1. Triển vọng và thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2024
Năm 2024, chúng ta có thể tin tưởng, những khó khăn nhất đã ở phía sau. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam quý IV/2023 đã phục hồi lên 6,72% so với cùng kì năm 2022, góp phần vào tổng mức tăng trưởng cả năm 2023 đạt 5,05%. Đóng góp cho đà hồi phục này là nhờ sự cải thiện về thương mại bắt đầu trong quý cuối cùng của năm 2023. Tháng 12/2023 cũng đánh dấu là tháng thứ tư liên tiếp Việt Nam chứng kiến xuất khẩu tăng trưởng so với cùng kì năm 2022. Đặc biệt, các lĩnh vực mới có tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu như nông sản cũng tiếp tục cho thấy sự cải thiện đáng kể về những tháng cuối năm 2023. Ngoài sản xuất, nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng tiếp tục là trụ cột vững chắc cho tăng trưởng.
Mặc dù vậy, sự phục hồi là không đồng đều khi các mặt hàng xuất khẩu như dệt may và da giày vẫn chưa cho thấy dấu hiệu hồi phục. Về thương mại, có thể phải mất một thời gian mới thấy được sự phục hồi trên diện rộng. Mặt khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng kí vẫn rất tích cực, phản ánh sức hấp dẫn ngày càng tăng của Việt Nam với tư cách là một trung tâm sản xuất đang lên. Trong khi đó, năm 2024, Quốc hội đã thông qua mục tiêu tăng trưởng GDP 6,0 - 6,5%, phản ánh kì vọng về sự cải thiện hoạt động kinh tế trong năm 2024.
Về lạm phát, nhìn chung chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vẫn đang được kiểm soát tốt. Bất chấp một số rủi ro tăng giá từ lương thực và năng lượng, áp lực giá cả cơ bản vẫn đang thấp hơn nhiều so với mục tiêu bình quân 4,5% mà Quốc hội đề ra.
Về lãi suất, bên cạnh việc duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với việc duy trì thanh khoản VND dồi dào, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Cùng hệ thống các chỉ đạo và giải pháp đồng bộ của NHNN, đến ngày 31/12/2023, tăng trưởng tín dụng đạt 13,71% so với cuối năm 2022. Với triển vọng toàn cầu ổn định và lạm phát ở mức vừa phải, nhóm nghiên cứu Ngân hàng HSBC kì vọng NHNN sẽ tiếp tục giữ nguyên mặt bằng lãi suất điều hành trong thời gian sắp tới.
Về tỉ giá, theo nhóm nghiên cứu Ngân hàng HSBC, tỉ giá USD/VND sẽ duy trì áp lực tăng trong nửa đầu năm 2024 vì bốn lí do chính. Thứ nhất, sự khác biệt về chính sách tiền tệ giữa Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và NHNN có thể sẽ vẫn còn lớn. Thứ hai, thanh khoản VND trên thị trường liên ngân hàng có thể sẽ tiếp tục duy trì dồi dào và giải ngân đầu tư công chưa được như kế hoạch. Thứ ba, trong khi thặng dư thương mại và FDI của Việt Nam có thể duy trì ở mức cao, những biến động trên thị trường quốc tế có thể tiếp tục gây tác động tiêu cực tới thương mại. Cuối cùng, đồng USD nói chung được dự báo sẽ vẫn tiếp tục duy trì mạnh lên trong nửa đầu năm 2024, bên cạnh sự suy yếu của đồng Nhân dân tệ (CNY), từ đó cũng tác động trực tiếp lên biến động của tỉ giá USD/VND.
2. FDI và thuế tối thiểu toàn cầu
FDI tiếp tục là một trong những trụ cột quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời điểm hiện tại cũng như tương lai. Mặc dù vậy, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tương đối gập ghềnh từ năm 2019. Covid-19 khiến tổng lượng vốn FDI giảm 25% và chững lại cho tới khi mở cửa vào năm 2022. Tới năm 2023, FDI tăng trở lại 15% so với năm 2022 và chính các khoản đầu tư theo chiến lược Trung Quốc + 1, lợi thế chi phí cạnh tranh, hỗ trợ tích cực từ Chính phủ, tầng lớp trung lưu gia tăng cùng sự phát triển đầy hấp dẫn của thị trường tiêu dùng nội địa, các thỏa thuận thương mại tự do ngày càng mở rộng và mức tăng trưởng đầy hứa hẹn của lĩnh vực năng lượng tái tạo, điện, logistics, y tế, ngành hàng tiêu dùng, cơ sở hạ tầng… tiếp tục phản ánh sức mạnh, sự bền bỉ và hấp dẫn khi đầu tư vào Việt Nam.
Thuế tối thiểu toàn cầu (Global Minimum Tax - GMT) do Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development - OECD) khởi xướng có hiệu lực từ ngày 01/01/2024 buộc các công ty đa quốc gia phải xem xét và có những cân nhắc tính toán khi tìm kiếm thị trường có lợi nhất để đầu tư. Do đó, điều quan trọng là thiết lập một cơ chế hai chiều: Vừa tạo ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời, vẫn đảm bảo những lợi ích về trung và dài hạn cho Việt Nam trong vai trò là thị trường tiếp nhận đầu tư. Một mặt, ưu đãi cần mang lại lợi ích thiết thực mới giúp Việt Nam cạnh tranh với các nước láng giềng. Mặt khác, phải xem xét trọng tâm theo hướng lâu dài. Chẳng hạn, tiếp nhận chuyển giao công nghệ là mảng mà Việt Nam còn tương đối yếu bất chấp dòng vốn FDI ồ ạt trong nhiều năm qua. Hợp tác hiệu quả và có chiến lược với các công ty đa quốc gia, đồng thời, xây dựng lộ trình khai thác lợi ích từ FDI là một vấn đề hết sức quan trọng, giúp Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng nhanh và mạnh mẽ. Đồng thời, trong khi FDI đóng góp vào hơn 70% xuất khẩu của Việt Nam, số lượng nhà cung ứng để hỗ trợ lại không theo kịp. Phần lớn các công ty đa quốc gia phải dựa vào nhà cung ứng nước ngoài và đây là điểm Việt Nam có thể dồn sức để phát triển các nhà cung ứng trong nước khi vốn đầu tư nước ngoài đổ vào.
Việt Nam hiện đang là một thị trường cận biên, với tham vọng thu hút thêm FDI có giá trị gia tăng cao, chẳng hạn như chuỗi giá trị chất bán dẫn, phương tiện chạy điện (EV), pin, tấm pin năng lượng mặt trời… Để làm được điều đó, Việt Nam cần có thêm những ưu đãi hấp dẫn. Nếu ví ưu đãi này như một củ cà-rốt thì củ cà-rốt đó phải đủ hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư đổ tiền vào, đồng thời, cũng phải đủ minh bạch để đảm bảo món ăn "ngon miệng" nhằm giữ chân họ ở lại. Môi trường pháp lí đóng một vai trò bổ trợ đối với tác động của GMT. Về cơ bản, đối với nhiều công ty đa quốc gia, thủ tục pháp lí vẫn là một trong những nút thắt khó gỡ nhất từ giai đoạn đầu tư ban đầu đến khi hoạt động tại thị trường Việt Nam. Thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp vẫn tốn nhiều thời gian, cộng với sự thiếu đồng bộ về chính sách giữa các tỉnh, thành; bên cạnh đó, một số quy định về thanh toán nước ngoài còn khá chặt chẽ, nhiều yêu cầu về thủ tục, giấy tờ… Đó là những rào cản đối với thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với Việt Nam, rõ ràng FDI là một nguồn lực cho tăng trưởng. Động lực này sẽ luôn vững vàng và có ý nghĩa nhất định đối với sự tăng trưởng lành mạnh của Việt Nam. Với định hướng rõ ràng như vậy, việc Việt Nam cần làm là tận dụng và học hỏi từ các công ty đa quốc gia để thực hiện chuyển giao công nghệ, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự phát triển của các nhà cung cấp trong nước và sớm tháo gỡ những khó khăn về pháp lí, mở đường cho sự tăng trưởng và hiện đại hóa của Việt Nam - một ngôi sao đang lên của ASEAN.
3. An toàn cho hệ thống ngân hàng
Về cơ bản, Việt Nam đang áp dụng, triển khai nhiều giải pháp tích cực nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Chẳng hạn như tập trung hoàn thiện các quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân. Với sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện số và sự xuất hiện của nhiều nền tảng mạng xã hội, việc bảo vệ dữ liệu khách hàng ngày càng trở nên đặc biệt khó khăn. Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân được thông qua đã truyền đi một thông điệp rõ ràng đến tất cả người dân rằng các cơ quan chức năng thể hiện sự quyết liệt trong vấn đề này. Đây chính là yếu tố mà nhiều thị trường khác còn thiếu dẫn đến thông tin cá nhân bị các tổ chức khai thác.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng triển khai nhiều sáng kiến kích cầu. Mua được nhà là một trong những mong muốn lớn nhất của người lao động trong một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nơi mà phân khúc thuộc nhóm trung lưu ngày càng đông lên. Những chính sách mới được ban hành của cơ quan quản lí giúp gia tăng khả năng vay thế chấp, đặc biệt đối với người dân bình thường, là rất đáng hoan nghênh. Tương tự, những quy định gần đây của NHNN như Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 của Thống đốc NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn và Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng là những động thái tích cực nhằm giảm nhẹ gánh nặng đối với khách hàng trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu rất khó khăn hiện nay. Quy định mới về cho vay bằng phương tiện điện tử (Thông tư số 06/2023/TT-NHNN), đồng thời, giúp đáp ứng nhu cầu của thế hệ am hiểu công nghệ mới cho thấy quan điểm cầu thị và hướng đến tương lai của các cơ quan quản lí.
Đối với doanh nghiệp, những văn bản pháp luật có tính hỗ trợ cao như Nghị định số 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; Thông tư số 02/2023/TT-NHNN đã hỗ trợ doanh nghiệp quản lí dòng tiền tốt hơn. Những cập nhật đáng chú ý trong Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN cùng với hướng dẫn đánh giá rủi ro về môi trường trong Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 của Thống đốc NHNN cũng sẽ cải thiện mức độ rõ ràng trong hoạt động cấp tín dụng và hỗ trợ công bố thông tin quan trọng trong khuôn khổ môi trường pháp lí hiện tại.
Ngân hàng HSBC Việt Nam đánh giá cao sự giám sát chặt chẽ của Việt Nam đối với lạm phát và những điều chỉnh linh hoạt, chủ động trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tâm thế này giúp kiến tạo môi trường kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài yên tâm hoạt động. Tổ chức Fitch Ratings đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức BB lên mức BB+, với triển vọng “ổn định” chính là minh chứng cho thấy các tổ chức bên ngoài nhìn nhận thế nào về nỗ lực của NHNN cũng như các cơ quan hữu quan khác của Việt Nam.
Về nghiên cứu và thông tin thị trường, Ngân hàng HSBC ghi nhận kết quả ấn tượng của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (Credit Information Center - CIC) trong việc cung cấp cho các ngân hàng nguồn thông tin chính thống dồi dào. Bản thân Ngân hàng HSBC đã tận dụng được rất nhiều thông tin này trong quá trình đánh giá tín dụng và đó là một trong những lí do chính giúp quản lí rủi ro hiệu quả. Chia sẻ kinh nghiệm từ những thị trường khác nơi Ngân hàng HSBC hoạt động, cơ quan giống như CIC không chỉ đóng vai trò là đầu mối thu thập và phân phối hồ sơ tín dụng khách hàng mà còn đưa ra hướng dẫn cho thị trường. Các cơ quan này làm được điều đó thông qua chia sẻ thông tin chuyên sâu quan trọng cho các tổ chức tín dụng về một số xu hướng như tỉ lệ nợ xấu theo lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lí, hồ sơ khách hàng… Việc chia sẻ này giúp các tổ chức tín dụng ở những thị trường này có thể nắm bắt sớm các xu hướng và có biện pháp đón đầu nhằm kiểm soát các phân khúc rủi ro cao nếu có. Thêm nữa, nó cũng giúp các cơ quan quản lí xác định được tổ chức tín dụng nào đang đi theo xu hướng chung của thị trường còn tổ chức tín dụng nào thì nằm ngoài xu hướng.
4. Một số đề xuất, kiến nghị
Một là, nên đồng bộ tiêu chuẩn kế toán với thế giới. NHNN nên xem xét khả năng áp dụng Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế 9 - Công cụ tài chính (International Financial Reporting Standard - Financial Instruments, gọi tắt là IFRS9) của Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế nhằm thống nhất cách phân loại tài sản và dự phòng. IFRS9 đang được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu và tạo ra cách tiếp cận thống nhất về kế toán tài chính đối với những ngân hàng quốc tế như HSBC. Việc áp dụng này không chỉ giúp các ngân hàng quốc tế hoạt động xuyên suốt ở Việt Nam mà còn hỗ trợ các ngân hàng trong nước mở rộng sang những thị trường khác, từ đó, ghi dấu ấn thương hiệu Việt Nam trên bản đồ thế giới. Trên cơ sở thực thi, IFRS9 mang lại những lợi thế về phương pháp dự phòng hiệu quả hơn cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam nếu muốn hội nhập sâu hơn vào mạng lưới tài chính toàn cầu. Chẳng hạn, kinh nghiệm từ biến động kinh tế do đại dịch Covid-19 càng cho thấy dự phòng theo IFRS9 gia tăng nhanh chóng hơn so với dự phòng theo tiêu chuẩn trong nước do cân nhắc những tổn thất tiềm tàng trong tương lai, bởi vì, IFRS9 hoạt động trên cơ sở những tổn thất trước khi xuất hàng (nghĩa là khách hàng hiện tại cũng được yêu cầu phải duy trì dự phòng), như vậy, sẽ tạo bộ đệm đặc biệt nếu có ngân hàng nào có mức tăng trưởng “nóng”.
Hai là, NHNN cần xem xét sửa đổi một số quy định quản lí nhà nước trong hoạt động ngân hàng cho rõ ràng hơn. Hiện tại, NHNN đang có những đánh giá toàn diện và định kì nhằm cập nhật các quy định và theo sát các chuẩn mực/xu hướng mới nhất. Tuy nhiên, với những thay đổi mới, trong một vài trường hợp vẫn có những điều khoản có thể được hiểu theo những cách khác nhau đối với từng tổ chức tín dụng dẫn đến sự không đồng nhất trong hệ thống ngân hàng. Cách làm hữu hiệu là áp dụng một khung pháp lí linh hoạt, trong đó, NHNN và các tổ chức tín dụng có thể chia sẻ cởi mở ý kiến, từ đó, những khó khăn trong triển khai có thể được đề xuất ngay lên NHNN. Như vậy, bằng cách làm đó sẽ tạo ra sự đồng thuận giữa các ngân hàng thương mại, dưới sự chỉ đạo, điều hành thống nhất của NHNN. Một ví dụ có thể nêu ra ở đây là các hướng dẫn về cho vay để trả nợ, theo đó, mỗi ngân hàng có quy định riêng về cung cấp chứng nhận tất toán/cơ cấu lại nợ cho khách hàng.
Ba là, Việt Nam có thể ban hành thêm các quy định tiêu chuẩn nhằm đo lường các rủi ro chuyển đổi và rủi ro vật chất, để gia tăng trách nhiệm của doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đang hoạt động trong những ngành khó chuyển dịch và ở những khu vực phải đối mặt với rủi ro vật chất cao. Nhóm tác giả đề xuất có thể dùng hướng dẫn được chấp nhận trên toàn cầu như hướng dẫn của Lực lượng đặc nhiệm về công bố thông tin tài chính liên quan đến khí hậu (Task Force on Climate-related Financial Disclosures - TCFD) nhằm thúc đẩy công bố thông tin của doanh nghiệp, từ đó, tạo điều kiện đối thoại cùng các ngân hàng để hỗ trợ hành trình chuyển dịch của họ.
Bốn là, quy trình tố tụng còn nhiều khó khăn do thời gian xử lí kéo dài, trung bình là 3 - 5 năm (thậm chí lâu hơn đối với dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp) và một số yêu cầu pháp lí lại được xử lí theo cách khác nhau ở mỗi địa phương, chẳng hạn như quy định xử lí vi phạm nghĩa vụ bàn giao tài sản bảo đảm, quy định về tịch biên tài sản bảo đảm và quy định về xử lí tài sản bảo đảm trong một dự án bất động sản. Vì vậy, NHNN cần xem xét, rà soát và sửa đổi những quy định này nhằm hỗ trợ các ngân hàng và tổ chức tín dụng cải thiện quy định xử lí nợ xấu và cải thiện chất lượng nợ xấu nói chung trong ngành Ngân hàng.
Ngô Đăng Khoa (Giám đốc Khối ngoại hối, thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán, Ngân hàng HSBC Việt Nam)
Joon Suk Park (Giám đốc Khối kinh doanh quốc tế, Ngân hàng HSBC Việt Nam)
Yong Han (Giám đốc Quản lí rủi ro, Ngân hàng HSBC Việt Nam)