Thế giới ngập trong nợ nần
02/03/2017 9.651 lượt xem
Tại nhiều nơi, nhất là các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Brazil, lãi suất thấp kéo dài đã khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất - kinh doanh, nhưng nhu cầu yếu ớt đã đẩy các doanh nghiệp bị chìm sâu trong nợ nần...
 
Kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, hầu hết các nước trên thế giới đều tiến hành nới lỏng tài chính - tiền tệ nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và khắc phục hậu quả khủng hoảng. Tuy nhiên, việc bơm các khoản tài chính khổng lồ vào nền kinh tế nhưng thiếu sự phối hợp giữa các nền kinh tế lớn đã dẫn đến hậu quả là suy thoái kéo dài và nợ nần chồng chất.
Trên khắp thế giới, nhiều công ty đã bị cuốn hút vào nguồn tín dụng giá rẻ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nay phải đối mặt với tình trạng dư thừa công suất và đang chật vật tìm kiếm người mua. Tình hình này đang trở nên trầm trọng, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế tại Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đều yếu ớt, kinh tế Trung Quốc tăng chậm lại.
 
Theo báo cáo do Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố vào đầu tháng 10/2016, tổng nợ trong lĩnh vực phi tài chính chạm mốc 152.000 tỷ USD vào cuối năm 2015, tăng trên hai lần so với năm 2000. Mức nợ hiện tại dừng ở mốc kỷ lục 225% GDP toàn thế giới, với 2/3 tổng số nợ nằm ở khu vực tư nhân, còn lại là nợ công. Tuy chỉ chiếm tỷ trọng thấp, nhưng nợ công đã tăng từ 70% GDP vào năm 2015 lên 85% GDP năm 2016.
IMF cảnh báo, nợ nần sẽ tiếp tục tăng, bao gồm nợ của các Chính phủ, các doanh nghiệp không thuộc ngành tài chính và nợ hộ gia đình. Trong đó, kinh tế toàn cầu ì ạch gây khó khăn cho việc hoàn trả nợ vay. Điều này dẫn đến vòng luẩn quẩn là tăng trưởng kinh tế thấp hơn cản trở quá trình giảm nợ và mức nợ cao trầm trọng hóa tăng trưởng èo uột, gây nguy cơ bất ổn tài chính.
Mặc dù phần lớn các khoản vay có từ thời bùng nổ nợ tư nhân trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và các hộ gia đình và doanh nghiệp tại các nước phát triển bắt đầu hạn chế chi tiêu sau khủng hoảng nhưng quá trình giảm nợ chưa đồng đều. Trong một số trường hợp, nợ tiếp tục tăng, ảnh hưởng xấu đến bảng cân đối của Chính phủ. Tại nhiều nơi, nhất là các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Brazil, lãi suất thấp kéo dài đã khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất - kinh doanh, nhưng nhu cầu yếu ớt đã đẩy các doanh nghiệp bị chìm sâu trong nợ nần.
Trong sáu năm cho đến khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, do tác động của xu thế toàn cầu hóa hệ thống ngân hàng và nới lỏng điều kiện cho vay, nợ của khu vực phi tài chính tại các nước phát triển tăng 35%. Trong đó, hoạt động cho vay không chỉ bùng nổ trong lĩnh vực cầm cố tại Mỹ, mà mở rộng tại nhiều nước phát triển với trên 50% là nợ hộ gia đình. Tại các nước mới nổi, nợ doanh nghiệp tư nhân và nợ hộ gia đình cũng tăng, nhưng nhìn chung không được công bố cụ thể. Tại các nước thu nhập thấp, số liệu về nợ nần hầu như không được công bố.
Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, nợ công tại các nước phát triển tăng rất nhanh, trong khi nợ tư nhân giảm dần. Trong năm 2012, nợ tư nhân tại các nước phát triển ghi nhận mức giảm sâu nhất, đặc biệt là tại những nước bước vào khủng hoảng với mức nợ nần cao nhất. Tuy nhiên, tại một số nước, nợ tư nhân tiếp tục tăng, nhất là tại Australia, Canada, Singapore. Khi nợ tư nhân tăng trở lại, nợ công cũng tăng tốc với mức tăng 25% GDP trong giai đoạn 2008-2015, bảng cân đối quốc gia cũng xấu dần, một phần bắt nguồn từ những khoản cứu vớt hỗ trợ một số ngân hàng tư nhân hàng đầu. Sau năm 2012, chỉ khoảng 1/3 số nước phát triển ghi nhận kết quả cải thiện tình trạng nợ nần, nhưng rất khiêm tốn.
Tại một số nước mới nổi, điều kiện tiếp cận tài chính dễ dàng trong thời kỳ sau khủng hoảng tài chính đã dẫn đến xu hướng bùng nổ tín dụng, nhất là các doanh nghiệp phi tài chính với tốc độ tăng trung bình trên 38% GDP.
Ngày 20/2/2017, Market Watch dẫn kết quả nghiên cứu của chuyên gia Ivan Martchev cho thấy, nếu tính cả những khoản nợ trong hệ thống ngân hàng, nợ của Trung Quốc tăng từ tỷ lệ gần 100% GDP vào năm 2000 lên gần 400% GDP vào cuối năm 2016. Tuy nhiên, thống kê chính thức tại Trung Quốc hầu như không đề cập những khoản nợ ngân hàng. GDP của Trung Quốc tăng từ 1.094 tỷ USD vào cuối thế kỷ XX lên 11.750 tỷ USD vào cuối năm 2016. Trong thời gian này, kinh tế Trung Quốc tăng gấp 11 lần, nhưng tổng tín dụng tăng tới 40 lần. Trong những năm gần đây, kinh tế tăng chậm dần đã khiến người dân dè dặt trong chi tiêu, làm tăng các khoản nợ doanh nghiệp do khả năng trả nợ ngày càng khó khăn.
Các chuyên gia và nhà đầu tư đều thừa nhận, yếu tố cơ bản làm tăng gánh nặng nợ nần bắt nguồn từ nhu cầu yếu ớt trên toàn cầu, ngoài ra là do các rào cản thương mại được dựng lên trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng chậm.
Theo báo cáo của IMF, giao dịch thương mại toàn cầu chỉ tăng trung bình 3%/năm kể từ năm 2012, chưa bằng một nửa tốc độ tăng trưởng trung bình 7%/năm trong 3 thập niên trước đó. Trong giai đoạn 1985-2007, thương mại toàn cầu tăng gấp 2 lần GDP toàn cầu. Trái lại, trong 5 năm 2012-2016, thương mại toàn cầu lại rất ì ạch và thấp hơn tăng trưởng GDP, đây là hiện tượng chưa có tiền lệ trong suốt 5 thập kỷ qua. IMF khuyến cáo, các xu hướng cản trở thương mại như thuế quan tăng lên có thể gây thiệt hại lâu dài cho kinh tế toàn cầu. Một số còn lo ngại, lợi nhuận doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng vì những diễn biến này.  
Theo báo cáo kết quả nghiên cứu do các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB) tiến hành và công bố vào cuối tháng 2/2017, kim ngạch trao đổi hàng hóa toàn cầu năm 2016 chỉ tăng 1,1%; thấp hơn kết quả tăng 2,0% vào năm 2015 và là năm tăng thấp nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua.
Theo nhận xét của giáo sư Steven Davis đến từ Trường Kinh doanh Booth thuộc Đại học Chicago, xu hướng bảo hộ đang gây nhiều rủi ro cho kinh tế toàn cầu, nhất là một số nước phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa, làm gia tăng mức độ bất định về chính sách khi các nhà tạo lập chính sách kinh tế quốc gia phải điều chỉnh chính sách nhằm đối phó với những thay đổi trên toàn cầu, nhất là chính sách bảo hộ thương mại của tân Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Nhiều doanh nghiệp trên khắp thế giới đều phàn nàn, thương mại tăng chậm lại và chủ nghĩa bảo hộ tăng lên là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến lợi nhuận của họ sa sút.
Thanh Vũ
Nguồn : Nguồn: Bloomberg, IMF, Market Watch, WB
 
 
(Tham khảo: Nguồn http://thoibaonganhang.vn)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
08/07/2024 1.292 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, trình bày những khó khăn và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
03/07/2024 1.828 lượt xem
Mục tiêu của bài viết nhằm xem xét cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống thông qua những quy định hiện hành tại một số quốc gia; qua đó, đưa ra các hàm ý đối với Việt Nam.
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
19/06/2024 2.454 lượt xem
Dựa trên dữ liệu được thu thập từ các báo cáo về tài chính toàn diện của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ tài chính số tại 19 quốc gia châu Á từ phía chủ thể cung cấp và chủ thể tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
06/06/2024 3.314 lượt xem
Trong kỉ nguyên của công nghệ số, sự xuất hiện của một hình thức tiền tệ số hay tiền mã hóa là hoàn toàn cần thiết để đáp ứng sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ (Milutinovic, 2018). Tiền mã hóa sử dụng công nghệ mã hóa và chuỗi khối (Blockchain) để bảo đảm tính an toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính.
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
24/05/2024 4.184 lượt xem
Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) là những định chế tài chính phát triển lớn, thành công trên thế giới...
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
20/05/2024 4.286 lượt xem
Đi đôi với phát triển kinh tế, Trung Quốc dần hình thành và triển khai chiến lược bài bản xây dựng và củng cố sức mạnh tài chính - tiền tệ với trọng tâm là phát triển CNY trở thành đồng tiền quốc tế...
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
16/05/2024 5.855 lượt xem
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
08/05/2024 4.926 lượt xem
Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây rất nhiều khó khăn, tổn thất về người, kinh tế cho các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, công bố các chỉ tiêu ESG (Enviromental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong nhiều năm qua luôn thu hút được sự đồng hành của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 5.715 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 7.395 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 9.036 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 27.703 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 10.146 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 14.746 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 10.276 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?