Những xu hướng FDI trên thế giới
31/12/2021 18.651 lượt xem
Các biện pháp nhằm kiềm chế sự lây lan của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu năm 2021...
 


Sụt giảm FDI toàn cầu có liên quan rất chặt chẽ đến việc gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu do hậu quả của đại dịch Covid-19.

1. Gia tăng quy mô và điều chỉnh chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
 
Các biện pháp nhằm kiềm chế sự lây lan của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu năm 2021. Theo Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), dòng vốn FDI toàn cầu ước giảm từ 30 - 40% trong giai đoạn 2020 - 2021. Tất cả các lĩnh vực sẽ bị ảnh hưởng, nhưng FDI giảm mạnh và rõ ràng trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan đến tiêu dùng như hàng không, khách sạn, nhà hàng, vui chơi giải trí, cũng như các ngành sản xuất và lĩnh vực năng lượng. Sụt giảm FDI toàn cầu có liên quan rất chặt chẽ đến việc gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu do hậu quả của đại dịch.

Ngoài ra, các chính phủ trên thế giới cũng đã tích cực triển khai các chính sách đầu tư ra nước ngoài mới liên quan đến an ninh quốc gia, đồng thời, cố gắng cân bằng các rủi ro bằng các chính sách bảo hộ. Trong năm 2020, các chính phủ khác nhau đã thông qua các biện pháp ở cả cấp quốc gia và quốc tế để giải quyết các hậu quả kinh tế và sức khỏe của đại dịch Covid-19, cũng như bảo vệ các doanh nghiệp khỏi nguy cơ thâu tóm từ nước ngoài.

Các nền kinh tế phát triển chứng kiến ​​mức tăng mạnh nhất về vốn FDI,   lên tới 424 tỷ USD trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 6/2021 - gấp hơn 3 lần so với thời kỳ đại dịch năm 2020.

Ở châu Âu, một số nền kinh tế lớn đã chứng kiến ​​sự gia tăng đáng kể trong vốn FDI, chỉ còn thấp hơn 5% so với mức trung bình hàng quý trước đại dịch. Theo báo cáo của Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD’s Investment Trends Monitor), dòng vốn FDI vào Mỹ đã tăng 90%, nhờ vào sự gia tăng của các thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A).

Dòng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển cũng tăng đáng kể lên tổng cộng 427 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2021, với mức tăng trưởng 25% ở Đông và Đông Nam Á, phục hồi gần mức trước đại dịch ở Trung và Nam Mỹ, và tăng trưởng trên khắp châu Phi, Tây và Trung Á.

Trong tổng mức tăng phục hồi, 75% được ghi nhận ở các nền kinh tế phát triển.

Trong nửa đầu năm 2021, so với năm 2020, các quốc gia có thu nhập cao đã tăng hơn gấp đôi dòng vốn FDI của họ với mức tăng 117% và các nền kinh tế thu nhập trung bình tăng 30%, trong khi các nền kinh tế thu nhập thấp ghi nhận mức âm 9%.

Trong nửa đầu năm 2021, dòng vốn FDI toàn cầu đã phục hồi, đạt 852 tỷ USD (Ngân hàng Thế giới - WB, 2021). Con số này đã tăng 78% từ tháng 1 đến tháng 6 so với cùng kỳ năm ngoái, giảm 70% do đại dịch (UNCTAD, 2021).

Nhìn chung, dòng vốn FDI toàn cầu đã giảm 35% vào năm 2020, xuống còn 1 nghìn tỷ USD từ mức 1,5 nghìn tỷ USD của năm 2019; song, được dự kiến ​​sẽ chạm đáy vào năm 2021 và phục hồi tăng 10 - 15% so với năm 2020. Điều này sẽ vẫn khiến dòng vốn FDI năm 2021 trên toàn cầu thấp hơn khoảng 25% so với mức của năm 2019 và thấp hơn 40% so với mức đỉnh năm 2016. Tất cả các thành phần của FDI đều giảm. Sự thu hẹp tổng thể trong hoạt động dự án mới, kết hợp với sự chậm lại trong hoạt động M&A, đã dẫn đến dòng vốn đầu tư cổ phần giảm hơn 50%.

Về định hướng, năm 2021 dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các nền kinh tế phát triển giảm 69% (UNCTAD, 2021). Dòng vốn vào châu Âu giảm xuống còn -4 tỷ USD, cho thấy một dòng chảy ra ngoài, so với dòng vốn vào năm 2019 là 344 tỷ USD. Trong khi đó, dòng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển giảm 12%, phần lớn là đổ vào Trung Quốc. Dòng đầu tư vào các nước đang phát triển tại châu Á ở mức 476 tỷ USD, giảm 4% so với năm 2019 và chiếm khoảng một nửa trong tổng số 859 tỷ USD dòng vốn đầu tư trực tiếp toàn cầu vào năm 2020. Hoạt động M&A xuyên biên giới nhìn chung vẫn ổn định trong quý đầu tiên của năm 2021 và số lượng các thương vụ M&A được công bố ngày càng tăng, cho thấy tiềm năng tăng trưởng đột biến có thể xuất hiện vào cuối năm 2021.

Các dự báo hiện tại cho thấy, tăng trưởng FDI có thể quay lại vào năm 2022, trở lại mức 1,5 nghìn tỷ USD của năm 2019. Sự phục hồi tương đối khiêm tốn về vốn FDI toàn cầu dự kiến ​​cho năm 2021 phản ánh sự không chắc chắn kéo dài về khả năng tiếp cận vaccine, sự xuất hiện của các đột biến mới của virus và sự chậm trễ trong việc mở cửa trở lại của các ngành kinh tế. Việc tăng chi tiêu cho cả tài sản cố định và tài sản vô hình sẽ không trực tiếp dẫn đến sự phục hồi nhanh chóng của FDI.

Dòng vốn đầu tư FDI vào châu Á sẽ vẫn tăng 8% khi khu vực này đã trở thành một điểm đến hấp dẫn đối với nhà đầu tư quốc tế trong suốt thời kỳ đại dịch. FDI vào châu Phi và châu Mỹ Latinh và Caribe sẽ khó có khả năng phục hồi đáng kể trong tương lai gần. Các khu vực này có nhiều điểm yếu về cơ cấu kinh tế, không gian tài chính eo hẹp và phụ thuộc nhiều hơn vào đầu tư Greenfield (đầu tư mới/đầu tư xanh) dự kiến ​​sẽ vẫn ở mức thấp trong năm 2021.

Các đợt đóng cửa trên khắp thế giới để đối phó với đại dịch Covid-19 đã làm chậm lại các dự án đầu tư đang triển khai và triển vọng suy thoái khiến các doanh nghiệp đa quốc gia phải đánh giá lại các dự án mới.

Các chính phủ đã tích cực hỗ trợ nền kinh tế, bằng cách triển khai hàng loạt các chính sách bao gồm khuyến khích đầu tư để thúc đẩy sản xuất thuốc và thiết bị y tế, hỗ trợ cho các doanh nghiệp và ngành bị ảnh hưởng, các biện pháp để phá vỡ các hạn chế về quyền sở hữu trí tuệ, và các nỗ lực quốc tế để tăng tốc sản xuất vaccine và chia sẻ vaccine xuyên biên giới. Sự thay đổi cách tiếp cận theo các khía cạnh an ninh quốc gia của đầu tư nước ngoài, đặc biệt là của các nền kinh tế phát triển, đã có xu hướng làm mờ đi sự khác biệt giữa đầu tư nước ngoài, thương mại và an ninh quốc gia và phản ánh quan điểm ưu tiên an ninh quốc gia hơn là tập trung thu hút đầu tư nước ngoài. Có thể hiểu, những thay đổi trong công nghệ và nền kinh tế toàn cầu đã khiến việc đánh giá chi phí kinh tế và lợi ích của những thay đổi trong chính sách đầu tư nước ngoài dựa trên lý do an ninh quốc gia trở nên khó khăn hơn.

Bảng dưới đây tổng hợp một số chính sách liên quan đến đầu tư nước ngoài được các quốc gia áp dụng trong suốt thời gian diễn ra đại dịch vừa qua:

Bảng 1: Luật sàng lọc đầu tư nước ngoài được áp dụng trong đại dịch Covid-19



 

Theo UNCTAD, các thành viên EU đã độc lập sửa đổi luật hiện hành hoặc thông qua các quy tắc mới để mở rộng việc xem xét các khoản đầu tư nước ngoài vì lý do an ninh quốc gia, đặc biệt là các quy định liên quan đến việc mua lại các công ty liên quan đến sản xuất chăm sóc y tế và sức khỏe. Ngoài ra, Úc, Canada và Nhật Bản đã mở rộng phạm vi đầu tư nước ngoài mà họ sàng lọc. Trong một số trường hợp, những thay đổi về chính sách bao gồm việc tăng cường sàng lọc đầu tư nước ngoài đối với đầu tư nước ngoài vì lý do “lợi ích cộng đồng” có thể vẫn được duy trì sau khi đại dịch kết thúc.

Theo UNCTAD, một số yếu tố tạo ra sự không chắc chắn và rủi ro cho hoạt động đầu tư FDI trong thời gian tới, bao gồm thời gian xảy ra đại dịch, tiêm chủng ở các nước đang phát triển, tốc độ thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng, tình trạng thiếu lao động, tắc nghẽn chuỗi cung ứng, giá năng lượng và áp lực lạm phát.

Hình 1: Nguồn vốn FDI phục hồi không đều (nửa đầu năm 2021 so với năm 2020) (đơn vị: %)
 

2. Sự chuyển hướng dòng vốn đầu tư vào các nước phát triển
 
Ở các nền kinh tế phát triển, phản ứng ban đầu đối với cú sốc Covid-19, theo lịch sử chính sách được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng trước đó, là đẩy vào thị trường tài chính các chính sách nới lỏng định lượng mới. Tuy nhiên, các chính phủ ở các nền kinh tế phát triển đã sớm nhận ra vấn đề, vì các cuộc phong tỏa gây ra một tác động ngược lên kinh tế đòi hỏi các biện pháp có mục tiêu và phối hợp để bảo vệ cuộc sống và sinh kế của người dân. Các ngân hàng trung ương tiếp tục bơm thanh khoản, nhưng không giống như trong năm 2007 - 2009, các chính phủ cũng tăng chi tiêu của họ lên mức chưa từng thấy kể từ Thế chiến thứ 2. Trong quá trình này, các quan điểm chính sách bất khả xâm phạm trước đây đã từ bỏ. Mặc dù vậy, sự sụt giảm sản lượng trong quý 2 và quý 3 năm 2020 là chưa từng có; ngay cả khi các nền kinh tế bắt đầu mở cửa và niềm tin quay trở lại, sự phục hồi trở lại được đánh dấu bằng sự không đồng đều đáng kể giữa các ngành, nhóm thu nhập và khu vực. Hơn nữa, sự bất bình đẳng về thu nhập và tài sản xuất hiện trong bốn thập kỷ qua, nếu có, ngày càng gia tăng, trong đó, chủ sở hữu tài sản tài chính và kỹ thuật số thu được lợi nhuận lớn nhất từ việc phục hồi.

Tại EU, sau một thời gian điều chỉnh giảm - sự điều chỉnh góp phần giảm mất cân bằng toàn cầu - thặng dư tài khoản vãng lai tính theo phần trăm GDP được dự báo sẽ trở lại mức trước đại dịch là 3% trong năm nay. Vào năm 2023, thặng dư dự kiến sẽ tăng lên 3,2% GDP. Với sự phục hồi dự kiến của du lịch, thặng dư ngày càng tăng trong tài khoản dịch vụ được coi là yếu tố đóng góp chính. Ngoài ra, lợi tức đầu tư của EU ra nước ngoài sẽ phục hồi cùng với sự phục hồi của thu nhập toàn cầu.

Triển vọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng là tốt do các gói kích thích Covid-19, nhưng đầu tư vào công nghiệp vẫn còn yếu. Và trong khi các quốc gia có thu nhập cao tăng gấp đôi dòng vốn FDI hàng quý, các nền kinh tế thu nhập thấp lại bị sụt giảm thêm 9%.

3. Tái định vị dòng vốn đầu tư vào các nước đang phát triển
 
Các nước đang phát triển bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề bởi hoạt động kinh tế bị khóa toàn cầu. Nó gây ra một loạt các cú sốc liên kết với nhau, tạo ra các chu kỳ kinh tế luẩn quẩn bên cạnh các lỗ hổng nợ hiện có, khiến hầu hết các khu vực rơi vào suy thoái sâu và một số quốc gia rơi vào tình trạng vỡ nợ. Bất chấp việc thắt chặt tài khóa và gánh nặng nợ gia tăng, các nước đang phát triển vẫn phải tự mình xoay sở cuộc khủng hoảng, buộc phải cắt giảm sâu việc làm và dịch vụ công. Việc dòng vốn luân chuyển nhanh hơn dự kiến và giá hàng hóa phục hồi, khi các nền kinh tế phát triển bị cấm vận được dỡ bỏ, đã ngăn chặn tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Tuy nhiên, tăng trưởng ở hầu hết các nước đang phát triển vẫn còn yếu, các khoản nợ lớn vượt mức thậm chí còn lớn hơn, trong khi các biến thể của virus đe dọa làm sống lại các làn sóng đại dịch mới sẽ làm ảnh hưởng đến thành quả hiện tại và dễ gây ra những tổn thương cho các nền kinh tế. Ngay cả khi đại dịch được ngăn chặn thì nỗi lo về lãi suất cao hơn cũng làm suy yếu triển vọng phát triển.

Niềm tin ngày càng tăng của nhà đầu tư thể hiện rõ nhất ở cơ sở hạ tầng, được thúc đẩy bởi các điều kiện tài chính dài hạn thuận lợi, các gói kích thích phục hồi và các chương trình đầu tư ra nước ngoài.

Các giao dịch tài trợ dự án quốc tế đã tăng 32% về số lượng (74% về giá trị), với mức tăng đáng kể ở hầu hết các khu vực thu nhập cao và ở châu Á và Nam Mỹ.

Ngược lại, niềm tin của nhà đầu tư vào ngành và chuỗi giá trị toàn cầu vẫn còn lung lay. Các thông báo về dự án đầu tư Greenfield tiếp tục đi xuống (-13% về số lượng, -11% về giá trị trong ba quý đầu tiên năm 2021).

Sự phục hồi của dòng vốn đầu tư vào các lĩnh vực liên quan đến Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) ở các nước đang phát triển, vốn bị thiệt hại đáng kể trong thời kỳ đại dịch với mức giảm hai con số trên hầu hết các lĩnh vực, vẫn còn mong manh.

Tổng giá trị của các khoản đầu tư vào lĩnh vực Greendfield được công bố và các thương vụ tài trợ dự án tăng 60%, nhưng chủ yếu là do một số ít các thương vụ rất lớn trong ngành điện (tổng số các dự án đầu tư liên quan đến SDG ở các nền kinh tế đang phát triển vẫn giảm 6%) .

Tài chính dự án quốc tế trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và tiện ích tiếp tục là lĩnh vực tăng trưởng mạnh nhất.

Tuy nhiên, số lượng các dự án đầu tư liên quan đến SDG ở các nước kém phát triển nhất tiếp tục giảm mạnh. Các thông báo về dự án Greenfield mới giảm 51% và các giao dịch tài chính cho dự án cơ sở hạ tầng giảm 47%. Con số này sau khi giảm 28% ở cả hai loại hình vào năm 2020.

Các ưu tiên kinh tế vĩ mô cần thiết để khắc phục những hạn chế và thách thức đặt ra, cần dựa trên các chính sách hỗ trợ đầu tư, cũng như sự hợp tác và phối hợp chiến lược giữa khu vực tư nhân và chính phủ. Thứ nhất, cần từ bỏ việc thắt lưng buộc bụng như một khuôn khổ chính sách mặc định để quản lý tổng cầu. Thứ hai, cần giám sát sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyết định đầu tư và sản xuất. Các quyết định này liên quan đến việc xác định các lĩnh vực có những trở ngại lớn nhất đối với đầu tư; làm thế nào hiệu quả để kênh đầu tư công và tư nhân vào các hoạt động năng suất cao; và giám sát xem liệu các khoản đầu tư này có được quản lý theo cách để duy trì một tương lai lương cao cho người dân và tăng năng suất lâu dài hay không. Việc kỷ luật đầu tư như vậy được đảm bảo thông qua các tiêu chuẩn hoạt động có thể giám sát được và việc rút lại sự hỗ trợ của chính phủ nếu không đạt được mục tiêu trong một khoảng thời gian nhất định, cũng như kiểm tra kỹ lưỡng việc đòi tiền thuê từ phía các cơ quan chức năng và doanh nghiệp.

Đối với lĩnh vực đầu tư Greendfield, một lợi ích chính của việc mở rộng tài khóa xanh là tạo ra nhiều việc làm hơn. Điều này có được nhờ mở rộng các lĩnh vực carbon thấp có xu hướng thâm dụng nhiều lao động hơn so với việc thu hẹp các lĩnh vực thải nhiều carbon. Ước tính, việc tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng và tăng cường lưới điện sẽ tạo ra khoảng 19 triệu việc làm mới trên toàn thế giới vào năm 2050 (T. Phương 2021).

Theo truyền thống, chuyển đổi cơ cấu là cách thành công nhất để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và nâng cao mức sống, các nền kinh tế phát triển hiện nay  cũng như một số nước công nghiệp muộn thành công ở Đông Á đã thực hiện con đường này. Tuy nhiên, mô hình sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch truyền thống của họ không thể đáp ứng nguyện vọng của nhiều quốc gia đang phát triển khác đang cố gắng nâng cao thu nhập quốc dân của họ thông qua công nghiệp hóa vì nó sẽ đưa lượng khí thải và tiêu thụ tài nguyên vượt quá giới hạn khả năng sinh thái của hành tinh.

Việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo và tiến bộ với nền kinh tế vòng tròn có thể làm tăng phạm vi công nghiệp hóa cho một loạt các nền kinh tế đang phát triển vì chúng tách rời các hoạt động kinh tế với tài nguyên thiên nhiên. Các nguồn năng lượng tái tạo - chẳng hạn như mặt trời, gió và nước - được phân bổ công bằng hơn so với các mỏ nhiên liệu hóa thạch có thể khai thác kinh tế và nền kinh tế tuần hoàn cho phép khai thác tài nguyên từ các sản phẩm đã qua sử dụng và chất thải, do đó giảm số lượng tài nguyên cần cho sản xuất.
 

TS. Nguyễn Thị Kim Nhã

Tổng công ty Bảo hiểm Bưu điện

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
08/07/2024 1.295 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, trình bày những khó khăn và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
03/07/2024 1.831 lượt xem
Mục tiêu của bài viết nhằm xem xét cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống thông qua những quy định hiện hành tại một số quốc gia; qua đó, đưa ra các hàm ý đối với Việt Nam.
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
19/06/2024 2.458 lượt xem
Dựa trên dữ liệu được thu thập từ các báo cáo về tài chính toàn diện của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ tài chính số tại 19 quốc gia châu Á từ phía chủ thể cung cấp và chủ thể tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
06/06/2024 3.318 lượt xem
Trong kỉ nguyên của công nghệ số, sự xuất hiện của một hình thức tiền tệ số hay tiền mã hóa là hoàn toàn cần thiết để đáp ứng sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ (Milutinovic, 2018). Tiền mã hóa sử dụng công nghệ mã hóa và chuỗi khối (Blockchain) để bảo đảm tính an toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính.
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
24/05/2024 4.188 lượt xem
Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) là những định chế tài chính phát triển lớn, thành công trên thế giới...
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
20/05/2024 4.289 lượt xem
Đi đôi với phát triển kinh tế, Trung Quốc dần hình thành và triển khai chiến lược bài bản xây dựng và củng cố sức mạnh tài chính - tiền tệ với trọng tâm là phát triển CNY trở thành đồng tiền quốc tế...
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
16/05/2024 5.860 lượt xem
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
08/05/2024 4.929 lượt xem
Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây rất nhiều khó khăn, tổn thất về người, kinh tế cho các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, công bố các chỉ tiêu ESG (Enviromental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong nhiều năm qua luôn thu hút được sự đồng hành của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 5.719 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 7.398 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 9.039 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 27.711 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 10.149 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 14.751 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 10.279 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?