Truyền thông chính sách của các ngân hàng trung ương trong thời kỳ lạm phát cao
11/11/2022 09:58 4.380 lượt xem
Tóm tắt: Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương (NHTW) với công chúng có thể là phương thức hiệu quả để giảm kỳ vọng lạm phát trong thời kỳ lạm phát tăng đột biến. Đồng thời, việc giải thích dự báo của các chuyên gia NHTW ảnh hưởng đến kỳ vọng nhiều hơn là chỉ cung cấp các số liệu dự báo. Bài viết giới thiệu nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) về tác động của truyền thông chính sách NHTW trong việc giảm lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong thời kỳ lạm phát cao.
 
Từ khóa: Truyền thông chính sách, lạm phát kỳ vọng, ngân hàng trung ương.
 
CENTRAL BANK POLICY COMMUNICATION DURING PERIODS OF HIGH INFLATION
 
Abstract: Central bank communication with the public can be an effective way to reduce inflation expectations during periods of high inflation. At the same time, the interpretation of forecasts by central bankers affects inflation expectations more than simply providing forecast figures. The article introduces the research of Prof. Mathias Hoffmann, Prof. Emanuel Moench et al (2022) on the impact of policy communication by central banks in reducing expected inflation of households during periods of high inflation.
 
Keywords: Policy communication, inflation expectations, central bank.
 
1. Đặt vấn đề và phương pháp nghiên cứu
 
Do giá tiêu dùng tăng và tình trạng thiếu cung ngày càng trầm trọng, NHTW châu Âu (ECB) đã nâng dự báo lạm phát ở khu vực đồng Euro hai lần trong năm nay. Đặc biệt, dự báo lạm phát cho năm 2022 hiện tại đã được nâng lên. Nếu như vào tháng 3/2022, dự báo lạm phát tăng lên 5,1% so với mức dự báo 3,2% đưa ra ​​vào tháng 12/2021, đến tháng 6/2022 mức dự báo lạm phát tăng lên 6,8%. Nhiều nhà nghiên cứu cũng thừa nhận rằng việc giảm lạm phát có thể kéo dài hơn.  Tháng 3/2022, ECB dự báo lạm phát năm 2023 ở khu vực đồng Euro nâng lên 2,1% từ mức dự báo 1,8% được tổ chức này đưa ra trong tháng 12/2021 và vào tháng 6/2022, con số dự báo tăng lên 3,5%. Tuy nhiên, đại diện của Eurosystem (ECB và NHTW của các nước thành viên khu vực đồng Euro) vẫn kỳ vọng mức lạm phát sẽ tiệm cận mục tiêu của ECB là 2% trong trung hạn. Dự báo năm 2024, mặc dù đã được điều chỉnh, gần với giá trị này - vào tháng 3/2022, mức dự báo được tăng lên 1,9% từ 1,8% được đưa ra trong tháng 12/2021 và đến tháng 6/2022 mức lạm phát được dự báo tăng lên 2,1%.
 
Kể từ năm 2021, kỳ vọng lạm phát của các hộ gia đình Đức cũng đã tăng lên đáng kể. Từ tháng 01/2021 đến tháng 02/2022, giá trị trung bình của lạm phát dự kiến ​​trong một năm tăng đều đặn từ 2% lên 5% và vào tháng 6/2022, con số này đã tăng lên 8% (Biểu đồ 1).
 
Biểu đồ 1: Lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong 12 tháng tới


Kỳ vọng lạm phát trong 5 và 10 năm tới cũng đã tăng lên đáng kể, mặc dù chúng vẫn ở mức thấp hơn - lần lượt là 5% và 4% (Biểu đồ 2 và 3).
 
Biểu đồ 2: Lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong 5 năm tới



Biểu đồ 3: Lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong 10 năm tới


Nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) đã phân tích hai khía cạnh hình thành các kỳ vọng lạm phát của hộ gia đình. Thứ nhất, liệu các hộ gia đình coi tỉ lệ lạm phát cao hiện nay là tạm thời hay vĩnh viễn. Thứ hai, các dự báo lạm phát của ECB có thực sự làm giảm kỳ vọng lạm phát của hộ gia đình hay không.
 
Phân tích khía cạnh đầu tiên dựa trên câu trả lời của các đáp viên người Đức đối với các câu hỏi tiêu chuẩn và các câu hỏi bổ sung trong cuộc khảo sát trực tuyến hộ gia đình ở Bundesbank vào tháng 3/2022 (Bundesbank Online Panel Households, BOP-HH, xem hộp). Nghiên cứu đã nhận được khoảng 5.000 câu trả lời về tỷ lệ lạm phát trong tương lai - trong 12 tháng (ngắn hạn), trong 2 - 3 năm (trung hạn) và trong 5 - 10 năm (dài hạn).
 
Để phân tích khía cạnh thứ hai, nghiên cứu đã tiến hành một cuộc khảo sát trong khuôn khổ BOP-HH dưới dạng một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên1. Nhờ vậy, kết quả của cuộc khảo sát cho phép xem xét đường đi của lạm phát mà các hộ gia đình mong đợi và nó bị ảnh hưởng như thế nào bởi hoạt động truyền thông chính sách của NHTW.

 
Khảo sát hộ gia đình Đức của Bundesbank
 
Kể từ năm 2019, Bundesbank đã theo dõi kỳ vọng lạm phát của các hộ gia đình bằng cách thực hiện các cuộc khảo sát trực tuyến. Kể từ tháng 4/2020, định kỳ thực hiện là một lần/tháng, với 2.500 đến 5.000 người tham gia vào mỗi đợt. Những đáp viên được yêu cầu ước tính các động lực trong tương lai của lạm phát, đưa ra dự báo về chi phí bất động sản nhà ở và lãi suất ở Đức, trong mỗi đợt khảo sát, cũng có các câu hỏi về các khoản chi đã được lập và đã lên kế hoạch. Ngoài các mục tiêu chuẩn trong bảng hỏi, đáp viên có thể trả lời các câu hỏi bổ sung của các nhà nghiên cứu từ Bundesbank và các nhà nghiên cứu bên ngoài. Việc tham gia khảo sát là tự nguyện, đáp viên từ 16 tuổi trở lên được phép tham gia.
 

 
Nghiên cứu thiết kế các câu hỏi khảo sát theo phương pháp thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên. Ở bước thứ nhất, tất cả đáp viên được thông báo về mục tiêu lạm phát của ECB. Sau đó, họ được yêu cầu ước tính xác suất đạt được mục tiêu trung hạn: Để thực hiện việc này, những đáp viên phân bố xác suất lạm phát nằm trong một khoảng nhất định (từ dưới 1% đến hơn 5%) về trung hạn. Nghiên cứu giới hạn các ước tính xác suất để tổng của chúng bằng 100. Trong bước thứ hai, các đáp viên được chia ngẫu nhiên thành một số nhóm. Mỗi nhóm nhận các thông điệp khác nhau (định lượng hoặc định tính) từ ECB, liên quan đến dự báo lạm phát trung hạn. Còn nhóm đối chứng sẽ không nhận bất cứ thông điệp nào từ ECB. Sau đó, toàn bộ các đáp viên lại được yêu cầu ước tính lạm phát trong một năm, 2 - 3 năm và 5 - 10 năm.
 
Cụ thể, hai nhóm đã nhận thông tin định lượng về dự báo lạm phát của ECB công bố vào tháng 3/2022. Ngoài ra, một trong hai nhóm này đã nhận được thông tin về việc điều chỉnh dự báo trong tháng 3/2022 so với dự báo trước đó, được công bố vào tháng 12/2021 (nhóm này được gọi là “định lượng nâng cao”). Hai nhóm còn lại được tiếp cận với các giải thích về các dự báo của nhà kinh tế trưởng ECB, Philip Lane, người được nhiều phương tiện truyền thông trích dẫn. Một nhóm (được gọi là “định tính nâng cao”) được cung cấp thông tin rằng, Lane kỳ vọng lạm phát sẽ giảm trong suốt năm 2022 và lạm phát trong năm 2023 và 2024 sẽ giảm xuống dưới mức mục tiêu. Một nhóm khác cũng được biết thêm rằng, Lane không (chưa) thấy bất kỳ bằng chứng nào về hiệu ứng vòng hai của lạm phát (second-round effects on inflation)2.
 
2. Kết quả và thảo luận

Biểu đồ 4: Phân bố xác suất lạm phát kỳ vọng của các hộ gia đình 
trước khi được ECB báo cáo về triển vọng lạm phát


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)
 
Biểu đồ 4 minh họa phân bố xác suất theo đánh giá của các hộ gia đình về lạm phát ngắn hạn (xanh đậm), trung hạn (xanh lam) và dài hạn (xanh nhạt) trước khi được ECB thông báo về triển vọng lạm phát. Lạm phát kỳ vọng trong ngắn hạn nghiêng hẳn về phía tăng, bình quân những người được hỏi cho rằng với xác suất 33%, lạm phát trong một năm sẽ vượt quá 5% và với xác suất khoảng 80%, lạm phát sẽ cao hơn 3%. Tuy nhiên, lạm phát kỳ vọng trong trung hạn thấp hơn đáng kể: Xác suất lạm phát trên 5% ước tính khoảng 20%, lạm phát trên 3% - khoảng 70%. Trong thời hạn 10 năm, lạm phát kỳ vọng thậm chí còn thấp hơn (xác suất lạm phát trên 5% được ước tính vào khoảng 15% và trên 3% - khoảng 55%). Tuy nhiên, hầu hết những người được hỏi đều kỳ vọng lạm phát sẽ cao hơn mục tiêu 2% của ECB. Từ những số liệu này, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) kết luận rằng, vào tháng 3/2022, các hộ gia đình Đức phần lớn coi lạm phát cao là tạm thời, nhưng đồng thời, cũng nhận thấy rủi ro đáng kể rằng nó sẽ duy trì trên mục tiêu của ECB trong một thời gian dài.
 
Sau khi nhận được các kết luận trên, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) đặt ra mục tiêu tìm hiểu liệu hoạt động truyền thông chính sách của ECB có khả năng dịch chuyển mức kỳ vọng lạm phát gần hơn với mục tiêu lạm phát hay không. Để thực hiện điều này, nghiên cứu đã so sánh phản hồi của nhiều nhóm đáp viên khác nhau được chọn ngẫu nhiên về động lực lạm phát kỳ vọng ​​của họ trước và sau khi tiếp cận với thông tin chính sách của ECB định tính (bằng lời nói) và định lượng (bằng số) có chứa các dự báo lạm phát (xem Biểu đồ 5, 6, 7).

Biểu đồ 5: Lạm phát kỳ vọng 1 năm của các đáp viên trước 
và sau khi được tiếp cận thông tin chính sách


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)


Biểu đồ 6: Lạm phát kỳ vọng 2 - 3 năm của các đáp viên 
trước và sau khi được tiếp cận thông tin chính sách


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)
 
Theo Biểu đồ 5, 6, 7, những người trả lời nhận được một trong hai loại thông tin đã điều chỉnh giảm đáng kể kỳ vọng lạm phát cao của họ trong năm tới. Ví dụ: Xác suất lạm phát trên 5% giảm từ 1/3 xuống còn 1/4 (Biểu đồ 5). Điều tương tự cũng xảy ra với kỳ vọng trung hạn, mặc dù ở mức độ thấp hơn (ước tính xác suất lạm phát trên 5% trong 2 - 3 năm đã giảm từ 20% xuống còn khoảng 15%, Biểu đồ 6). Tương tự, truyền thông chính sách của ECB làm giảm kỳ vọng lạm phát cao trong dài hạn (5 - 10 năm, Biểu đồ 7).

Biểu đồ 7: Lạm phát kỳ vọng 5 - 10 năm của các đáp viên 
trước và sau khi được tiếp cận thông tin chính sách


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)

Tiếp theo, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) đánh giá tác động của các loại hình truyền thông chính sách khác nhau đối với lạm phát kỳ vọng của các đáp viên. Nghiên cứu xác định mức lạm phát kỳ vọng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bình quân cho tất cả các nhóm, mỗi nhóm nhận được các thông báo khác nhau từ ECB và tách chúng khỏi các chỉ số của nhóm kiểm soát (nhóm không tiếp cận với bất kỳ thông báo nào từ ECB), trên cơ sở đó, nghiên cứu rút ra ba kết luận.
 
Một là, lạm phát kỳ vọng giảm trên các kỳ hạn. Tỷ lệ lạm phát kỳ vọng trung bình giảm từ mức 4,28% cho kỳ hạn một năm xuống mức 3,78% và 3,38% cho kỳ hạn 2 - 3 năm và 5 - 10 năm tương ứng. Tuy nhiên, trong khi mức giảm 90 điểm cơ bản này là đáng kể, thì kỳ vọng lạm phát trung bình vẫn được nâng cao ngay cả trong dài hạn.
 
Hai là, tất cả các loại hình truyền thông (cả định lượng và định tính) đã góp phần giảm kỳ vọng lạm phát cao và giảm đáng kể về mặt thống kê.
 
Thứ ba, bằng cách so sánh tác động của việc tiếp cận với các loại hình thông điệp khác nhau, nghiên cứu nhận thấy rằng, thông tin chứa các đánh giá định tính có tác động mạnh hơn nhiều so với thông tin định lượng. Nếu thông tin định tính làm giảm lạm phát kỳ vọng khoảng 47 điểm cơ bản cho năm hiện tại, 28 điểm cơ bản cho trung hạn và 23 điểm cơ bản về dài hạn thì thông tin định lượng chỉ làm giảm lạm phát kỳ vọng ở các mức tương ứng là 17; 18 và 11 điểm cơ bản.
 
Trong một bài báo được xuất bản vào năm 2022, GS. Lena Drager và các cộng sự đã chỉ ra rằng việc cung cấp cho các đáp viên những thông tin về lạm phát kỳ vọng từ các nhà dự báo chuyên nghiệp, những người tập trung vào lạm phát cao thay vì mục tiêu của ECB chỉ làm giảm lạm phát kỳ vọng ngắn hạn. Ngoài ra, Drager và các cộng sự (cũng sử dụng thử nghiệm RCT (Randomised Control Trial) để thu thập dữ liệu từ cuộc khảo sát BOP-HH của Bundesbank vào tháng 9/2021) nhận thấy rằng, ảnh hưởng của truyền thông bằng văn bản đối với mức lạm phát kỳ vọng là khá hạn chế.
 
Mặt khác, nghiên cứu phát hiện rằng việc mở rộng truyền thông chính sách với các thông điệp bổ sung, như dữ liệu cập nhật các dự báo trước đó của ECB trong trường hợp của nhóm “định lượng nâng cao” hoặc các nhận định cho rằng các hiệu ứng của lạm phát vòng hai chưa quan sát thấy, trong trường hợp của nhóm “định tính nâng cao”, không làm tăng hiệu quả truyền thông. Điều này cho thấy rằng, những người tham gia khảo sát sẵn sàng hoặc chỉ có thể xử lý một lượng thông tin văn bản hạn chế. Nhận định này phù hợp với kết luận của GS. Olivier Coibion và các cộng sự (2019), khi phát hiện rằng việc các đáp viên đọc các tuyên bố của Ủy ban Thị trường Mở (FOMC), Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sau cuộc họp có mức ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát hộ gia đình không lớn hơn so với việc chỉ tiếp cận với các dự báo lạm phát của FOMC.
 
Trong nghiên cứu gần đây của Enzo Rossi và các cộng sự (2022), bằng dữ liệu khảo sát 488.000 công dân khu vực Euro từ năm 1999 đến 2019, đã tìm thấy bằng chứng thuyết phục rằng, tần suất giao tiếp nhiều hơn, được đo bằng số lượng bài phát biểu của các đại diện hệ thống NHTW các nước châu Âu có ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của công dân đối với ECB. Tuy nhiên, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) lại cho thấy rằng niềm tin cao hơn có liên quan đến việc tăng cường tác động của truyền thông ECB đối với kỳ vọng lạm phát. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đây cũng của nhóm tác giả GS. Mathias Hoffmann, Lora Pavlova, Guido Schultefrankenfeld (2021) rằng, việc thông báo cho các hộ gia đình về chiến lược chính sách tiền tệ của ECB có thể ảnh hưởng tích cực đến quá trình định hình lạm phát kỳ vọng của họ và các hộ gia đình có mức độ tin tưởng cao hơn vào NHTW sẽ điều chỉnh kỳ vọng lạm phát của họ nhiều hơn. 
 
3. Kết luận
 
Nhìn chung, các kết quả phân tích trong nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) cho thấy rằng truyền thông có mục tiêu của NHTW có thể là một phương pháp hiệu quả để giảm lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong thời kỳ lạm phát cao. Hơn nữa, những từ ngữ giải thích các dự báo lạm phát dường như hoạt động tốt hơn nhiều so với việc chỉ định lượng lạm phát trong tương lai.
 
Bản thân các cựu quan chức cấp cao của ECB cũng thừa nhận rằng, việc giao tiếp với công chúng có thể được cải thiện, chẳng hạn như thông qua việc sử dụng mạng xã hội (bằng chứng là cuộc khảo sát 27 cựu thành viên Hội đồng Quản trị của ECB, do người đứng đầu bộ phận nghiên cứu chính sách tiền tệ của ECB, Michael Ehrman và các cộng sự thực hiện vào năm 2020). Ngoài ra, những giải thích bằng lời nói dường như là một phương tiện hiệu quả hơn để giải quyết “sự khác biệt trong kiến ​​thức về chính sách tiền tệ  của các hộ gia đình” (mà các NHTW cần phải tính đến khi giao tiếp với công chúng, vì không phải tất cả các đại diện của công chúng đều nhận thức rõ về các mục tiêu của chính sách tiền tệ, như nghiên cứu của Jacob De Haan và cộng sự (2015) ở Hà Lan đã phát hiện). Mặc dù chủ đề nêu trên cần tiếp tục nghiên cứu thêm, nhưng những phát hiện trong nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) có thể cung cấp một số định hướng hữu ích và có giá trị trong lĩnh vực này.
 

1 Thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (Randomised control trial, RCT): So sánh kết quả của hai nhóm người được chọn ngẫu nhiên - thực nghiệm và đối chứng; lựa chọn ngẫu nhiên cho phép tránh sự chủ quan, định kiến và xác định chính xác hơn mối quan hệ nhân quả giữa một hành động nhất định và kết quả của nó.
2 Sự gia tăng giá mà các hộ gia đình phải trả cho năng lượng - như xăng, dầu sưởi và khí đốt tự nhiên - thể hiện sự gia tăng chi phí sinh hoạt và lạm phát giá cả. Tác động trực tiếp này của giá năng lượng cao hơn đối với chi phí sinh hoạt đôi khi được gọi là hiệu ứng đầu tiên đối với lạm phát. Ngoài ra, chi phí năng lượng cao hơn có thể có tác động gián tiếp đến lạm phát - ví dụ, nếu các công ty chuyển chi phí sản xuất tăng lên dưới hình thức giá tiêu dùng cao hơn đối với hàng hóa hoặc dịch vụ phi năng lượng hoặc nếu người lao động phản ứng với việc tăng chi phí sinh hoạt bằng cách đòi hỏi mức lương danh nghĩa cao hơn. Chi phí năng lượng tăng cũng có thể làm tăng kỳ vọng lạm phát dài hạn của công chúng, một yếu tố sẽ gây thêm áp lực lên lạm phát. Những tác động gián tiếp của giá năng lượng cao hơn đối với lạm phát chung được gọi là hiệu ứng vòng hai đối với lạm phát.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Матиас Хоффманн, Эмануэль Менх, Лора Павлова, Гвидо Шультефранкенфельд, “Слова важнее цифр: коммуникация центробанков в период высокой инфляции”, 2022, https://econs.online/articles/opinions/slova-vazhnee-tsifr-kommunikatsiya-tsentrobankov/ [Truy cập 14.8.2022].
2. ECB, Past macroeconomic projections, 2022, https://www.ecb.europa.eu/mopo/strategy/ecana/html/table.en.html, Truy cập 14.8.2022.
3. Bundesbank, Inflation expectations, 2022, https://www.bundesbank.de/en/bundesbank/research/survey-on-consumer-expectations/inflation-expectations-848334#tar-1, Truy cập 14.8.2022.
4. Lena Drager, Michael Lamla, Damjan Pfajfar, “How to limit the spillover from the 2021 inflation surge to inflation expectations? 2022, https://diskussionspapiere.wiwi.uni-hannover.de/pdf_bib/dp-694.pdf, Truy cập 15.8.2022.
5. Olivier Coibion, Michael Weber, Yuriy Gorodnichenko, “Monetary communications and their effects on household inflation expectations”, 2019, https://cepr.org/voxeu/columns/monetary-policy-communications-and-their-effects-household-inflation-expectations, Truy cập 15.8.2022.
6. In Do Hwang, Thomas Lustenberger, Enzo Rossi, “Central Bank Communication and Pubic Trust: The cases of ECB speeches”, 2022, https://www.researchgate.net/publication/361639838_Central_Bank_Communication_and_Public_Trust_The_Case_of_ECB_Speeches, Truy cập 22.8.2022.
7. Mathias Hoffmann, Lora Pavlova, Guido Schultefrankenfeld, “The effects of ECB’s new inflation target on private households’ inflation expectations”, 2021, https://www.bundesbank.de/en/publications/research/research-brief/2021-43-inflation-target-881212, Truy cập 22.8.2022.
8. Jacob De Haan, etc., “What the general public knows about monetary policy, 2015, https://cepr.org/voxeu/columns/what-general-public-knows-about-monetary-policy, Truy cập 22.8.2022.

TS. Nguyễn Đình Trung 
Đại học Hòa Bình
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?
13/12/2024 08:32 376 lượt xem
Bài viết giới thiệu nghiên cứu của Giáo sư Antonio Fatas (2024), trong đó phân tích những lý do dẫn đến “sự bất khả xâm phạm” đáng ngạc nhiên của châu Á, vốn trước đây, giống như tất cả các nền kinh tế đang phát triển, dễ bị ảnh hưởng bởi lạm phát ...
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam
09/12/2024 08:32 475 lượt xem
Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam
05/12/2024 07:51 717 lượt xem
Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách
22/11/2024 10:50 1.225 lượt xem
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam
15/11/2024 10:30 1.473 lượt xem
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho  Việt Nam
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm thay thế đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu - Kinh nghiệm từ châu Á và gợi ý cho Việt Nam
11/11/2024 10:22 1.432 lượt xem
Xếp hạng tín nhiệm không phải là một thuật ngữ xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn.
Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”
Châu Á và Việt Nam đón đầu làn sóng kinh tế “bạc”
03/11/2024 07:15 1.601 lượt xem
Ủy ban về quyền kinh tế, văn hóa và xã hội của Liên hợp quốc năm 2023 xác định già hóa dân số là một xu hướng mang tính toàn cầu. Xu hướng già hóa dân số không chỉ diễn ra mạnh mẽ ở châu Âu mà đã, đang và sẽ lan rộng sang khu vực châu Á, tạo ra những cơ hội lẫn thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế, xã hội.
Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho  Việt Nam
Quy định về cấp phép ngân hàng ảo tại Thái Lan và một số gợi ý cho Việt Nam
30/10/2024 09:30 1.560 lượt xem
Tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và lĩnh vực tài chính trong những năm qua đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hành vi của người tiêu dùng và hệ thống tài chính trên toàn cầu.
Những rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu năm 2024 và hàm ý cho Việt Nam
Những rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu năm 2024 và hàm ý cho Việt Nam
23/10/2024 08:04 12.342 lượt xem
Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2024 cho thấy có sự cải thiện nhẹ so với năm 2023, với dự báo tăng trưởng đạt 3,1 - 3,2% GDP và lạm phát giảm xuống 5,8 - 5,9%.
Tác động của kiều hối đến tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia trong khu vực ASEAN
Tác động của kiều hối đến tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia trong khu vực ASEAN
14/10/2024 15:40 1.713 lượt xem
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, kiều hối đang đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Ngân hàng mở: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Ngân hàng mở: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
08/10/2024 08:03 2.074 lượt xem
Ngân hàng mở là một khái niệm mới nổi trong ngành tài chính - ngân hàng, mang lại sự đổi mới và cách mạng hóa phương thức hoạt động của ngân hàng truyền thống.
Chính sách tín dụng nông nghiệp của Ấn Độ và kinh nghiệm đối với Việt Nam
Chính sách tín dụng nông nghiệp của Ấn Độ và kinh nghiệm đối với Việt Nam
03/10/2024 14:46 1.758 lượt xem
Nằm ở lưu vực sông Ấn và sông Hằng, Ấn Độ là một quốc gia có nền nông nghiệp lâu đời với quy mô thị trường ước đạt 372,94 tỉ USD vào cuối năm 2024, dự kiến ​​sẽ đạt 473,72 tỉ USD vào năm 2029 (Mordorintelligence, 2024).
Tác động của địa chính trị đến thương mại quốc tế
Tác động của địa chính trị đến thương mại quốc tế
01/10/2024 16:10 2.912 lượt xem
Bài viết giới thiệu một số kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác động của địa chính trị đến thương mại toàn cầu thông qua phương pháp nghiên cứu định tính với kỹ năng chính là khai thác, phân tích, tổng hợp và bình luận các thông tin thứ cấp từ các nghiên cứu có liên quan.
Pháp luật về giám sát tập đoàn tài chính tại Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Pháp luật về giám sát tập đoàn tài chính tại Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
30/09/2024 08:01 1.921 lượt xem
Tập đoàn tài chính không phải là một hình thái tổ chức hoạt động kinh doanh mới trên thị trường mà bắt đầu được hình thành từ những năm 60 tại Mỹ khi hiện tượng các ngân hàng với hoạt động cấp tín dụng kết nối các công ty bảo hiểm, chứng khoán thông qua sở hữu vốn...
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong đầu tư phát triển kinh tế vùng
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong đầu tư phát triển kinh tế vùng
26/09/2024 13:23 10.441 lượt xem
Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, cả hai quốc gia đều trải qua thời kỳ thuộc địa, chiến tranh và tái xây dựng trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81,600

83,600

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81,600

83,600

Vàng SJC 5c

81,600

83,620

Vàng nhẫn 9999

81,600

83,400

Vàng nữ trang 9999

81,500

83,000


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,153 25,483 26,041 27,469 31,401 32,736 158.95 168.19
BIDV 25,183 25,483 26,192 27,397 31,737 32,670 160.03 167.75
VietinBank 25,180 25,483 26,272 27,472 31,695 33,705 161.47 169.22
Agribank 25,210 25,483 26,181 27,385 31,604 32,695 160.79 168.44
Eximbank 25,170 25,483 26,272 27,228 31,706 32,816 161.8 167.71
ACB 25,190 25,483 26,288 27,190 31,818 32,778 161.82 168.21
Sacombank 25,210 25,483 26,231 27,206 31,686 32,853 161.86 168.91
Techcombank 25,222 25,483 26,070 27,413 31,464 32,808 158.16 170.62
LPBank 25,190 25,485 26,543 27,441 32,072 32,600 162.71 169.79
DongA Bank 25,220 25,483 26,310 27,150 31,740 32,770 160.10 167.80
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?