Tăng lãi suất là giải pháp kịp thời để kiểm soát lạm phát
02/11/2022 11.141 lượt xem
Mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong điều hành chính sách tiền tệ là ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng cũng như hỗ trợ phục hồi kinh tế, do đó việc điều chỉnh tăng lãi suất là giải pháp kịp thời, phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới để nhằm đạt được mục tiêu này. Theo các chuyên gia, chính sách tiền tệ của Việt Nam đang phát huy sự chủ động, linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và thích ứng kịp thời với diễn biến thị trường trong và ngoài nước. 

Trần lãi suất tiền gửi được nới lên giúp lãi suất thực tiếp tục dương

Theo NHNN, trong 8 tháng đầu năm 2022, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh (tính chung cả năm 2021, thế giới có 113 lượt tăng lãi suất; tính từ đầu năm 2022 đến nay, có tổng cộng 292 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu), tạo áp lực lạm phát trong nước gia tăng.

Chín tháng đầu năm 2022 đã có khoảng 70 ngân hàng trung ương (NHTW) tăng lãi suất với 292 lượt tăng, trong đó Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã 05 lần điều chỉnh tăng lãi suất mục tiêu lên mức 3 - 3,25%/năm, dự báo còn tiếp tục tăng trong các tháng cuối năm 2022 và năm 2023, đồng USD lên giá mạnh, gia tăng áp lực lên mặt bằng lãi suất và tỷ giá trong nước, tạo sức ép lên lạm phát.

Trong bối cảnh có nhiều yếu tố không thuận lợi từ cả thị trường trong nước và quốc tế, để tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, NHNN đã điều chỉnh tăng đồng bộ các mức lãi suất1. NHNN đã có 02 lần tăng lãi suất trong vòng 1 tháng (lần 1 vào 23/9, lần 2 hiệu lực từ 25/10) với mức tăng cụ thể: (i) Tăng 02 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức tăng 2% và 02 lần lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng tại tổ chức tín dụng (TCTD) (ngày 23/9 và ngày 25/10/2022) với mức tăng tăng 0,8 - 2%/năm; (ii) Tăng 1%/năm lãi suất cho vay tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên (vào ngày 25/10/2022).

Theo NHNN, mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ là ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng cũng như hỗ trợ phục hồi kinh tế, do đó việc điều chỉnh tăng lãi suất là giải pháp kịp thời, phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới để nhằm đạt được mục tiêu này.
 

Mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ là ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô
 
Thực tế, khi trần lãi suất tiền gửi được nới lên giúp lãi suất thực tiếp tục dương. Một cách đơn giản nhất, có thể hiểu lãi suất thực dương là mức lãi suất đủ bù đắp sự mất giá của đồng tiền và có lãi thực ở một mức độ nào đó. Nói khác đi, lãi suất tiền gửi ngân hàng phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2022 tăng 0,4% so với tháng trước. So với tháng 12/2021, CPI tháng 9/2022 tăng 4,01% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,94%.

Nhờ lãi suất tiền gửi hấp dẫn đã thu hút lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, qua đó giúp hệ thống ngân hàng đảm bảo được nguồn vốn trong khi tỷ lệ dư nợ tín dụng/tiền gửi bằng VND đã ở mức cao có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản. Đồng thời, nhờ tiếp tục huy động được nguồn vốn, hệ thống ngân hàng có đủ nguồn vốn để hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế.

Sau quyết định tăng lãi suất của NHNN có hiệu lực từ ngày 25/10/2022, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động.

Cụ thể, tại NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), lãi suất kỳ hạn dưới 6 tháng được nâng lên 5,6 - 6%/năm cho mức từ 4,1 - 4,6%/năm trước đó. Với mức giao dịch tại quầy, lãi suất tiền gửi từ 6 - 11 tháng được nâng từ 5,8 -6,3%/năm lên 7 - 7,25%/năm. Trong khi đó, kênh online kỳ hạn dưới 6 tháng được Sacombank tăng lên mức kịch trần là 6%/năm. Ở kỳ hạn 12 tháng là 7,8%/năm và 8%/năm ở kỳ hạn 24 tháng. 

Ngoài Sacombank, một số ngân hàng khác như NHTM cổ phần Bắc Á (Bac A Bank), NHTM cổ phần Quốc Dân (NCB), NHTM cổ phần Đông Nam Á (SeABank), NHTM cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) cũng đưa ra biểu lãi suất huy động mới, đặc biệt ở kỳ hạn dưới 6 tháng. Trong đó, ở kỳ hạn dưới 6 tháng của Bac A Bank, NCB có mức lãi suất kịch trần là 6%/năm, còn SeABank cũng điều chỉnh tăng ở tất cả các kỳ hạn.
Ở kỳ hạn 1 tháng và 3 tháng tại NHTM cổ phần Phương Đông (OCB), lãi suất tiết kiệm tại quầy tăng lần lượt 5,7%/năm và 5,9%/năm. Với kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng tăng lần lượt lên 6,8%/năm và 7,5%/năm, còn đối với 36 tháng lãi suất là 7,8%/năm. Ở kênh online, OCB đưa ra mức lãi suất 7,85%/năm đối với kỳ hạn 36 tháng, trong khi kỳ hạn 12 - 24 tháng tăng lên 7,8%/năm.
Đến ngày 27/10/2022, 3 NHTM có vốn Nhà nước là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank) mới chính thức công bố biểu lãi suất huy động mới. Thay đổi diễn ra đúng một tháng so với lần điều chỉnh lãi suất huy động gần nhất, với mức tăng khoảng 0,7 - 1% so với trước khi điều chỉnh.

Mức lãi suất không kỳ hạn của BIDV và VietinBank vẫn giữ nguyên song tại Agribank đã tăng từ 0,3% lên 0,5%/năm. Lãi suất từ 1 đến 5 tháng của 3 ngân hàng này đều tăng lên mức 4,9 - 5,4%/năm. Với kỳ hạn 6 - 9 tháng, BIDV và Agribank đang trả lãi cao nhất, lên tới tối đa 6,1%/năm. Kỳ hạn 12 tháng được 3 ngân hàng này đồng loạt niêm yết ở mức 7,4%/năm, tăng 1% so với một tháng trước. 

Ngày 28/10/2022, NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) điều chỉnh tăng thêm từ 1 đến 1,3% lãi suất huy động ở tất cả các kỳ hạn. Với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 - 2 tháng, Vietcombank đưa ra mức mới là 4,9%, cao hơn 0,8% mức giá biểu lãi suất trước. Ở kỳ hạn 3 tháng tăng thêm 1% lên 5,4%; kỳ hạn 6 tháng và 9 tháng điều chỉnh tăng cao nhất so với các kỳ hạn khác, thêm 1,3% lên mức 6%; còn các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên được tăng từ 6,4% lên 7,4%.

Theo bà Phùng Nguyễn Hải Yến, Phó Tổng Giám đốc Vietcombank: "Bên cạnh tăng lãi suất huy động thì việc bình ổn lãi suất cho vay vẫn là mục tiêu đặt ra, các kế hoạch kinh doanh đã vượt nên Vietcombank sẽ triển khai loạt các giải pháp tiết kiệm chi phí, kiểm soát nợ trích lập dự phòng và các chính sách hỗ trợ cho vay trong thời gian tới".

Như vậy, sau khi NHNN nâng lãi suất điều hành, mặt bằng chung lãi suất mới đã được thiết lập, cho thấy với nhóm NHTM có nguồn gốc quốc doanh (Big 4) ở mức lãi suất thấp hơn ngân hàng tư nhân.

Chính sách tiền tệ thích ứng kịp thời diễn biến trong và ngoài nước

Theo các chuyên gia, quyết định tăng lãi suất của NHNN là giải pháp kịp thời, phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới để ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định tỷ giá. Các động thái liên tiếp trong thời gian gần đây của NHNN đang cho thấy, chính sách tiền tệ của Việt Nam đang phát huy sự chủ động, linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và thích ứng kịp thời với diễn biến thị trường trong và ngoài nước. 

GS., TS. Trần Thọ Đạt - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, nếu chúng ta muốn tiếp tục duy trì dòng vốn đầu tư nước ngoài mà để tỷ giá tăng thì sẽ không đạt mục tiêu. Tăng lãi suất là một trong những biện pháp duy trì và thu hút dòng vốn nước ngoài và tạo bộ đệm cho sức ép để tỷ giá giảm xuống. Hơn thế, xu hướng tăng lãi suất hiện nay đã diễn ra lâu nay ở các nền kinh tế lớn tại Mỹ và các nền kinh tế đầu tàu trên thế giới. Việc NHNN tăng lãi suất điều hành thêm 1% là phù hợp. Nước ta có độ mở nền kinh tế lớn, nguy cơ nhập khẩu lạm phát là rõ ràng. “Lãi suất tăng lên sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư trong nền kinh tế, các doanh nghiệp phải cân nhắc hơn trong nhu cầu đầu tư, nó không tạo ra sức ép với tổng cầu trên phương diện là các doanh nghiệp phải tăng đầu vào sử dụng cho sản xuất, kinh doanh”, PGS.,TS. Trần Thọ Đạt phân tích thêm.

Khi Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước lớn trong đó có Fed tăng liên tục lãi suất để kiềm chế sự mất giá của đồng tiền thì theo TS. Lê Xuân Nghĩa - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, Việt Nam cũng buộc phải tăng lãi suất. Nếu không tăng lãi suất thì đồng nghĩa là tự phá giá đồng tiền của mình, điều này ảnh hưởng tới giá nhập khẩu hàng hóa, làm cho lạm phát tăng lên. Vì vậy, NHNN buộc phải tăng lãi suất để tương thích với giá USD. Tăng lãi suất là biện pháp quan trọng để kiểm soát lạm phát. Bởi tăng lãi suất sẽ làm giảm cung tiền đồng nghĩa việc làm giảm lạm phát, giữ tỷ giá không bị tăng quá mức.

“Đây là động thái linh hoạt và phù hợp của NHNN trong điều hành và cũng là xu thế chung của NHTW các nước trên thế giới. Quan trọng hơn, việc NHNN tăng lãi suất là để tránh tạo ra khoảng cách quá lớn trong điều hành so với mặt bằng chung xu hướng của nhiều quốc gia lớn trên thế giới; từ đó, giúp giữ chân các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”, TS. Lê Xuân Nghĩa nhận xét.

Không chỉ chuyên gia trong nước, chuyên gia nước ngoài đánh giá động thái tăng lãi suất điều hành của NHNN là tất yếu. Trao đổi với báo giới, ông Alain Cany - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) kiêm Chủ tịch Jardine Matheson Việt Nam cho rằng, việc NHNN phải tăng lãi suất điều hành 02 lần liên tiếp là điều không tránh khỏi. Vì lãi suất đang tăng lên trên toàn cầu, đặc biệt là Fed liên tục điều chỉnh tăng lãi suất đồng USD.

Khi so sánh với các đồng tiền khác trong khu vực và trên thế giới, ông Alain Cany cho rằng, so với nhiều loại tiền tệ khác, VND thậm chí còn đang hoạt động tốt hơn các đồng tiền như: Đồng Euro, đồng Yên…

Ông Alain Cany tin rằng, VND vẫn là một đồng tiền mạnh trên thế giới. Trong trung hạn, tiền đồng sẽ mạnh mẽ quay trở lại do nền kinh tế đang tăng trưởng tốt hơn. Với những gì đang diễn ra trên thị trường tiền tệ tại Việt Nam, ông Alain Cany đánh giá, những chính sách NHNN đang triển khai là điều đúng đắn. “Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã điều hành rất tốt”, vị chuyên gia nước ngoài khẳng định.

Trước lo ngại của không ít doanh nghiệp về lãi suất cho vay đang rục rịch tăng, TS. Cấn Văn Lực cũng ghi nhận đà tăng lãi suất cho vay đang diễn ra chậm hơn so với lãi suất huy động. TS. Cấn Văn Lực cho hay, lãi suất huy động đã và đang tăng lên từ 1 - 3% từ đầu năm đến nay, tùy kỳ hạn tiền gửi. Còn lãi suất cho vay tăng chậm hơn và ít hơn, ở mức 1 - 2%, tùy thời hạn vay, khách hàng và ngành nghề vay. Việc này cũng là để hỗ trợ doanh nghiệp một phần và cho thấy các ngân hàng thực hiện nghiêm túc theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN.

“Việc tăng lãi suất là việc làm rất khó khăn của các NHTW, trong đó có NHNN. Vì thế, NHTW hiện nay phải cân đối, tính toán đa chiều, tổng hòa các mặt để đưa ra quyết định tăng hay giảm lãi suất, rồi mức độ và tần suất như thế nào”, TS. Cấn Văn Lực nhìn nhận.

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã có nhiều chính sách, giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 như giảm lãi suất cho vay, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, hoãn, giãn nợ, miễn, giảm lãi, phí... Từ đầu năm 2022 đến nay, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn; vận động các TCTD tiếp tục rà soát đưa ra các chương trình, sản phẩm giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng.
 
Cụ thể: (i) Lãi suất tái cấp vốn tăng từ 4%/năm lên 6%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 2,5%/năm lên 4,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN tăng từ 5%/năm lên 7%/năm (Quyết định số 1606/QĐ-NHNN ngày 22/9/2022, Quyết định số 1809/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022). (ii) Trần lãi suất tiền gửi bằng VND tại các TCTD: Đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng tăng từ 0,2%/năm lên 1,0%/năm, kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng tăng từ 4%/năm lên 6%/năm (Quyết định số 1607/QĐ-NHNN ngày 22/9/2022, Quyết định số 1812/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022). (iii) Trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND: Tăng từ 4,5%/năm lên 5,5%/năm (Quyết định số 1813/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022)

Phạm Trang (Hà Nội)

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Ổn định tài chính trong bối cảnh lạm phát và rủi ro địa chính trị tăng cao
Ổn định tài chính trong bối cảnh lạm phát và rủi ro địa chính trị tăng cao
23/05/2023 302 lượt xem
Báo cáo cập nhật về ổn định tài chính toàn cầu, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đánh giá tình hình tài chính hiện nay trong bối cảnh lạm phát và rủi ro địa chính trị leo thang.
Khó khăn và thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ hiện nay
Khó khăn và thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ hiện nay
22/05/2023 391 lượt xem
Có thể nói, công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đối diện với rất nhiều khó khăn và thách thức; đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải rất linh hoạt, chủ động thích ứng, kịp thời tham mưu để đề xuất các giải pháp điều hành nhằm hỗ trợ phục hồi nền kinh tế sau khi chịu tác động nghiêm trọng và nặng nề từ đại dịch Covid-19 nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu ưu tiên hàng đầu đã được luật hóa trong Luật NHNN là kiểm soát lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Tiếp lửa cho đà cải thiện môi trường kinh doanh
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: "Tiếp lửa" cho đà cải thiện môi trường kinh doanh
16/05/2023 605 lượt xem
Với vai trò huyết mạch tiền tệ và thanh toán của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) luôn đi đầu trong công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực canh tranh quốc gia theo định hướng của Chính phủ với 3 trọng tâm đột phá: (i) Triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh, khắc phục các tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19; (ii) Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính và tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm duy trì chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng, nâng cao độ phủ thông tin tín dụng; (iii) Tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
Điều hành chính sách tiền tệ hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh
Điều hành chính sách tiền tệ hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh
11/05/2023 833 lượt xem
Thời gian qua, kinh tế thế giới tiếp tục có những diễn biến kém tích cực do hậu quả của đại dịch Covid-19, căng thẳng địa chính trị, rủi ro bất ổn gia tăng, xung đột Nga - Ukraine chưa thể kết thúc. Lạm phát vẫn duy trì ở mức cao tại nhiều quốc gia khiến ngân hàng trung ương (NHTW) các nước giữ lãi suất điều hành ở mức cao và tiếp tục có xu hướng tăng.
Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí - Thực trạng và một số khuyến nghị hoàn thiện
Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí - Thực trạng và một số khuyến nghị hoàn thiện
03/05/2023 1.176 lượt xem
Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động cần thiết bởi điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc đảm bảo sự bình đẳng, trung thực và lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, khung pháp lí điều chỉnh về vấn đề này chưa thật sự đầy đủ, thống nhất, do đó đã ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
Kinh tế Việt Nam khi gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một số định hướng hoàn thiện
Kinh tế Việt Nam khi gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một số định hướng hoàn thiện
02/05/2023 1.793 lượt xem
Trong bối cảnh nước ta đang hội nhập kinh tế thế giới, việc tích cực đẩy mạnh tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào “sân chơi” mới, đưa những sản phẩm của Việt Nam đến gần hơn với thị trường thế giới.
Dự báo lạm phát Việt Nam và một số kiến nghị
Dự báo lạm phát Việt Nam và một số kiến nghị
28/04/2023 1.606 lượt xem
Năm 2022, lạm phát Việt Nam tăng 3,15% so với bình quân năm 2021, đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát do Quốc hội đề ra, nhưng vẫn cao hơn mức lạm phát bình quân 5 năm giai đoạn 2017 - 2021 (2,98%). Trong đó, một số nhóm hàng có mức tăng rất cao so với mức tăng bình quân 5 năm như giao thông, đồ uống, thiết bị đồ dùng gia đình, văn hóa giải trí; một số nhóm hàng giảm giá mạnh, chủ yếu là nhóm hàng thuộc quản lí của Nhà nước như y tế, giáo dục
Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó
Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó
18/04/2023 1.519 lượt xem
Năm 2023, Việt Nam có được những thuận lợi cơ bản từ đà phục hồi kinh tế ấn tượng của năm 2022. Đến nay, Việt Nam có nền kinh tế lớn thứ tư ASEAN và thứ 40 của thế giới, quy mô thương mại quốc tế nằm trong Top 20 của thế giới (đạt gần 740 tỉ USD), là một trong những nền kinh tế được đánh giá là năng động và có độ mở cao nhất thế giới.
Phát hành cam kết bảo lãnh ngân hàng theo ISP98
Phát hành cam kết bảo lãnh ngân hàng theo ISP98
11/04/2023 1.920 lượt xem
Bảo lãnh ngân hàng là một sản phẩm tài chính có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Cùng với bảo lãnh độc lập (demand guarantee), thư tín dụng dự phòng (standby letter of credit) là một hình thức bảo lãnh ngân hàng được sử dụng tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam, đặc biệt khi có đối tác đến từ Hoa Kì.
Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị
Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị
30/03/2023 4.336 lượt xem
Là một trong những trụ cột chính của hệ thống tài chính xanh, tín dụng xanh đang là chủ đề được rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Mô hình tín dụng xanh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến môi trường và khí hậu. Tại Việt Nam, hoạt động tín dụng xanh cũng đã được triển khai thực hiện trong những năm gần đây và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, bao gồm tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch và nông nghiệp công nghệ cao.
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
30/03/2023 2.483 lượt xem
Ngày 28/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1813/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 1813). Sau hơn 01 năm triển khai thực hiện Quyết định số 1813, hoạt động TTKDTM đã đạt được những kết quả tích cực. Thời gian tới, cần sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành trong xây dựng hành lang pháp lí và đẩy nhanh quá trình kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư vào hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, qua đó tạo điều kiện thúc đẩy thanh toán số, chuyển đổi số ngành Ngân hàng.
Quản lí nhà nước đối với mô hình kinh tế hợp tác xã tại Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị
Quản lí nhà nước đối với mô hình kinh tế hợp tác xã tại Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị
29/03/2023 2.348 lượt xem
Phát triển kinh tế tập thể được xem là xu thế tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay và đây cũng chính là thành phần kinh tế quan trọng bên cạnh kinh tế nhà nước của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tập thể hay mô hình hợp tác xã của nước ta ở thời điểm hiện tại chưa thực sự phát huy hiệu quả theo đúng mục tiêu, chính sách của Nhà nước.
Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị
Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị
27/03/2023 5.589 lượt xem
Hiện nay, bên cạnh Basel II, nhiều ngân hàng Việt Nam cũng đã áp dụng Basel III, IFRS 9. Đây là chuẩn mực quốc tế giúp các ngân hàng nâng cao quản trị rủi ro và cạnh tranh hơn so với các đối thủ cùng Ngành. Bên cạnh đó, điều này cũng góp phần giúp hệ thống tổ chức tín dụng nói chung phát triển hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc ứng dụng Basel III vẫn còn nhiều vướng mắc bởi Hiệp ước này có những yêu cầu cao hơn và khắt khe hơn.
Bảo vệ quyền và lợi ích của người mua nợ trong giao dịch mua, bán nợ với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
Bảo vệ quyền và lợi ích của người mua nợ trong giao dịch mua, bán nợ với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
22/03/2023 2.663 lượt xem
Xử lí nợ nhanh chóng và hiệu quả luôn được coi là một trong những mục tiêu cơ bản, quan trọng nhằm đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng (TCTD). Có nhiều phương thức khác nhau để TCTD xử lí nợ và trong những năm gần đây, TCTD có xu hướng lựa chọn nhiều hơn việc xử lí nợ thông qua mua, bán nợ với các chủ thể có nhu cầu trên thị trường.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.450

67.070

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.450

67.050

Vàng SJC 5c

66.450

67.070

Vàng nhẫn 9999

55.750

56.700

Vàng nữ trang 9999

55.600

56.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23,270 23,640 24,575 25,951 28,261 29,466 163.78 173.39
BIDV 23,320 23,620 24,752 25,940 28,372 29,619 164.31 173.07
VietinBank 23,235 23,655 24,821 25,956 28,606 29,616 164.85 172.8
Agribank 23,270 23,635 24,830 25,832 28,510 29,336 165.92 172.71
Eximbank 23,250 23,630 24,854 25,531 28,548 29,326 165.67 170.18
ACB 23,200 23,700 24,861 25,488 28,689 29,295 165.51 169.86
Sacombank 23,280 23,685 25,018 25,532 28,788 29,304 166.23 171.78
Techcombank 23,310 23,655 24,609 25,935 28,217 29,502 161.45 173.73
LPBank 23,300 23,900 24,794 26,122 28,725 29,665 164.18 175.63
DongA Bank 23,330 23,660 24,880 25,550 28,610 29,320 163.5 170.7
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
0,50
0,50
0,50
4,60
4,70
4,80
6,40
6,60
6,80
6,90
Sacombank
-
-
-
-
5,30
5,40
5,50
7,30
7,40
7,60
7,90
Techcombank
0,10
-
-
-
5,40
5,40
5,40
7,10
7,10
7,10
7,10
LPBank
-
0,20
0,20
0,20
5,00
5,00
5,00
7,30
7,30
7,70
8,00
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,30
-
-
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,00
Eximbank
0,20
0,50
0,50
0,50
5,50
5,50
5,50
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?