admin Xu hướng dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc và giải pháp thu hút đầu tư cho Việt Nam
12/01/2021 09:33 17.798 lượt xem
Kiểm soát tốt dịch bệnh Covid-19 khiến Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn khi các nước muốn chuỗi cung ứng giảm phụ thuộc vào Trung Quốc.


Việt Nam được đánh giá là một địa chỉ tiềm năng để thu hút làn sóng dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc, tuy nhiên, để tận dụng tốt cơ hội này đòi hỏi chúng ta cần có những giải pháp cụ thể và phù hợp với tình hình thế giới
 
Trên thực tế, xu hướng này đã được định hình trong nhiều năm trở lại đây và dịch Covid-19 chính là chất xúc tác khiến cho sự dịch chuyển diễn ra nhanh chóng hơn. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả phân tích xu hướng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra được những khuyến nghị giải pháp góp phần đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam.
 
1. Nguyên nhân của xu hướng dịch chuyển đầu tư sang Việt Nam
 
Trung Quốc ngày nay dường như không còn là lựa chọn đầu tư sản xuất hàng đầu như giai đoạn trước năm 2012 và điều này đang tạo cơ hội cho sự phát triển sản xuất ở các nước Đông Nam Á, đáng chú ý nhất là Việt Nam và Indonesia. Trong bối cảnh đó, Covid-19 có thể là chất xúc tác mới thúc đẩy quá trình dịch chuyển sản xuất diễn ra nhanh hơn, sau khi đã được thúc đẩy bởi căng thẳng thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc từ năm 2018. Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu không có dịch Covid-19 xu hướng dịch chuyển sản xuất này vẫn sẽ diễn ra. Sự thay đổi này có thể được lý giải bởi những yếu tố sau:
 
Chi phí sản xuất tăng cao ở Trung Quốc. Tiền lương sản xuất ở Trung Quốc đã tăng từ 2,0 USD/giờ trong năm 2010 lên 3,9 USD/giờ trong năm 2016. Mức lương này là khá cao khi so sánh với tiền lương sản xuất trung bình ở Việt Nam, chỉ gần 1 - 1,4 USD/giờ. Chi phí sử dụng bất động sản công nghiệp tại Trung Quốc cũng tăng mạnh sau quá trình phát triển liên tục của nền kinh tế và mức sống dân cư. Các thành phố lớn như Thượng Hải ghi nhận giá đất công nghiệp tăng lên mức 180 USD/m2, cao hơn so với các thành phố Đông Nam Á khác, trong khi Việt Nam đang có mức giá đất tương đối cạnh tranh, chỉ ở mức 100 - 140 USD/m2. Như một hệ quả tất yếu, các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm những địa điểm đầu tư tiết kiệm chi phí hơn sẽ xem Việt Nam là một lựa chọn thay thế trong nỗ lực cắt giảm chi phí.
 
Trung Quốc thay đổi định hướng phát triển công nghiệp. Sau một thời gian dài có tốc độ tăng trưởng cao trên 8%, Trung Quốc đang dịch chuyển lên trong chuỗi giá trị và tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng gia tăng tiêu thụ nội địa, tập trung phát triển dịch vụ và xuất khẩu mặt hàng có giá trị cao hơn. Điều này đã định hướng lại dòng vốn đầu tư nước ngoài đối với các ngành dựa trên cơ sở lao động, đất đai và các yếu tố khác.
 
Vị trí chiến lược thuận lợi của Việt Nam. Việt Nam sở hữu một vị trí chiến lược, nằm giữa Trung Quốc và Singapore với 3260 km đường bờ biển, tiếp giáp với biển Đông, một trong những khu vực giao thương đường biển trọng yếu của thế giới. Khoảng 40% lượng hàng hóa vận chuyển từ Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương sẽ đi qua khu vực biển Đông này để đến được Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ.
 
Việt Nam đang thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của thị trường logistics và cơ sở hạ tầng. Sự tăng tưởng mạnh mẽ tầng lớp trung lưu với thu nhập khả dụng tăng cao và sự lan tỏa mạnh mẽ của thương mại điện tử ngày nay sẽ là nguồn cầu mạnh mẽ thúc đẩy thị trường logistics của Việt Nam phát triển. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), 5,8% GDP của Việt Nam được chi cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, một mức chi đầu tư cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Trong thời gian qua, Việt Nam tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm hệ thống đường cao tốc, các cảng biển nước sâu, nâng cao chất lượng hệ thống điện nước, bao gồm cả hệ thống tái tạo năng lượng để có thể chuyển dịch lên một nấc thang mới trong chu kỳ phát triển khu công nghiệp, logistics.
 
Sản xuất công nghiệp tại Việt Nam được hưởng lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do (FTA). Tính đến đầu năm 2020, Việt Nam đang dẫn đầu thế giới vì có nhiều FTA nhất. Trong tổng số 16 FTA thì có 12 FTA đã có hiệu lực. Các FTA sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam hưởng các ưu đãi giảm thuế hấp dẫn khi xuất khẩu vào các thị trường lớn trên thế giới như Mỹ và châu Âu. Vì vậy, các hiệp định đã ký kết trong thời gian qua như CPTPP, EVFTA và EVIPA sẽ đem lại lợi thế cho việc thu hút đầu tư và dịch chuyển sản xuất không chỉ ở các khoản đầu tư mới mà cả việc mở rộng các dự án sẵn có. 
 
Như vậy, Việt Nam có những lợi thế khá lớn trong xu hướng các cơ sở sản xuất dịch chuyển khỏi Trung Quốc và cần tìm một địa chỉ mới để hoạt động. Tuy nhiên, quá trình dịch chuyển sẽ không ngay lập tức, mà thường có lộ trình khoảng 2 - 5 năm, do các chuỗi cung ứng toàn cầu đã được hoàn thiện nên không thể nhanh chóng chuyển dịch. Sự dịch chuyển này mang tính đa dạng hóa thị trường, chỉ chuyển dịch một phần chuỗi cung ứng chứ không phải là di dời toàn bộ khỏi Trung Quốc vì quốc gia này có thị trường lớn và hạ tầng sản xuất phát triển mà các nước khác khó có thể có được. Cuối cùng, địa chỉ tiếp nhận dịch chuyển sẽ phục thuộc rất lớn vào các yếu tố: (i) Kỳ vọng của các công ty đa quốc gia; (ii) khả năng đáp ứng của các quốc gia cần thu hút đầu tư, (iii) thái độ và các phản ứng của Trung Quốc.
 
2. Tình hình dịch chuyển đầu tư sang Việt Nam thời gian qua
 
Thu hút vốn FDI bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhưng vẫn cho thấy dấu hiệu tích cực. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần 9 tháng đầu năm 2020 đạt 21,2 tỷ USD, bằng 81% so với cùng kỳ năm 2019. Mặc dù, lưu lượng vốn FDI giảm khá rõ so với cùng kỳ 3 năm trước đó (2017 - 2019), song biến động này không đáng lo ngại bởi lẽ phần giảm chủ yếu đến từ sự sụt giảm vốn mua cổ phần do các biến động tiêu cực trên thị trường chứng khoán, trong khi vốn FDI đăng ký cấp mới và vốn điều chỉnh vẫn tăng hơn so với cùng kỳ năm 2019. (Hình 1, 2)
 

 
Nhu cầu đất công nghiệp tăng cao phản ánh xu hướng dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam. Bắt đầu mở cửa từ năm 1986 với chỉ khoảng 335 ha đất dành cho các khu công nghiệp, đến năm 2019, Việt Nam đã có khoảng gần 100.000 ha đất công nghiệp. Thống kê của Vụ Quản lý các khu kinh tế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến tháng 12/2019, cả nước có 335 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đạt 97.800 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 66.100 ha. Trong số các khu công nghiệp được thành lập, 260 khu công nghiệp đã hoạt động với tỷ lệ lấp đầy lên đến 75,7%, 75 khu công nghiệp đang xây dựng, đền bù và giải phóng mặt bằng, đảm bảo nguồn cung trong tương lai.
 
Mặc dù đại dịch Covid-19 tạo tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp quý III/2020 vẫn đạt 78% - một tín hiệu tích cực về niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng kinh tế Việt Nam. Mức giá thuê đất khu công nghiệp cũng tăng trung bình khoảng 9% trong năm 2020 trên phạm vi cả nước. Theo đó, tỷ lệ lấp đầy ở khu vực miền Bắc tính đến hết quý III/2020 đạt 74%, giá đất trung bình đạt 102 USD/m2 cho mỗi chu kỳ thuê, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Tại khu vực miền Nam, giá thuê tại các dự án kho mới của các chủ đầu tư nước ngoài trong quý III/2020 tăng 5 - 10% so với cùng kỳ 2019.
 
Số lượng công ty đa quốc gia đã dịch chuyển/lên kế hoạch dịch chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam ngày càng gia tăng. Xuất phát những căng thẳng của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung trong năm 2018, nhiều công ty đa quốc gia đã lên kế hoạch và trên thực tế đã dịch chuyển cơ sở sản xuất sang Việt Nam. Xu hướng này tiếp tục được đẩy mạnh trong năm 2020 do những quan ngại đối với sự phụ thuộc vào Trung Quốc sau dịch Covid-19. (Bảng 1)

 
Lĩnh vực sản xuất dịch chuyển có sự thay đổi so với trước đây. Trước đại dịch Covid-19, vốn FDI đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu tập trung vào 3 lĩnh vực chính là: công nghiệp chế biến - chế tạo, kinh doanh bất động sản và bán buôn - bán lẻ - sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy (chiếm 81% tổng vốn đăng ký năm 2019). Từ khi đại dịch Covid-19 xảy ra, các nhà đầu tư nước ngoài đã và đang dịch chuyển đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực: (i) Công nghệ thông tin, công nghệ cao (như Samsung, Apple…); (ii) thiết bị điện tử và phụ kiện (Panasonic…); (iii) logistics, thương mại điện tử (Alibaba…); (iv) hàng tiêu dùng, bán lẻ (Zara, H&M).
 
3. Thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam trong thu hút dòng vốn dịch chuyển từ Trung Quốc
 
3.1. Thuận lợi
 
Việt Nam là một trong các quốc gia phòng chống dịch Covid-19 tốt trên thế giới, điều này làm tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong quá trình đối phó với dịch bệnh, Việt Nam được đánh giá cao về chỉ số công khai, minh bạch thông tin, tạo cho doanh nghiệp niềm tin vào thông tin thị trường. Ngoài ra, Việt Nam sở hữu vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam nằm giữa Trung Quốc và Ấn Độ với 3260 km đường bờ biển, tiếp giáp với biển Đông, một trong những khu vực giao thương đường biển trọng yếu của thế giới. Khoảng 40% lượng hàng hóa vận chuyển từ Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương sẽ đi qua khu vực biển Đông này để đến được Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ.
 
Chi phí cho hoạt động sản xuất tại Việt Nam đang khá cạnh tranh so với Trung Quốc hay các quốc gia khác trong khu vực. Bảng 2 so sánh chi tiết chi phí sản xuất tại Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực. 
 

 
Các điều kiện kinh doanh, hạ tầng logistics, công nghệ đang được quan tâm cải thiện liên tục bởi Chính phủ. Theo ước tính của ADB, 5,8% GDP của Việt Nam được chi cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, một mức chi đầu tư cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, đẩy mạnh đầu tư công giúp cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và thu hút vốn các nhà máy dịch chuyển sang Việt Nam. (Bảng 3)
 

 
Việt Nam có một số lợi thế cạnh tranh về văn hóa, giáo dục so với các quốc gia khác. Việt Nam có sự tương đồng văn hóa với các quốc gia Đông Bắc Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản). Tỷ lệ người lao động nói được tiếng Hàn Quốc và Nhật Bản ở Việt Nam là cao hơn đáng kể so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
 
3.2. Thách thức
 
Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ những quốc gia khác trong khu vực như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia trong thu hút dịch chuyển đầu tư. Trong thời gian qua, Chính phủ các quốc gia này đang dùng 4 công cụ sau để thu hút đầu tư: 
 
- Miễn giảm thuế (Indonesia có kế hoạch giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% về mức 23% năm 2021; Ấn Độ miễn thuế từ 4 - 10 năm cho các dự án đầu tư trong 1 số lĩnh vực ưu tiên, Philippines giảm thuế từ 30% về 25%); 
 
- Ưu đãi về đất đai (Indonesia xây 27 khu công nghiệp mới, Ấn Độ); 
 
- Cam kết giữa các nhà lãnh đạo cấp cao về cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh (Indonesia, Malaysia); 
 
- Cung cấp gói hỗ trợ đào tạo công nhân lành nghề (Thái Lan). (Hình 3, 4)
 

 
Môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh của Việt Nam mặc dù đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn được yêu cầu của các nhà đầu tư quốc tế, đặc biệt là về thời gian thực hiện thủ tục hành chính, chi phí giao dịch. Hạ tầng khu công nghiệp, logistics; và các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa trong so sánh với Trung Quốc.
 
Đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao, ngành công nghiệp mũi nhọn, Trung Quốc sẽ cố gắng đưa ra các chính sách để giữ chân các nhà máy này. Trong khi đó, Trung Quốc có thể tạo điều kiện để các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên và nhân công, giá trị gia tăng thấp dịch chuyển sang các quốc gia khác nhanh chóng. Điều này sẽ gây ra những hệ lụy tiêu cực cho quốc gia nhận đầu tư.
 
Đối với các nhà đầu tư châu Á như các doanh nghiệp Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong quan hệ làm ăn. Tuy nhiên, đích hướng tới của Việt Nam là khoản đầu tư vào công nghệ hiện đại, công nghệ tương lai như trí tuệ nhân tạo, robot, big data, fintech. Muốn vậy, chúng ta cần phải tiếp cận được nhà đầu tư từ châu Âu và Mỹ. Đây là vấn đề hiện nay chúng ta chưa có lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia trong khu vực.
 
4. Giải pháp thu hút dịch chuyển đầu tư sang Việt Nam
 
Việt Nam được đánh giá là một địa chỉ tiềm năng để thu hút làn sóng dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc, tuy nhiên, để tận dụng tốt cơ hội này đòi hỏi chúng ta cần có những giải pháp cụ thể và phù hợp với tình hình thế giới. Một số gợi ý giải pháp cho Việt Nam như sau:
 
Thành lập tổ công tác đặc biệt và tổ công tác nhận được sự ủy quyền của Thủ tướng để đi đàm phán với các tập đoàn, các doanh nghiệp có ý định dịch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc. Cần sớm xây dựng và công bố chính sách thu hút dịch chuyển dòng vốn đầu tư; trong đó, cần nêu rõ lĩnh vực ưu tiên, địa phương ưu tiên (gắn với quy hoạch tổng thể, tránh cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương). Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, là việc ra các quyết định chính sách nhanh chóng và làm sao có được “chính sách ổn định, minh bạch và dễ tiên lượng”.
 
Đón làn sóng dịch chuyển đơn hàng trước, dịch chuyển nhà máy sau. Trong khi các công ty trên toàn cầu co cụm vì dịch bệnh, việc mở thêm các nhà máy ở Việt Nam cũng là điều khó thực hiện ngay lập tức. Chính vì vậy, cái dễ nhất mà Việt Nam có thể đón chính là dịch chuyển đơn hàng sang sản xuất ở Việt Nam trước.
 
Xây dựng hệ thống công nghiệp hỗ trợ. Việt Nam cần có kế hoạch chi tiết hình thành các tổ hợp, liên danh công nghiệp hỗ trợ gồm các doanh nghiệp nhỏ, các cụm liên kết sản xuất (industrial cluster), hoặc có biện pháp cụ thể ưu đãi cho các công ty công nghiệp hỗ trợ cỡ vừa hiện nay đầu tư mở rộng sản xuất.
 
Rà soát toàn bộ các khu công nghiệp: Các khu công nghiệp cần ưu tiên mở rộng, xây mới, các khu công nghiệp cần thu hẹp, thu lại; công bố danh sách các khu công nghiệp có quỹ đất sạch, cơ sở hạ tầng sẵn sàng. Công bố công khai thông tin về giá, ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nâng cao năng lực của các bộ phận tham mưu bao gồm các sở, ban, ngành của tỉnh, cơ quan của ban quản lý khu công nghiệp để tham mưu cho các ban quản lý biết cách lựa chọn nhà đầu tư và dự án đầu tư phù hợp với định hướng mới đã được Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về thu hút đầu tư nước ngoài.
 
Đẩy mạnh việc chuẩn bị nhân lực chất lượng cao. Công tác đào tạo nhân lực chất lượng cao thời gian qua đã được cải thiện đáng kể (nhiều tập đoàn Hàn Quốc, Nhật Bản đã công nhận điều này). Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục phát huy và hướng tới đối tượng doanh nghiệp phương Tây.
 
Tạo điều kiện thông thoáng hơn khi các nhà máy mang công nghệ sẵn có đang sử dụng tại Trung Quốc sang Việt Nam. Trường hợp này chúng ta đang áp dụng Thông tư 23/2015/TT-BKHCN quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng của Bộ Khoa học và Công nghệ, theo đó, dây chuyền máy móc phải qua kiểm định mất khá nhiều thời gian. Muốn thu hút nhiều doanh nghiệp chúng ta cần có cơ chế linh hoạt hơn để doanh nghiệp có thể sản xuất nhanh chóng khi sang Việt Nam.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 
1. Đại học Kinh tế Quốc dân, 2020, Báo cáo đánh giá tác động của Covid-19 đến nền kinh tế và các khuyến nghị chính sách.
 
2. General Statistical Office. Vietnam Statistical Yearbook (various years). General Statistical Office, Hanoi.
 
3. Goodell, J.W., 2020, ‘COVID-19 and finance: Agendas for future research’, Finance Research Letters.
 
4. Học viện Ngân hàng, 2020, Đánh giá tác động của Covid-19 đến nền kinh tế Việt Nam.
 
5. IMF, 2020, A Crisis Like No Other, An Uncertain Recovery, World economic outlook reports.
 
6. Noy, I., Nguyen Doan, B. Ferrarini, and D. Park. 2020. “The economic risk of Covid-19 in developing countries: Where is it highest?” In Covid-19 in Developing Economies, edited by S. Djankov and U. Panizza. London: CEPR Press, June. 
 
7. World Bank. 2020a. Global Economic Prospects (June 2020). Washington, DC: World Bank.
 
8. World Bank. 2020b. Covid-19 Policy Response Notes for Vietnam (June). World Bank, Hanoi.



PGS.,TS. Đào Minh Phúc

Tạp chí Ngân hàng số 21/2020
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Sự hài lòng trực tuyến trong ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Sự hài lòng trực tuyến trong ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng điện tử tại Việt Nam
19/11/2024 09:44 244 lượt xem
Sự phát triển nhanh chóng của các hệ thống điện tử và Internet đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ nói chung, dịch vụ tài chính, ngân hàng nói riêng...
Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm
Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm
18/11/2024 11:30 474 lượt xem
Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng.
Tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp và những vấn đề đặt ra
Tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp và những vấn đề đặt ra
11/11/2024 08:25 678 lượt xem
Thông qua phân tích quy mô và biến động dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023, bài viết chỉ ra những kết quả tích cực và một số hạn chế trong tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với ngành sản xuất quan trọng này.
Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tại ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tại ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
05/11/2024 08:10 812 lượt xem
Hiện nay, công tác bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực được các NHTM chú trọng đầu tư phát triển, tuy nhiên, nguồn nhân lực của nhiều ngân hàng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về chất lượng, ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của các ngân hàng.
Đánh giá khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng của NHTM Việt Nam bằng mô hình định lượng
Đánh giá khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng của NHTM Việt Nam bằng mô hình định lượng
04/11/2024 08:23 1.157 lượt xem
Nghiên cứu này nhằm chỉ ra mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng thông qua phương pháp khảo sát và phân tích hồi quy dữ liệu của 37 NHTM Việt Nam.
Thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn: Rào cản và gợi ý cho Việt Nam
Thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn: Rào cản và gợi ý cho Việt Nam
31/10/2024 08:07 962 lượt xem
Biến đổi khí hậu trở thành rủi ro lớn nhất mà loài người đang phải gánh chịu (WEF, 2024). Trong bối cảnh đó, phát triển bền vững không còn là sự lựa chọn, mà gần như bắt buộc ở hầu hết các quốc gia trên toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, mô hình kinh tế tuần hoàn nổi lên như một công cụ quan trọng.
Việt Nam sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế
29/10/2024 15:02 3.856 lượt xem
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng lên, khẳng định vai trò tích cực và trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, hợp tác phát triển và thúc đẩy tiến bộ toàn cầu.
Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị
Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị
22/10/2024 14:35 6.793 lượt xem
Tình hình kinh tế Việt Nam trong tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước; tính chung 9 tháng năm 2024 đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực.
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam
21/10/2024 08:35 2.335 lượt xem
Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế.
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam
18/10/2024 08:05 2.108 lượt xem
Nghiên cứu này xem xét tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2014 - 2023.
Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam
Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam
17/10/2024 08:45 1.792 lượt xem
Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động lớn đến đời sống và kinh tế toàn cầu, nông nghiệp tác động đến phát triển kinh tế - xã hội trên hai khía cạnh thích ứng với môi trường và tác động tiêu cực đến môi trường.
Tiếp cận phương pháp xác định hành vi quản trị lợi nhuận theo hướng truyền thống và hiện đại
Tiếp cận phương pháp xác định hành vi quản trị lợi nhuận theo hướng truyền thống và hiện đại
16/10/2024 08:00 951 lượt xem
Quản trị lợi nhuận là một chiến lược có thể được ban quản lí cố ý sử dụng để điều chỉnh chỉ tiêu thu nhập của công ty với các mục tiêu đã xác định trước.
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - công cụ hỗ trợ phát triển “tam nông”: Kinh nghiệm từ Nhật Bản và bài học cho Việt Nam
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - công cụ hỗ trợ phát triển “tam nông”: Kinh nghiệm từ Nhật Bản và bài học cho Việt Nam
15/10/2024 08:02 563 lượt xem
Bảo lãnh tín dụng được coi là một công cụ hữu hiệu giúp khắc phục được “điểm nghẽn” về vốn cho phát triển “tam nông”. Bài viết đề cập đến kinh nghiệm của Nhật Bản về bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững
14/10/2024 08:00 809 lượt xem
Quán triệt sâu sắc những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách, biện pháp về tiền tệ, tín dụng để khơi thông dòng vốn tín dụng vào khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Xây dựng mô hình dự báo hiện tại tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam
Xây dựng mô hình dự báo hiện tại tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam
11/10/2024 09:58 508 lượt xem
Dự báo hiện tại (Nowcasting) rất quan trọng trong kinh tế học vì dữ liệu cho các chỉ số chính như GDP thường có độ trễ và sai số đo lường đáng kể (Giannone và cộng sự, 2008)...
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

Vàng SJC 5c

83,700

86,220

Vàng nhẫn 9999

83,700

85,600

Vàng nữ trang 9999

83,600

85,200


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,150 25,502 26,092 27,523 31,263 32,592 158.81 168.04
BIDV 25,190 25,502 26,295 27,448 31,648 32,522 160.63 167.55
VietinBank 25,198 25,502 26,307 27,507 31,676 32,686 160.27 168.02
Agribank 25,200 25,502 26,225 27,408 31,448 32,511 160.54 168.04
Eximbank 25,160 25,502 26,287 27,168 31,543 32,559 161.12 166.54
ACB 25,170 25,502 26,309 27,212 31,642 32,598 160.68 167.03
Sacombank 25,180 25,502 26,294 27,267 31,555 32,708 160.81 167.32
Techcombank 25,184 25,502 26,134 27,486 31,274 32,605 157.32 169.76
LPBank 25,190 25,502 26,591 27,484 31,928 32,590 162.28 169.38
DongA Bank 25,230 25,500 26,300 27,150 31,600 32,550 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?