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Tinh thần “Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” hướng đến mục tiêu cao nhất là mang lại giá trị thực tiễn rõ rệt, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện toàn diện chất lượng đời sống nhân dân. Hiệu năng thể hiện ở khả năng vận hành trơn tru, nhịp nhàng của hệ thống, tối ưu hóa các nguồn lực để đạt kết quả tốt nhất; hiệu lực là khả năng thực thi các quyết định một cách khoa học, nhanh chóng, đúng mục tiêu; còn hiệu quả chính là thước đo kết quả thực tế đạt được. Để hiện thực hóa các giá trị này, cần áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, đổi mới công tác giám sát và kiểm tra, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo và không ngừng cải tiến quy trình hoạt động của tổ chức.

Những đòi hỏi, thách thức từ thực tiễn

Trải qua hơn 90 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền đối với hệ thống chính trị mà còn đóng vai trò trung tâm trong việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, cùng với những khó khăn, thách thức nội tại đặt ra yêu cầu cấp thiết về cải cách, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Thứ nhất, về tổ chức bộ máy của Đảng hiện nay

Trong những năm qua, tổ chức bộ máy của Đảng đã có những cải cách mạnh mẽ hướng tới tinh gọn, hiệu quả, khoa học hơn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước phù hợp tình hình thực tiễn. Các cơ quan Đảng từ Trung ương đến địa phương được sắp xếp lại theo hướng giảm bớt tầng nấc trung gian, loại bỏ các khâu chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, kịp thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy. Tuy nhiên, một số cơ quan còn cồng kềnh, hoạt động chồng chéo, làm giảm hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Tại một số địa phương, sự phối hợp giữa các cơ quan Đảng và chính quyền chưa thật sự chặt chẽ, dẫn đến tình trạng xử lý công việc chậm trễ, không đồng bộ, vẫn còn tình trạng cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa nắm bắt được yêu cầu đổi mới và hội nhập, thậm chí còn có trường hợp vi phạm đạo đức, pháp luật, làm giảm uy tín của Đảng.

Thứ hai, về hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay

Hiệu quả lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ nét qua những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã và đang duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực lan tỏa trong xã hội. Hàng loạt vụ án lớn đã được xử lý nghiêm minh, nhiều cán bộ cấp cao bị kỷ luật, truy tố, cho thấy quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng một bộ máy trong sạch, vững mạnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần sớm được khắc phục để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng: Một số chủ trương, nghị quyết quan trọng của Đảng triển khai xuống cơ sở còn chậm, thiếu sự đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong khâu tổ chức thực hiện. Việc xây dựng chính sách ở một số lĩnh vực chưa thật sự bám sát thực tiễn, gây ra tình trạng lãng phí nguồn lực hoặc không đạt được kết quả như kỳ vọng.

Thứ ba, về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền, là lực lượng duy nhất tiếp nối vai trò và sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, đem lại độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc dự báo và ứng phó với các tình huống phức tạp, đặc biệt là những vấn đề về an ninh phi truyền thống, còn gặp nhiều khó khăn; một số nơi vẫn còn tồn tại tình trạng xa rời quần chúng, thiếu lắng nghe ý kiến từ nhân dân, dẫn đến sự giảm sút niềm tin ở một bộ phận người dân.

Ngoài ra, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đang trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Việc rèn luyện đạo đức, tư tưởng và năng lực chuyên môn cho cán bộ cần được quan tâm hơn nữa, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang tích lũy đủ thế và lực khẩn trương bước vào kỷ nguyên mới.

Giải pháp đồng bộ, quyết liệt, đổi mới phương thức lãnh đạo

Theo tinh thần “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Đảng Cộng sản Việt Nam cần triển khai các giải pháp đồng bộ, quyết liệt để tiếp tục khẳng định năng lực cầm quyền, lãnh đạo toàn diện, bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Một là, cải cách tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”(4).

Xuất phát từ tinh thần đó, quá trình cải cách bắt đầu từ thực hiện rà soát, tổ chức lại các đơn vị có chức năng, nhiệm vụ trùng lặp nhằm loại bỏ các tầng nấc trung gian, từ đó tối ưu hóa nguồn lực và tăng cường hiệu quả thực thi chính sách. Quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan, tránh tình trạng lạm quyền hoặc trốn tránh trách nhiệm.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số trong quản lý và điều hành là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu suất làm việc, gia tăng tính minh bạch và hạn chế các tiêu cực trong quá trình thực thi công vụ nhằm xây dựng bộ máy tối ưu phục vụ người dân và mọi chủ thể trong xã hội.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên

Đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ vai trò then chốt trong việc bảo đảm hiệu quả năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Để có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(5).

Để xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa tinh gọn vừa mạnh mẽ, đội ngũ này cần được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên, qua đó hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy đổi mới sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Mỗi cán bộ cần được trang bị kiến thức chuyên sâu, khả năng nắm bắt và ứng dụng công nghệ hiện đại, đồng thời nắm chắc các vấn đề chiến lược trong nước và quốc tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Việc đánh giá định kỳ hiệu quả công tác sẽ giúp nhận diện đúng, trúng những cán bộ không đạt yêu cầu, từ đó mạnh dạn thay thế và bổ sung nguồn lực mới, bảo đảm đội ngũ cán bộ luôn ở trạng thái sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ được giao phó.

Hơn nữa, cần xây dựng môi trường làm việc thuận lợi để cán bộ, đảng viên được phát huy tối đa năng lực, trình độ, sở trường và đề xuất các giải pháp kịp thời xử lý tốt các vấn đề phát sinh từ thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức.

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng

Hiệu quả lãnh đạo của Đảng phụ thuộc lớn vào việc duy trì kỷ luật và thực thi nghiêm minh các nguyên tắc tổ chức. Để bảo đảm tính minh bạch, sự tin tưởng của nhân dân và sự vững mạnh của Đảng, cần thực hiện kiểm tra thường xuyên, toàn diện ở mọi cấp, từ Trung ương đến cơ sở, nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các dấu hiệu tiêu cực hoặc sai phạm trong tổ chức và đội ngũ cán bộ. Công tác này cần được tiến hành đồng bộ, thường xuyên để không xảy ra tình trạng “vùng cấm”, “lấn sân”, “vô hiệu hóa” lẫn nhau, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy.

Đại hội XIII chỉ rõ: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả”(6).

Việc này nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm đạo đức, pháp luật của cán bộ, đảng viên đều được xử lý công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong quản lý tài chính - ngân sách, đất đai... Việc xây dựng cơ chế giám sát từ sớm, từ xa, nhất là ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm cho mọi hoạt động của tổ chức công khai, minh bạch hơn.

Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng

Phương thức lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng cần được đổi mới để phù hợp yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Thay vì áp đặt các chỉ thị cứng nhắc, Đảng cần tập trung vào định hướng chiến lược, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân phát huy tính tự chủ, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, từ đó nâng cao hiệu quả và tính linh hoạt trong quản lý.

Trước khi đưa ra các quyết định lớn, cần lấy ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học, người dân và mọi chủ thể trong xã hội. Điều này bảo đảm chính sách không chỉ mang tính thực tiễn mà còn khả thi trong việc triển khai. Việc tổ chức các buổi đối thoại, diễn đàn sẽ giúp Đảng lắng nghe trực tiếp ý kiến và nguyện vọng của nhân dân. Những thông tin thực tế này là cơ sở để Đảng điều chỉnh chính sách phù hợp, kịp thời.

Năm là, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân

Mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân là nền tảng quan trọng để giữ vững sức mạnh lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Nhằm củng cố và thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đòi hỏi tất cả các chính sách của Đảng và Nhà nước cần đặt lợi ích của nhân dân ở trung tâm, bảo đảm sự công bằng, minh bạch và hiệu quả. Chính sách cần phản ánh đúng nhu cầu thực tế của nhân dân, mang lại lợi ích thiết thực và tạo niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Nghị quyết Đại hội XIII nêu rõ phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(7). Đó chính là quyền làm chủ thật sự của Nhân dân, vì Nhân dân, đồng thời cũng là điểm quan trọng trong phương pháp, phương thức lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo, cầm quyền bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ chính là cách thức cầm quyền bền vững nhất, dựa trên việc đem lại lợi ích và hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân.

Với tinh thần đó, cán bộ, đảng viên cần gần gũi hơn với nhân dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng để giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội. Đảng cần tạo điều kiện để người dân tham gia tích cực vào các hoạt động quản lý nhà nước và giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền.

Khẳng định rằng, chủ trương “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” không chỉ là kim chỉ nam cho việc nâng cao vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, mà còn là nền tảng để xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân và đổi mới phương thức lãnh đạo là những bước đi chiến lược để Đảng phát huy hiệu quả năng lực cầm quyền, lãnh đạo toàn diện. Với sự quyết tâm, chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Đảng sẽ tiếp tục dẫn dắt đất nước bắt kịp xu hướng phát triển của thời đại, đưa đất nước ta vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hùng cường, thịnh vượng của dân tộc.

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 217.

(2) Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.111, tr.118, tr.185.

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 325.

(4) Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.185.

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 187.

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 199.

(7) Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.249.

Theo Trần Mai Hương/nhandan.vn


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Co-opBank tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2025

Co-opBank tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2025

Sáng 23/12/2024 Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) đã tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2025. Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đào Minh Tú dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
Điều kiện cấp giấy phép đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô

Điều kiện cấp giấy phép đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 162/2024/NĐ-CP ngày 20/12/2024 quy định điều kiện cấp Giấy phép đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và điều kiện đối với chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập.
Kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

80 năm qua, cùng với mục tiêu bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm tròn chức năng của đội quân lao động, sản xuất, phát triển kinh tế gắn liền với củng cố quốc phòng toàn dân, đưa Việt Nam xứng danh “quốc phú, nội yên, ngoại tĩnh, dân cường”, ngàn năm vang danh sử sách.
Thủ tướng chỉ thị tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm

Thủ tướng chỉ thị tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Chỉ thị về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm.
Xây dựng tiêu chuẩn và khung năng lực chuyên môn trọng tâm trong hoạt động của các tổ chức tín dụng

Xây dựng tiêu chuẩn và khung năng lực chuyên môn trọng tâm trong hoạt động của các tổ chức tín dụng

Ngày 19/12/2024, tại Hà Nội, Viện Chiến lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tổ chức Hội thảo phổ biến kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ “Xây dựng tiêu chuẩn và khung năng lực chuyên môn trọng tâm trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) và khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho các vị trí đó”.
Công đoàn NHTW tổ chức Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 4 và tổng kết Quy chế phối hợp với Thủ trưởng hành chính cơ quan NHTW năm 2024

Công đoàn NHTW tổ chức Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 4 và tổng kết Quy chế phối hợp với Thủ trưởng hành chính cơ quan NHTW năm 2024

Ngày 19/12/2024, Công đoàn Cơ quan Ngân hàng Nhà nước Trung ương (NHTƯ) đã tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Quy chế phối hợp giữa Thủ trưởng hành chính cơ quan với Ban Thường vụ Công đoàn NHTƯ năm 2024 và Hội nghị Ban chấp hành Công đoàn NHTƯ lần thứ 4, khóa III, nhiệm kỳ 2023 - 2028.
NHNN quy định mức lãi suất trong năm 2025 đối với dư nợ của các khoản cho vay hỗ trợ nhà ở

NHNN quy định mức lãi suất trong năm 2025 đối với dư nợ của các khoản cho vay hỗ trợ nhà ở

Ngày 18/12/2024, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 2690/QĐ-NHNN về mức lãi suất của các ngân hàng thương mại (NHTM) áp dụng trong năm 2025 đối với dư nợ của những khoản cho vay hỗ trợ nhà ở theo quy định tại Thông tư số 11/2013/TT-NHNN ngày 15/5/2013, Thông tư số 32/2014/TT-NHNN ngày 18/11/2014 và Thông tư số 25/2016/TT-NHNN ngày 29/7/2016.
Vietcombank có giá trị thương hiệu lớn nhất Việt Nam với quy mô đạt 891,4 triệu USD

Vietcombank có giá trị thương hiệu lớn nhất Việt Nam với quy mô đạt 891,4 triệu USD

Theo danh sách 25 Thương hiệu niêm yết dẫn đầu năm 2024 mà Tạp chí Forbes Việt Nam vừa công bố, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) có giá trị thương hiệu lớn nhất Việt Nam với quy mô đạt 891,4 triệu USD.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 47/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Sửa đổi khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài