Keywords: Sustainability-linked loan, Net-Zero carbon, sustainable development.
1. Tín dụng liên kết bền vững
Theo Hiệp hội Thị trường tín dụng (Loan Market Association - LMA), tín dụng liên kết bền vững bao gồm bất kì loại công cụ cho vay và/hoặc hình thức thỏa thuận cam kết cho vay (hợp đồng cho vay từng lần, hợp đồng cho vay hạn mức, hợp đồng bảo lãnh, thư tín dụng…) mà các điều khoản, điều kiện đi kèm có thể thay đổi tùy thuộc mức độ tổ chức/đơn vị đi vay cam kết hướng tới các chỉ số định lượng trọng yếu, phản ánh hiệu quả phát triển bền vững và kết quả triển khai các mục tiêu này trong thực tiễn; đồng thời thỏa mãn các nguyên tắc tín dụng liên kết bền vững, cung cấp khuôn khổ được thiết kế và sử dụng rộng rãi nhằm đảm bảo các sản phẩm tín dụng bền vững có thể được duy trì và phát triển một cách linh hoạt, tất cả các đối tượng tham gia thị trường có thể hiểu rõ các đặc điểm cơ bản của một khoản tín dụng bền vững, từ đó, lựa chọn phương thức phù hợp để áp dụng vào hoạt động kinh doanh của mình. Các nguyên tắc này được phát triển bởi nhóm chuyên gia bao gồm các lãnh đạo cao cấp đại diện cho một số tổ chức tài chính hoạt động trên phạm vi toàn cầu và được xem xét, điều chỉnh thường xuyên nhằm phù hợp với các biến động trong bối cảnh kinh tế - xã hội của từng khu vực và mức độ phát triển của tín dụng bền vững trong từng thời kì cụ thể.
Theo LMA (2023), các nguyên tắc tín dụng bền vững được xây dựng dựa trên 05 nội dung cốt lõi gồm: (i) Sự lựa chọn các chỉ số đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động chính (Key Performance Indicators - KPIs); (ii) Sự hiệu chỉnh các mục tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả bền vững (Sustainability Performance Targets - SPTs); (iii) Đặc điểm của khoản vay: Các ưu đãi thỏa thuận trước theo hợp đồng tín dụng điều chỉnh theo mức độ hoàn thành các KPIs và SPTs đã cam kết; (iv) Báo cáo kết quả thực hiện: Trình bày đầy đủ các thông tin cập nhật phục vụ công tác giám sát hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp so với SPTs đã cam kết và mức độ phù hợp của SPTs đã đề ra với hoạt động kinh doanh cốt lõi của doanh nghiệp; (v) Sự xác minh thông tin: Xác nhận của bên thứ ba độc lập về mức độ triển khai trong thực tế so với SPTs và KPIs đã cam kết, đặc biệt là các chỉ tiêu có khả năng làm thay đổi đặc điểm kinh tế của khoản vay liên kết bền vững.
Tóm lại, khoản vay liên kết bền vững được xác định là một công cụ tín dụng chuyển tiếp được xây dựng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đi vay triển khai các dự án, giải pháp, sáng kiến hướng đến phát triển bền vững và góp phần thúc đẩy hiệu quả tiến trình ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Vai trò của tín dụng bền vững
Các khoản vay liên kết bền vững được các tổ chức tín dụng triển khai nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ một cách hiệu quả cho các doanh nghiệp cần huy động tài chính để tài trợ các dự án đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững chung của quốc gia và toàn cầu (từ các góc nhìn đối với môi trường (Environmental); xã hội (Social) và/hoặc quản trị (Governance) - ESG). Theo đó, trong hầu hết các trường hợp, số tiền được giải ngân từ tín dụng bền vững được dùng chung cho các dự án, chương trình nhằm cải thiện hiệu quả phát triển bền vững của doanh nghiệp trong suốt thời hạn của khoản vay, các tổ chức tín dụng cần thường xuyên giám sát, xác minh kết quả thực hiện (có sự tham gia của các tổ chức kiểm định độc lập, nếu cần thiết) các mục tiêu bền vững mà tổ chức đi vay đã cam kết. Căn cứ kết quả giám sát và đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp đi vay, các tổ chức tín dụng có thể điều chỉnh điều khoản cho vay nhằm đảm bảo mục tiêu khuyến khích sự đóng góp vào tiến trình ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững chung của quốc gia hay toàn cầu.
Việc triển khai chính sách tín dụng bền vững không chỉ mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp vay vốn, tổ chức cấp tín dụng mà còn lan tỏa ra toàn bộ các nền kinh tế mà doanh nghiệp hoạt động.
Về phương pháp tiếp cận, nếu các khoản vay xanh hay khoản vay xã hội được cung cấp riêng cho các dự án đủ điều kiện “xanh”¹ hay “xã hội”²; các tổ chức tín dụng tập trung vào việc đánh giá, lựa chọn các dự án có trong khung danh mục đã công bố hay không để cấp tín dụng cũng như chú trọng giám sát việc sử dụng vốn vay được giải ngân đúng mục đích (dự án) đã cam kết, các khoản vay liên kết bền vững có thể được sử dụng vào tất cả các loại hoạt động mà doanh nghiệp đang/sẽ triển khai và các tổ chức tín dụng tập trung nhiều hơn vào việc yêu cầu các doanh nghiệp đi vay xác định các mục tiêu liên quan đến ESG, phù hợp với hoạt động kinh doanh cốt lõi và giám sát kết quả triển khai trong thực tiễn nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động bền vững của doanh nghiệp được cải thiện theo thời gian.
Về mặt kĩ thuật, một khoản vay có thể được tham chiếu theo khung kết hợp các nguyên tắc áp dụng cho cả tín dụng bền vững, khoản vay xanh (Green Loan Principles - GLP) và khoản vay xã hội (Social Loan Principles - SLP). Bên cạnh đó, để đạt được mục tiêu tổng thể của quốc gia nói riêng và toàn cầu nói chung liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, vấn đề minh bạch thông tin và hiệu quả triển khai các sáng kiến, giải pháp tích hợp sâu rộng vào hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp đi vay luôn được chú trọng, đảm bảo xuyên suốt thời hạn vay. Do vậy, một số lợi ích nổi bật khi xây dựng và phát triển thị trường tín dụng bền vững có thể kể đến bao gồm:
Một là, mở rộng phạm vi các đối tượng được cấp tín dụng với các điều khoản ưu đãi đặc thù trong tương quan so sánh với thị trường tín dụng xanh/xã hội, giảm nhẹ áp lực huy động vốn cho các doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư đổi mới công nghệ nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế xanh bền vững.
Hai là, tăng cường mức độ gắn kết dựa trên nguyên tắc cộng hưởng cùng tạo ra giá trị chung giữa doanh nghiệp đi vay và các bên có lợi ích liên quan (“stakeholders” bao gồm chính phủ, các cơ quan quản lí nhà nước, người lao động, nhà đầu tư, tổ chức cấp vốn, nhà cung cấp, khách hàng…), đặc biệt thúc đẩy hiệu quả hoạt động phát triển bền vững xuyên suốt toàn bộ chuỗi cung ứng.
Ba là, củng cố thương hiệu và gia tăng mức độ tín nhiệm của cộng đồng cũng như các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, gia tăng giá trị thị trường, đồng thời giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các tổ chức tín dụng khi doanh nghiệp được từng bước nâng cao khả năng chống chịu với các biến cố kinh tế.
Bốn là, thúc đẩy quá trình cải thiện chiến lược phát triển bền vững và gia tăng hiệu quả triển khai các dự án, sáng kiến, giải pháp về ESG của các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay liên kết bền vững, qua đó góp phần truyền thông rộng rãi để nâng cao phạm vi hiểu biết; mức độ quan tâm của toàn xã hội về các mục tiêu phát triển bền vững cũng như các cách thức ứng phó với biến đổi khí hậu.
Năm là, nâng cao tính minh bạch thông tin (bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính) trên thị trường thông qua yêu cầu lập báo cáo về ESG định kì sau cho vay, từ đó, góp phần đẩy nhanh tiến trình nâng hạng thị trường tài chính ở Việt Nam và gia tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Sáu là, cung cấp, bổ sung các nguồn thông tin đáng tin cậy để tổng hợp dữ liệu cho các báo cáo đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals - SDGs) trên phạm vi quốc gia và toàn cầu.
Bảy là, thúc đẩy hoàn thiện khuôn khổ pháp lí, các chính sách phát triển và chế tài liên quan đến hoạt động tín dụng hướng tới mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ áp dụng các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế về báo cáo các vấn đề liên quan đến ESG phát sinh trong quá trình triển khai hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
3. Thực trạng triển khai tín dụng bền vững trên toàn cầu
3.1. Quy mô thị trường tín dụng bền vững
Ra đời và được áp dụng lần đầu tiên vào năm 2017, tín dụng bền vững thường cung cấp một lượng vốn với mức lãi suất thấp hơn khoản vay thông thường cho những doanh nghiệp có mục tiêu rõ ràng trong việc cải thiện các tác động tiêu cực tới môi trường/xã hội (các mục tiêu về khía cạnh E và/hoặc S) và/hoặc nâng cao hiệu quả công tác quản trị công ty (các mục tiêu về khía cạnh G). Theo thống kê của Environmental Finance Bond Database (2021), trong khoảng thời gian từ tháng 4/2017 đến tháng 4/2021, có khoảng 347 khoản vay liên kết bền vững được công bố rộng rãi với tổng giá trị tương đương khoảng 332,6 tỉ USD được giải ngân cho các doanh nghiệp đặt trụ sở chính tại 39 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu.
Năm 2022, thế giới ghi nhận sự tăng vọt về số lượng tín dụng bền vững được giải ngân với tổng giá trị tăng hơn gấp ba lần so với năm 2021. Tuy nhiên, trong năm 2023, tổng giá trị các khoản vay được giải ngân thống kê trên toàn cầu giảm mạnh và thấp hơn gần 30% so với năm 2022 (Ministry of the Environment Government of Japan, 2024). Các yếu tố được cho là nguyên nhân chính gây ra mức sụt giảm này bao gồm sự gia tăng tính bất ổn của nền kinh tế vĩ mô, các yêu cầu báo cáo và xác minh thông tin khắt khe hơn, thời gian và chi phí để đảm bảo khoản vay đáp ứng đầy đủ theo các nguyên tắc tín dụng bền vững cũng như đạt được các điều khoản vay đã cam kết theo hợp đồng tín dụng có xu hướng gia tăng đã gây ra nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính cao (Sustainable Fitch, 2023).
Xét theo khu vực, phần lớn các khoản vay liên kết bền vững được giải ngân tại châu Âu và Bắc Mỹ với tổng giá trị thường xuyên chiếm hơn 70% thị trường toàn cầu, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi cho các tập đoàn lớn như RWE AG (Đức), Ford Motor (Mỹ) và Engie SA (Pháp).
3.2. Các mục tiêu bền vững được lựa chọn
Thống kê của Environmental Finance Bond Database (2021) cho thấy, các doanh nghiệp sử dụng vốn vay liên kết bền vững thường lựa chọn KPIs tập trung vào các chỉ tiêu liên quan đến giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu như lượng phát thải khí nhà kính (carbon/GHG emissions), xếp hạng ESG toàn cầu, hiệu suất sử dụng năng lượng, năng lượng tái tạo, nền kinh tế tuần hoàn (tái chế và quản lí rác thải)… Do việc đo lường và giảm thiểu lượng phát thải khí nhà kính theo phạm vi 3 trên toàn bộ chuỗi cung ứng gặp nhiều khó khăn, đa phần các doanh nghiệp lựa chọn tập trung vào các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo phạm vi 1 và 2 (tạo ra trực tiếp từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc từ việc tiêu thụ năng lượng trực tiếp của doanh nghiệp) và/hoặc mở rộng quy mô, phạm vi sử dụng nguồn năng lượng tái tạo (Sustainable Fitch, 2023). KPIs phản ánh các tác động về mặt xã hội như bình đẳng giới, y tế, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, giáo dục, nhà ở với mức giá hợp lí… thường ít được các doanh nghiệp lựa chọn hơn so với các chỉ tiêu liên quan đến môi trường và khí hậu có thể định lượng được.
Theo Sustainable Fitch (2023), để phát huy tối đa các tác động tích cực của nguyên tắc tín dụng bền vững tới tiến trình phát triển bền vững, các tổ chức tín dụng ngày càng chú trọng đến việc đánh giá toàn diện tính chắc chắn và mức độ tin cậy của KPIs, SPTs mà doanh nghiệp lựa chọn căn cứ tính liên kết giữa các chỉ số đo lường hiệu quả và mục tiêu ESG tổng thể với khuôn khổ tài chính bền vững và tầm quan trọng của KPIs đối với chiến lược, hoạt động kinh doanh cốt lõi của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các mục tiêu ESG do doanh nghiệp cam kết thực hiện cần đảm bảo khả năng đo lường, có thể so sánh được và hướng đến ưu tiên giải quyết các vấn đề trọng tâm liên quan đến phát triển bền vững ở từng quốc gia, đặc biệt là các mục tiêu chung mà chính phủ đã công bố. Lộ trình đạt được các mục tiêu này cũng cần phải liên kết chặt chẽ, kết nối trực tiếp với lộ trình chuyển đổi kinh tế bền vững và năng lượng xanh phù hợp điều kiện đặc thù của từng khu vực.
3.3. Báo cáo và xác minh thông tin đo lường hiệu quả hoạt động phát triển bền vững
Dưới áp lực các tiêu chuẩn, quy định pháp lí tại các quốc gia ngày càng chặt chẽ; đồng thời nhằm mục tiêu gia tăng tính minh bạch thông tin và uy tín của các khoản vay liên kết bền vững, các tổ chức tín dụng trên toàn cầu đang cân nhắc điều chỉnh các điều kiện ràng buộc và bổ sung một số điều khoản phạt đối với các doanh nghiệp đi vay không tuân thủ KPIs, SPTs đã cam kết theo hướng cân bằng giữa đảm bảo đạt được mục tiêu bền vững chung và không làm giảm nhu cầu vay vốn trên thị trường (Tommy Wilkes và Isla Binnie, 2023). Trong bối cảnh rủi ro “greenwashing”³ đang gia tăng trên toàn thế giới có thể gây tác động tiêu cực tới danh tiếng của các chủ thể tham gia thị trường, các tổ chức tín dụng có xu hướng giám sát chặt chẽ hơn hiệu quả sử dụng vốn và yêu cầu các doanh nghiệp nhận vốn vay gia tăng báo cáo xác minh thông tin hiệu quả hoạt động bền vững của bên thứ ba độc lập cũng như tham gia các chương trình đánh giá năng lực thực hành ESG theo các tiêu chuẩn, thông lệ tốt được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Theo đó, căn cứ kết quả đo lường các chỉ tiêu ESG được báo cáo và xác minh, các tổ chức tín dụng có thể chủ động loại bỏ một khoản vay khỏi danh mục tín dụng bền vững nếu doanh nghiệp không đạt được các mục tiêu cam kết và/hoặc các mục tiêu phát triển bền vững mà doanh nghiệp đã lựa chọn không phù hợp với điều kiện thực tiễn (đề ra mức quá thấp để dễ dàng hoàn thành hoặc quá cao so với năng lực vận hành nội tại của doanh nghiệp). Điều này sẽ giúp cho thị trường tín dụng bền vững góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn tiến trình đạt được mục tiêu phát triển bền vững trên toàn cầu.
Nhằm đảm bảo khả năng sử dụng và so sánh thông tin giữa các khu vực, các doanh nghiệp cũng được khuyến khích trình bày và công bố các báo cáo kết quả triển khai các sáng kiến, giải pháp ESG và hiệu quả hoạt động trong thực tiễn theo các tiêu chuẩn, khuôn khổ được chấp nhận chung trên toàn cầu. Một số hệ thống tiêu chuẩn và khuôn khổ hướng dẫn thường được các doanh nghiệp sử dụng hiện nay bao gồm: 17 SDGs của Liên hợp quốc; Tiêu chuẩn Báo cáo Phát triển bền vững của tổ chức Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI); Tiêu chuẩn công bố các chỉ tiêu về phát triển bền vững (SASB); Khuôn khổ hướng dẫn trình bày các thông tin trọng yếu về khí hậu (CDSB); Tiêu chuẩn công bố các thông tin tài chính liên quan đến khí hậu (TCFD); Khuôn khổ trình bày thông tin về biến đổi khí hậu, sử dụng nguồn nước và tài nguyên rừng của Dự án Công bố thông tin về Carbon (CDP); Chỉ thị Báo cáo Phát triển bền vững doanh nghiệp (CSRD) của châu Âu, Chuẩn mực Báo cáo Tài chính quốc tế về phát triển bền vững - IFRS S1 và S2.
Tại đa số các quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp tự nguyện lập báo cáo ESG theo nhiều hình thức khác nhau phù hợp với khuôn khổ báo cáo được lựa chọn phù hợp nhất với mục tiêu phát triển bền vững và hiệu quả hoạt động, khả năng đo lường… của mình. Tuy nhiên, từ năm 2023 đến nay, chính phủ của hơn 35 quốc gia, tập trung phần lớn tại khu vực châu Mỹ và châu Âu đã/sẽ ban hành quy định bắt buộc các doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng cụ thể lập và đính kèm báo cáo ESG (được lập theo khuôn khổ riêng cho từng khu vực hoặc tiêu chuẩn theo thông lệ chung trên toàn cầu) cùng với báo cáo tài chính hằng năm. Ở khu vực châu Á, Hồng Kông và Singapore là hai thị trường yêu cầu các tổ chức tài chính và doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán phải lập báo cáo phù hợp với TCFD.
4. Thực trạng triển khai tín dụng bền vững ở Việt Nam
Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã kí ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trong đó nêu rõ: “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”. Để cụ thể hóa Chiến lược này, trong những năm tiếp theo, nhiều văn bản pháp lí đã được ban hành nhằm nhấn mạnh vai trò trung gian tài chính của hệ thống các tổ chức tín dụng trong việc cung cấp nguồn lực cho các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế triển khai các chương trình, sáng kiến, giải pháp hướng đến “tăng trưởng xanh” bao gồm: Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam; Điều 149 - Tín dụng xanh và Điều 150 - Trái phiếu xanh Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 được thông qua ngày 17/11/2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022; Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022, có hiệu lực từ ngày 01/6/2023 quy định hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài...
Như vậy, Việt Nam mới chỉ tập trung vào xây dựng các nội dung hướng đến và hỗ trợ quá trình phát triển thị trường “tín dụng xanh” mà chưa đề cập đến định hướng hỗ trợ cho các khoản vay liên kết bền vững. Theo đó, các doanh nghiệp và các dự án nằm ngoài danh mục được quy định theo pháp luật hiện hành nhưng đã có mục tiêu và báo cáo định kì về hiệu quả hoạt động phát triển bền vững xét trên phạm vi tổng thể hoạt động kinh doanh chưa có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh có lượng phát thải khí nhà kính cao khó có khả năng tiếp cận nguồn vốn phù hợp để chuyển đổi nhanh chóng sang các hoạt động thân thiện với môi trường (ví dụ như sử dụng nguồn năng lượng tái tạo thay cho năng lượng tạo ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch để phục vụ sản xuất, kinh doanh). Điều này chính là một trong những rào cản lớn của Việt Nam trong tiến trình đẩy nhanh tiến độ thực hiện mục tiêu Net-Zero Carbon như đã cam kết.
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng ở Việt Nam cũng chưa có động lực hay áp lực xây dựng và công bố khuôn khổ về các khoản vay liên kết bền vững nhằm thúc đẩy nhu cầu vay vốn ưu đãi từ các doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi định hướng tăng trưởng và sử dụng năng lượng sạch thay cho nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường. Trên lãnh thổ Việt Nam, ngoại trừ các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng thương mại tiên phong công bố thông tin chính thức ban hành “Khung khoản vay bền vững” dành cho khách hàng vào ngày 16/02/2023 (BIDV, 2023). Khung khoản vay bền vững này được BIDV xây dựng với sự tư vấn của tổ chức Carbon Trust trong khuôn khổ Chương trình Năng lượng Carbon thấp trị giá 15.000.000 Bảng Anh dành riêng cho các nước khu vực Đông Nam Á (ASEAN Low Carbon Energy Programme - LCEP) được tài trợ bởi Chính phủ Anh. Trên cơ sở Khung khoản vay bền vững, BIDV sẽ cung cấp các khoản vay theo chủ đề và khoản vay liên kết bền vững phù hợp với các bộ nguyên tắc gồm nguyên tắc khoản vay xanh, nguyên tắc khoản vay xã hội và nguyên tắc tín dụng bền vững chính là tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận tới các sản phẩm tài chính bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế và góp phần thúc đẩy nhanh tiến độ hoàn thành mục tiêu Net-Zero Carbon, hướng tới tăng trưởng bền vững của quốc gia.
Trong bối cảnh này, quy mô thị trường tín dụng bền vững tại Việt Nam thực tế còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực với số lượng khoản vay đã giải ngân không nhiều (Climate Bonds Initiative, 2023). Xét về tiềm năng, quy mô thị trường có thể được mở rộng hơn nữa nhờ vào đặc tính linh hoạt của dòng tiền giải ngân và khả năng tiếp cận được dành cho tất cả các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh trong xã hội đang/sẽ tiến hành các hoạt động chuyển đổi năng lượng. Điều cần thiết nhất hiện nay là thị trường cần có các khuôn khổ, định hướng, hướng dẫn, tiêu chuẩn phù hợp được ban hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các hiệp hội ngành đảm bảo uy tín.
Trong các nội dung cốt lõi của tín dụng bền vững, vấn đề lựa chọn các mục tiêu ESG (KPIs, SPTs) và mức độ tin cậy, chính xác các báo cáo hiệu quả hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp là những vấn đề cần chú trọng để chấp nhận giải ngân một khoản vay liên kết bền vững. Tại Việt Nam hiện nay, ngoài công ty cổ phần có nhu cầu gọi vốn từ các nhà đầu tư tổ chức quốc tế được yêu cầu phải triển khai hoạt động ESG một cách thiết thực và nghiêm túc, chỉ có các doanh nghiệp được phân loại là “công ty đại chúng” bắt buộc phải lập báo cáo thường niên theo mẫu quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Theo đó, các công ty được yêu cầu trình bày tối thiểu một chương riêng trong báo cáo thường niên về “Báo cáo tác động liên quan đến môi trường và xã hội của công ty” bao gồm các chỉ tiêu phản ánh tác động lên môi trường, quản lí nguồn nguyên vật liệu, tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ nước, tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường, chính sách liên quan đến người lao động, trách nhiệm đối với cộng đồng, địa phương và báo cáo liên quan đến hoạt động thị trường vốn xanh. Thông tư cũng nêu rõ việc các doanh nghiệp được khuyến khích lập riêng mục này thành Báo cáo Phát triển bền vững tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ báo cáo quốc tế.
Trong năm 2022, sau cam kết đạt mục tiêu Net-Zero Carbon vào năm 2050 tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 về quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone và Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 về danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Theo đó, số lượng doanh nghiệp quan tâm và được yêu cầu lập báo cáo định kì về lượng phát thải khí nhà kính cũng như các biện pháp giảm thiểu phát thải đã/đang được triển khai trong thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp có xu hướng gia tăng nhanh chóng. Đồng thời, nhiều doanh nghiệp cũng đã chú trọng hơn vào việc thuê đơn vị tư vấn tiến hành các thủ tục nhằm đưa ra báo cáo đảm bảo độc lập về công bố thông tin liên quan đến phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, xét trên toàn bộ nền kinh tế, tỉ trọng các doanh nghiệp công bố SDGs (có hoặc không đi kèm chiến lược phát triển bền vững) tương ứng với từng chỉ tiêu đo lường và hiệu quả triển khai trong thực tiễn đạt tiêu chuẩn được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu vẫn còn rất nhỏ. Việc đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu đã cam kết trong trường hợp các doanh nghiệp này tham gia thị trường tín dụng bền vững thực sự sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc đánh giá tác động về các khía cạnh ESG trong xuyên suốt toàn bộ chuỗi cung ứng của doanh nghiệp cũng còn nhiều trở ngại do hạn chế về trình độ nguồn nhân lực và khả năng thu thập đầy đủ các thông tin, dữ liệu đảm bảo khả năng so sánh.
Tóm lại, với hành lang pháp lí còn chưa đầy đủ và việc công bố thông tin chưa trở thành thông lệ bắt buộc, sự tin cậy cũng như tính minh bạch thông tin mà các khoản vay liên kết bền vững hướng đến khó được đảm bảo toàn vẹn và các tổ chức tín dụng sẽ ngần ngại hơn trong việc huy động để giải ngân các nguồn vốn ưu đãi lớn cho danh mục tín dụng này. Các tổ chức tín dụng cũng phải đối mặt thêm rủi ro xảy ra xung đột lợi ích trong trường hợp chấp nhận giải ngân cho các khoản vay đi kèm với những mục tiêu yếu kém hay không phù hợp và tính toán các khoản vay này vào hạn mức tài chính bền vững. Xét về quan điểm của bên đi vay, các doanh nghiệp cũng chưa đánh giá sản phẩm này như một nguồn tài chính ưu đãi tiềm năng do còn nhiều lo ngại đối với việc các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng mức độ và phạm vi giám sát việc thực hiện các sáng kiến, giải pháp nhằm đạt được các mục tiêu (KPIs, SPTs) đã thỏa thuận trước. Bên cạnh đó, việc công bố thông tin về ESG càng nhiều thì nguy cơ các doanh nghiệp phải đối mặt với các vụ kiện tụng liên quan đến hoạt động quảng cáo xanh (greenwashing) cũng sẽ gia tăng. Khi các điều kiện liên quan đến khoản vay (đặc biệt là lãi suất) có khả năng thay đổi tùy thuộc kết quả đạt được mục tiêu hay không, các doanh nghiệp sẽ cân nhắc nhiều hơn vấn đề thời gian và chi phí khi sử dụng sản phẩm tín dụng bền vững so với các khoản vay thông thường để giảm thiểu rủi ro tài chính có thể phát sinh.
5. Các khuyến nghị thúc đẩy tín dụng bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần ban hành các văn bản pháp quy và hướng dẫn cụ thể, rõ ràng về danh mục tín dụng bền vững, hệ thống nguyên tắc cần tuân thủ đối với các khoản vay liên kết bền vững, quy trình thẩm định và giám sát sau cho vay, quy định liên quan đến xác nhận độc lập của bên thứ ba… làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng huy động nguồn lực phù hợp để tài trợ cho các dự án, doanh nghiệp cần bổ sung vốn cho các hoạt động ESG. Cơ chế và lộ trình thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường tín dụng bền vững (chiến lược tăng trưởng, mục tiêu kế hoạch, mục tiêu định hướng dòng vốn theo từng nhóm khu vực có mức độ phát thải khí nhà kính khác nhau, thuế, phí, hỗ trợ kĩ thuật về môi trường chuyên sâu…) cũng cần được nghiên cứu, xây dựng một cách đồng bộ nhằm thu hút lượng vốn đầu tư lớn và mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế và xã hội nói chung.
Thứ hai, các quy định liên quan đến cân đối vốn và đảm bảo tỉ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn hiện hành cũng như các khuôn khổ pháp lí có liên quan nên được xem xét, tiếp tục hoàn thiện và điều chỉnh phù hợp với đặc thù của các khoản vay liên kết bền vững là chi phí đầu tư ban đầu lớn nhưng thời gian hoàn vốn dài. Các chính sách ưu đãi có thể cân nhắc bao gồm việc giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với phần nguồn huy động tương ứng giá trị giải ngân các khoản vay liên kết bền vững, áp dụng mức lãi suất tái cấp vốn và/hoặc tái chiết khấu cho mục đích sử dụng nguồn huy động tài trợ cho các hoạt động phát triển bền vững…
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên tổ chức nghiên cứu và hoàn thiện sổ tay hướng dẫn đánh giá rủi ro ESG trong hoạt động cấp tín dụng nói chung và các khoản vay liên kết bền vững nói riêng phù hợp với các thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế cập nhật nhất hiện nay.
Thứ tư, các cơ quan hữu quan cần đẩy mạnh công tác đàm phán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức tín dụng trong nước cùng phối hợp tham gia hoạt động hợp tác quốc tế đồng tài trợ vốn cho những doanh nghiệp đặt tham vọng cao về mục tiêu ESG. Hệ thống mẫu biểu và báo cáo thống kê dữ liệu các khoản tín dụng bền vững cần được chuẩn hóa để đảm bảo tính chính xác và khả năng so sánh của dữ liệu, thông tin thu thập được phù hợp với các thông lệ quốc tế hiện hành. Căn cứ số liệu báo cáo định kì, các bộ, ban, ngành có liên quan cần phối hợp nhịp nhàng để huy động, phân bổ và điều tiết hiệu quả nguồn lực tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững cấp quốc gia.
Thứ năm, Chính phủ cũng cân nhắc bổ sung các yêu cầu phối hợp cung cấp, công bố đầy đủ các thông tin liên quan đến ESG phù hợp với khuôn khổ, hướng dẫn và khung tiêu chuẩn tốt nhất hiện nay đối với từng nhóm đối tượng cụ thể để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thuận lợi hơn trong khâu thẩm định và kiểm soát chất lượng, quản trị rủi ro của từng khoản vay. Điều này cũng đồng thời mang lại tác động tích cực là gia tăng tinh thần trách nhiệm, ý thức về các khía cạnh phát triển bền vững của doanh nghiệp cũng như toàn thể xã hội và thúc đẩy nâng cao trình độ của nguồn nhân lực liên quan đến các thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế về trình bày báo cáo phát triển bền vững. Bên cạnh đó, cần tổ chức các khóa tập huấn nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, giới thiệu và áp dụng khoa học, kĩ thuật hiện đại hỗ trợ công tác chuyển đổi số, đo lường và trình bày báo cáo bền vững nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của các tổ chức tín dụng trong/ngoài nước và các quỹ đầu tư quốc tế.
Thứ sáu, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển dịch sang nguồn năng lượng sạch và kinh tế tuần hoàn nên tập trung đầu tư các chương trình đào tạo chuyên sâu, bài bản nhằm nâng cao kiến thức, kĩ năng và tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ nhân viên phụ trách các hoạt động thuộc phạm vi các nội dung cốt lõi của nguyên tắc tín dụng bền vững. Các Hiệp hội ngành nghề uy tín nên được khuyến khích tổ chức các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức về SDGs cho cộng đồng, từ đó gia tăng hiệu quả giám sát từ các bên có lợi ích liên quan đối với các doanh nghiệp vay vốn.
¹ Các dự án thân thiện với môi trường như năng lượng tái tạo, quản lí nước bền vững và xử lí rác thải, tòa nhà xanh…
²Các dự án hướng tới giải quyết các vấn đề liên quan đến khía cạnh xã hội hoặc tạo ra tác động tích cực tới xã hội như phát triển các cơ sở giáo dục/y tế ở vùng địa phương khó khăn, nhà ở xã hội…
³ Thuật ngữ này lần đầu tiên được đưa ra vào những năm 1980 bởi nhà Môi trường học Jay Westervelt và hiện nay theo từ điển Cambridge, thuật ngữ này được hiểu là những hành vi hoặc hoạt động khiến công chúng tin rằng một doanh nghiệp đang thực hiện nhiều sáng kiến, giải pháp có trách nhiệm với môi trường hơn so với thực tế nhằm cải thiện danh tiếng, dễ dàng thu hút các nguồn vốn đầu tư tài chính và gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như giá trị thị trường của doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. ASEAN Working Committee on Capital Market Development (2020), Report on promoting sustainable finance in ASEAN.
2. Climate Bonds Initiative (2023), ASEAN Sustainable Finance State of the Market 2022.
3. Environmental Finance Bond Database (2021), Sustainability-linked debt in 8 metrics.
4. Loan Market Association (2023), Sustainability-linked loan principles.
5. Loan Market Association (2023), Guidance on Sustainability-linked loan principles.
6. Loan Market Association (2023), Green loan principles.
7. Loan Market Association (2023), Sustainable lending glossary - Glossary of terms.
8. Ministry of the Environment Government of Japan (2024), Sustainability-linked loans market status (Domestic and Global).
9. Sustainable Fitch (2023), ESG Ratings Insights: Sustainability-linked debt KPIs and Targets.
10. Sustainable Fitch (2023), Sustainable finance Outlook 2024.
11. Tommy Wilkes and Isla Binnie (2023), Loans linked to ESG face overhaul by under-pressure banks.