Những tác động tiêu cực của suy thoái sâu
24/02/2023 1.860 lượt xem
Một phân tích về hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở 24 quốc gia trong hơn 50 năm qua đã chỉ ra rằng, việc các nền kinh tế quay trở lại mức tăng trưởng trước đó sau suy thoái là khó dự đoán, vì còn phụ thuộc vào độ sâu của suy thoái. Những tác động tiêu cực của suy thoái nghiêm trọng mang tính dai dẳng và lâu dài.

Triển vọng kinh tế ngắn hạn đối với thế giới là khá ảm đạm

Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), trong bối cảnh lạm phát cao nhất trong nhiều thập kỉ, khủng hoảng năng lượng, đại dịch Covid-19 kéo dài và xung đột quân sự ở Ukraine, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm gần một nửa trong năm 2023 so với mức 6% của năm 2022 và tốc độ giảm thậm chí mạnh hơn đến mức trì trệ 2,7% vào năm 2023. Liệu các nền kinh tế lớn có tránh được suy thoái trong bối cảnh bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát - là câu hỏi luôn được đưa ra trong các cuộc thảo luận. Trong khi đó, việc các nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng trong tương lai là điều không gây bàn cãi.

Tuy nhiên, trong thực tế, điều này không phải lúc nào cũng đúng. Chẳng hạn, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP ở nhiều nước phát triển vẫn thấp hơn đáng kể so với xu hướng trước khủng hoảng trong một thời gian dài. Năm 2015, 23 quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) mất bình quân 8,4% sản lượng tiềm năng, tương đương 4,3 nghìn tỉ USD - tổn thất về sản lượng tiềm năng có sự khác biệt giữa các nước, dao động từ gần như bằng 0 ở Thụy Sĩ và Úc đến hơn 30% ở Hy Lạp, Hungary và Ireland (Laurence B. Ball, 2014). Có hai kết luận có thể rút ra từ dữ liệu trên: (i) Ở hầu hết các quốc gia, tổn thất sản lượng tiềm năng lớn gần bằng mức thiếu hụt sản lượng thực tế so với xu hướng trước khủng hoảng. Điều này ngụ ý rằng hiệu ứng trễ đã rất mạnh trong cuộc Đại suy thoái 2008 - 2009; (ii) Tại các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi suy thoái, tốc độ tăng trưởng của sản lượng tiềm năng ngày nay thấp hơn đáng kể so với trước năm 2008. Tốc độ tăng trưởng chậm lại này có nghĩa là mức sản lượng tiềm năng có thể sẽ còn giảm sâu hơn nữa so với xu hướng trước khủng hoảng trong những năm tới.

Ngay cả những tác động ngắn hạn cũng có thể có hậu quả lâu dài - khủng hoảng có thể để lại "vết sẹo" cho nền kinh tế, đó là lí do tại sao khả năng phục hồi hoàn toàn là khó xảy ra.

Tuy nhiên, làm thế nào để xác định được liệu một cuộc khủng hoảng cụ thể có để lại “vết sẹo” hay không? Để trả lời câu hỏi này, nhóm tác giả bao gồm David Aikman, Giáo sư tài chính tại Trường Kinh doanh Hoàng gia London; Mikael Juselius, cố vấn nghiên cứu tại Ngân hàng Phần Lan; Matthias Dremann, nhà nghiên cứu tại Ngân hàng Thanh toán quốc tế và Xiaochuan Xing từ Đại học Yale đã thực hiện nghiên cứu các hiệu ứng đối với tăng trưởng từ các đợt suy giảm sâu. Nhóm tác giả kết luận rằng, thông thường, chỉ suy thoái sâu mới có tác động kìm hãm tăng trưởng dài hạn, trong khi những hiệu ứng của việc hạ cánh mềm có thể được các nền kinh tế xử lí tương đối nhanh chóng mà không ảnh hưởng đến quỹ đạo tăng trưởng (David Aikman et al., 2022).

 


Tích lũy vốn trong quá trình mở rộng kinh tế có thể có tác động tích cực dài hạn đến tăng trưởng GDP (Ảnh internet)

Khủng hoảng đặc biệt nguy hiểm

Sau khi nghiên cứu các cuộc khủng hoảng trong vòng 50 năm kể từ năm 1970 tại 24 quốc gia (19 nước phát triển và 5 nước đang phát triển); so sánh quỹ đạo dự báo tăng trưởng trước khủng hoảng của các nền kinh tế này trong 10 năm tới với quỹ đạo thực tế sau khủng hoảng, Aikman và các cộng sự nhận thấy, trong hầu hết các trường hợp, nền kinh tế nhanh chóng quay trở lại tốc độ tăng trưởng dài hạn trước khủng hoảng.

Các cuộc khủng hoảng có ảnh hưởng đến động lực của GDP 10 năm sau đó chiếm tỉ trọng khoảng 20% trong mẫu nghiên cứu. Những “vết sẹo” tăng tỉ lệ thuận với độ sâu của suy thoái. Những "vết sẹo" sâu nhất vẫn còn sau những cuộc suy thoái sâu nhất, trung bình khoảng 5%: Sau các đợt suy thoái sâu, tăng trưởng kinh tế trong 10 năm sau đó ở mức 4,25 điểm phần trăm, thấp hơn so với khi chưa diễn ra khủng hoảng. Với mức giảm nhỏ hơn 3 - 4 lần, GDP thực trong thập kỉ sau đó đã chậm lại trung bình 1,05 điểm phần trăm (David Aikman et al., 2022).

Các cuộc suy thoái ít sâu hơn, nghĩa là, 80% còn lại trong mẫu nghiên cứu thường không gây ra hậu quả lâu dài. Sau “điểm tới hạn”, độ sâu của suy thoái để lại “vết sẹo”, có sự khác biệt tùy thuộc vào phương pháp đánh giá; tuy nhiên, kết luận chỉ ra một cuộc suy thoái tương đối mạnh mới gây ra tác động tiêu cực lâu dài đã được xác nhận bằng bất kì phương pháp tính toán, cho bất kì quốc gia và bất kì thời kì nào.

Để tìm hiểu xem liệu tất cả các cuộc suy thoái sâu hay chỉ một trong số chúng có thể gây ra các tổn thất dài hạn hay không, nghiên cứu tập trung vào một mẫu khảo sát gồm 198 cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất (từ 5% trở lên), sau khi xác định nguyên nhân của chúng. Hầu hết các cuộc suy thoái này đều do một trong ba nguyên nhân: 100 trường hợp - khủng hoảng tài chính ngân hàng; 19 trường hợp - cú sốc dầu mỏ đầu những năm 1970; 51 trường hợp - thắt chặt tiền tệ.

 Các tính toán đã chỉ ra rằng, một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong 10 năm tới, trung bình 5,6 điểm phần trăm, tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ có cường độ yếu gần gấp đôi. Các cuộc khủng hoảng dầu mỏ để lại những "vết sẹo" sâu sắc nhất - chúng làm chậm tốc độ tăng trưởng nền kinh tế trong dài hạn gấp 1,5 lần so với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất. Nhưng nói chung, nguyên nhân cụ thể của suy thoái kinh tế không có ý nghĩa đối với việc, liệu nó có “đánh bật” nền kinh tế khỏi quỹ đạo tăng trưởng trước đó hay không.


Hậu quả của các cuộc khủng hoảng

Các cuộc suy thoái gây ra bởi những cú sốc bên ngoài cũng như những sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô và khủng hoảng chính trị có thể dẫn đến tổn thất dài hạn cho nền kinh tế là một trong những gợi ý đầu tiên vào những năm 2000 của các nhà kinh tế IMF Valerie Serra và Sveta Chaman Saxena. Theo tính toán của họ, dựa trên dữ liệu từ 190 quốc gia kể từ năm 1960, khủng hoảng cán cân thanh toán dẫn đến tổn thất dài hạn trung bình khoảng 5 điểm phần trăm tăng trưởng, khủng hoảng ngân hàng khoảng 10 điểm phần trăm tăng trưởng và nếu nó đi kèm với khủng hoảng tiền tệ, thì tổng thiệt hại dài hạn có thể lên tới 15 điểm phần trăm (Valerie Cerra et al.,2018).
 
  
Các nghiên cứu kinh tế đã phân tích một số cơ chế gây nên những “vết sẹo” sau khủng hoảng trên “cơ thể” nền kinh tế. Những "vết sẹo" này có thể do trong thời kì suy thoái, các hoạt động đổi mới mang lại ít lợi nhuận hơn và doanh nghiệp giảm đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), làm "đóng băng" sự phát triển của công nghệ trong một thời gian dài; xói mòn nguồn nhân lực do thất nghiệp kéo dài; thay đổi hành vi kinh tế và niềm tin của người dân; cú sốc cầu kìm hãm tăng trưởng sản lượng; sự suy giảm năng suất trong dài hạn do sự phá sản của các công ty có năng suất lao động cao và quá trình “zombification” nền kinh tế¹; làm suy yếu động lực theo đuổi các cải cách dài hạn của chính phủ. Ở giai đoạn này, quá trình phi toàn cầu hóa và phân mảnh nền kinh tế thế giới do đại dịch Covid-19 và xung đột quân sự kích hoạt, có thể trở thành một xúc tác bổ sung.

Nhưng nếu suy thoái mạnh có tác động tiêu cực trong dài hạn, thì các giai đoạn tăng trưởng nhanh có thể có tác động dài hạn tương tự, nhưng liệu có tích cực hay không? Khả năng này xuất phát từ lí thuyết tăng trưởng nội sinh, theo đó, tích lũy vốn trong quá trình mở rộng kinh tế có thể có tác động tích cực dài hạn đến động lực GDP do lợi nhuận không thể giảm theo quy mô. Tuy nhiên, các tính toán cho thấy rằng, ngay cả tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trên thực tế cũng không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tiếp theo trong khoảng thời gian 10 năm (sau một thời gian mở rộng, chúng sẽ tiệm cận gần mức trung bình được quan sát trước khi tăng tốc).

Do đó, các tác động dài hạn là phi tuyến tính và bất đối xứng. Trong khi suy thoái kinh tế mạnh ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, thì suy thoái nông không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Các tác giả cho biết, kết quả của nghiên cứu mang ý nghĩa tức thời đối với các nhà hoạch định chính sách. Điều đầu tiên và quan trọng nhất là những cú sốc kinh tế mạnh có thể làm chậm tốc độ tăng trưởng GDP trong nhiều năm, vì vậy, nỗ lực chính của những người ra quyết định trong lĩnh vực chính sách tiền tệ, tài khóa, điều tiết vĩ mô cần tập trung vào việc ngăn chặn các đợt suy thoái kinh tế sâu. Thứ hai, nếu một cuộc suy thoái nghiêm trọng đã xảy ra thì không nên kì vọng rằng nền kinh tế sẽ sớm trở lại xu hướng trước khủng hoảng. Một ảo tưởng như vậy có thể dẫn đến việc đánh giá sai lầm chênh lệch sản lượng - chỉ số cho thấy mức độ tiệm cận sản lượng hiện tại với mức sản lượng tiềm năng dài hạn và mức chênh lệch sản lượng mà ngân hàng trung ương tính đến trong chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn cảnh báo, những cuộc suy thoái sâu kéo theo thời gian dài tăng trưởng thấp có thể gây khó khăn cho việc duy trì mức nợ bền vững - cho cả cá nhân và nhà nước.

 Năm 2014, Olivier Blanchard, nguyên Cố vấn kinh tế và Trưởng bộ phận nghiên cứu của IMF, khi suy ngẫm về những bài học của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã nhấn mạnh bài học chủ yếu cho chính sách rất đơn giản: “Hãy tránh xa những góc tối” - những tình huống, trong đó, nền kinh tế có thể gặp trục trặc nghiêm trọng. Với một số biến động lớn đã xảy ra trong những năm gần đây, câu hỏi quan trọng hiện nay là liệu các nhà hoạch định chính sách có các công cụ để tránh hiện thực hóa những góc tối như vậy hay không? Aikman và cộng sự lập luận rằng: Có thể tác động của cuộc khủng hoảng hiện tại bị hạn chế, nhưng cũng có thể, ví dụ, sự gián đoạn nguồn cung sẽ trở nên tồi tệ hơn hoặc đại dịch sẽ bùng phát trở lại. “Nhưng điều rõ ràng là việc tập trung vào các mô hình kinh tế vĩ mô chuẩn với giả định rằng nền kinh tế chắc chắn sẽ phục hồi theo xu hướng trước đó sau một cú sốc, có thể gây hiểu nhầm, đặc biệt là vào những thời điểm rủi ro cao”.


¹The zombification of the economy đề cập đến tình huống, trong đó, các chương trình hỗ trợ của chính phủ và hoạt động cho vay của ngân hàng khiến các doanh nghiệp không thể sống sót vẫn tồn tại trên thị trường (doanh nghiệp zombie).

Tài liệu tham khảo

1. David Aikman et al. (2022). The scarring effects of deep contractions. Bank of Finland Research Discussion Papers. 12.2022.
2. Đại dịch doanh nghiệp zombie lan tràn khắp thế giới. https://cafebiz.vn/dai-dich-doanh-nghiep-zombie-lan-tran-khap-the-gioi176221121090824981.chn
3. Glenn Schepens et al (2020). Zombification in Europe in times of pandemic. https://cepr.org/voxeu/columns/zombification-europe-times-pandemic
4. Laurence M. Ball (2014). Long-term damage from the Great Ression in OECD countries. NBER.
5. Olivier Blanchard (2014). Where danger lurks. Finance & Development, September 2014, Vol 52, No 3.
6. Valerie Cerra et al. (2018). The Economic Scars of Crises and Recessions. https://www.imf.org/en/Blogs/Articles/2018/03/21/the-economic-scars-of-crises-and-recessions, truy cập ngày 15/12/2022.
 
 
Nhật Trung
Đại học Hòa Bình
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
17/03/2023 717 lượt xem
Công nghệ tài chính (Fintech) đã và đang trở thành một xu hướng tất yếu trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua với sự tác động mạnh mẽ trên mọi khía cạnh của nền kinh tế. Đứng trước những biến đổi này, ngành Ngân hàng cũng không thể đứng ngoài cuộc đua công nghệ.
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
10/03/2023 1.075 lượt xem
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm từ các cơ quan quản lí và các ngân hàng thương mại (NHTM). Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã công bố bản sửa đổi gần nhất vào năm 2016 so với bản trước đó (năm 2004), dẫn đến sự điều chỉnh và thay đổi từ phía các NHTM trên thế giới.
Kinh tế tại châu Á: Giảm bớt những “cơn gió ngược”, mở đường cho sự phục hồi mạnh mẽ hơn
Kinh tế tại châu Á: Giảm bớt những “cơn gió ngược”, mở đường cho sự phục hồi mạnh mẽ hơn
02/03/2023 1.297 lượt xem
Có thể thấy, triển vọng kinh tế khu vực châu Á đã sáng sủa hơn mặc dù vẫn còn những thách thức lớn trong dài hạn, kể cả đối với kinh tế Trung Quốc - nền kinh tế lớn nhất khu vực.
Ngân hàng trung ương và rủi ro an ninh mạng
Ngân hàng trung ương và rủi ro an ninh mạng
15/02/2023 1.687 lượt xem
Theo khảo sát của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), ước tính của các ngân hàng trung ương (NHTW) về tổn thất tiềm năng từ các cuộc tấn công mạng vào hệ thống tài chính có thể lên tới 5% GDP. Sự cần thiết phải đối phó với những rủi ro ngày càng tăng của các mối đe dọa an ninh mạng đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể ngân sách của các NHTW dành cho công nghệ thông tin (CNTT).
Việt Nam trong hành trình hướng tới các mục tiêu  phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Thỏa thuận Paris  và đáp ứng các nhu cầu phát triển bền vững cấp thiết
Việt Nam trong hành trình hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Thỏa thuận Paris và đáp ứng các nhu cầu phát triển bền vững cấp thiết
25/01/2023 2.599 lượt xem
Cùng với sự phát triển của xã hội, thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức và phát triển bền vững ngày càng trở thành một chủ đề lớn, thu hút sự quan tâm của tất cả các quốc gia. Chúng ta đang sống và phát triển trên một hành tinh hữu hạn, do đó, chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về cách quản lý tài nguyên của Trái đất để đáp ứng những nguyện vọng của xã hội và thực trạng dân số đang tăng lên từng ngày, đồng thời đảm bảo rằng các thế hệ hiện tại và tương lai có cơ hội có được chất lượng cuộc sống tốt, khỏe mạnh và phát triển thịnh vượng.
Kinh tế khu vực châu Âu trước nguy cơ rơi vào suy thoái
Kinh tế khu vực châu Âu trước nguy cơ rơi vào suy thoái
06/01/2023 2.806 lượt xem
Năm 2022, tình hình kinh tế - xã hội của khu vực châu Âu đối mặt với hàng loạt khó khăn, thách thức; nguy cơ khủng hoảng kinh tế ngày một rõ nét.
Kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro hiện hữu
Kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro hiện hữu
29/12/2022 3.187 lượt xem
Bức tranh kinh tế thế giới năm 2022 phân chia thành hai nửa rõ rệt: 6 tháng đầu năm và 6 tháng cuối năm 2022. Bước vào đầu năm 2022, kinh tế toàn cầu phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ sau một năm suy thoái vì đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, kể từ giữa năm 2022, khi xung đột Nga - Ukraine gia tăng, kết hợp chính sách “Zero Covid” của Trung Quốc làm chậm lại đà phục hồi kinh tế toàn cầu, gia tăng tình trạng gián đoạn nguồn cung và đẩy giá hàng hóa thế giới tăng mạnh.
Năm 2022: Một năm đầy khó khăn của thị trường tài chính toàn cầu
Năm 2022: Một năm đầy khó khăn của thị trường tài chính toàn cầu
28/12/2022 2.696 lượt xem
Sau một năm ảnh hưởng bởi sự tàn phá nặng nề của đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi. Động lực cơ bản thúc đẩy quá trình phục hồi nhanh chóng này là chính sách hỗ trợ khổng lồ, cả về tài chính và tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ này cũng là yếu tố gây lạm phát cao. Ban đầu, lạm phát chỉ tăng đối với một số ít mặt hàng hóa, nhưng đầu năm 2022, đà tăng giá cả dịch vụ có dấu hiệu kéo dài và đã vượt mức giá trước đại dịch tại nhiều khu vực trên thế giới.
Phương thức thanh toán quốc tế BPO - Góc nhìn công nghệ số
Phương thức thanh toán quốc tế BPO - Góc nhìn công nghệ số
12/12/2022 3.479 lượt xem
Sự ra đời của phương thức BPO (Bank Payment Obligations - Nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng) là sáng kiến nhằm cung cấp một công cụ thanh toán mới hỗ trợ hoạt động thương mại toàn cầu để thích ứng với sự phát triển của thời đại số.
Vận đơn đường biển điện tử - điều kiện áp dụng tại Việt Nam
Vận đơn đường biển điện tử - điều kiện áp dụng tại Việt Nam
08/12/2022 3.496 lượt xem
Đại dịch Covid-19 xảy ra gây tác động không nhỏ đến mọi mặt của nền kinh tế thế giới, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu, Logistics bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Để ngăn chặn dịch bệnh lây lan, nhiều quốc gia đưa ra chính sách giãn cách xã hội kéo dài, dẫn đến việc chuyển giao vận đơn đường biển trở nên khó khăn, tốn kém, mất nhiều thời gian.
Mô hình ngân hàng số: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
Mô hình ngân hàng số: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
07/12/2022 3.386 lượt xem
Trong bối cảnh kỷ nguyên số với hành vi khách hàng thay đổi nhanh chóng, nhiều đột phá công nghệ và mô hình kinh doanh mới, các ngân hàng, tổ chức tài chính ở vị thế bắt buộc phải chuyển đổi số bằng công nghệ, dữ liệu và mô hình kinh doanh sáng tạo để thích ứng, vượt lên thách thức của kỷ nguyên số.
Mục tiêu lạm phát tối ưu: Ý kiến ​​của 600 nhà kinh tế
Mục tiêu lạm phát tối ưu: Ý kiến ​​của 600 nhà kinh tế
16/11/2022 3.747 lượt xem
Trong một cuộc khảo sát với hơn 600 nhà kinh tế, hầu hết những người được hỏi muốn Ngân hàng Trung ương (NHTW) của họ có một mục tiêu lạm phát rõ ràng. Gần một nửa đáp viên muốn NHTW giữ mục tiêu hiện tại. Hai phần ba số còn lại muốn tăng mục tiêu, với mức tăng bình quân một điểm phần trăm.
Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng của Việt Nam
Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng của Việt Nam
14/11/2022 5.701 lượt xem
Nông nghiệp hữu cơ với việc không sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất đã đảm bảo được sự an toàn của các sản phẩm nông nghiệp với sức khỏe con người, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái tự nhiên. Vì vậy, nông nghiệp hữu cơ được coi là giải pháp quan trọng để phát triển bền vững, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.
Truyền thông chính sách của các ngân hàng trung ương trong thời kỳ lạm phát cao
Truyền thông chính sách của các ngân hàng trung ương trong thời kỳ lạm phát cao
11/11/2022 3.504 lượt xem
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương (NHTW) với công chúng có thể là phương thức hiệu quả để giảm kỳ vọng lạm phát trong thời kỳ lạm phát tăng đột biến. Đồng thời, việc giải thích dự báo của các chuyên gia NHTW ảnh hưởng đến kỳ vọng nhiều hơn là chỉ cung cấp các số liệu dự báo.
Kinh nghiệm thu hút lao động chất lượng cao của Trung Quốc - Bài học tham khảo đối với Việt Nam
Kinh nghiệm thu hút lao động chất lượng cao của Trung Quốc - Bài học tham khảo đối với Việt Nam
04/11/2022 3.895 lượt xem
Trung Quốc và Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (2008) và đã đạt được những kết quả ấn tượng trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại và đầu tư, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.450

67.170

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.450

67.150

Vàng SJC 5c

66.450

67.170

Vàng nhẫn 9999

54.950

55.950

Vàng nữ trang 9999

54.850

55.550


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.280 23.650 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.335 23.635 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.290 23.650 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.310 23.670 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.250 23.630 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.800 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.280 23.785 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.315 23.660 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.310 23.910 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.350 23.680 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,00
5,10
5,10
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,40
5,50
5,60
7,40
7,50
7,70
7,90
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,30
7,30
7,30
7,30
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,30
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?