Những tác động tiêu cực của suy thoái sâu
24/02/2023 11.926 lượt xem
Một phân tích về hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở 24 quốc gia trong hơn 50 năm qua đã chỉ ra rằng, việc các nền kinh tế quay trở lại mức tăng trưởng trước đó sau suy thoái là khó dự đoán, vì còn phụ thuộc vào độ sâu của suy thoái. Những tác động tiêu cực của suy thoái nghiêm trọng mang tính dai dẳng và lâu dài.

Triển vọng kinh tế ngắn hạn đối với thế giới là khá ảm đạm

Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), trong bối cảnh lạm phát cao nhất trong nhiều thập kỉ, khủng hoảng năng lượng, đại dịch Covid-19 kéo dài và xung đột quân sự ở Ukraine, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm gần một nửa trong năm 2023 so với mức 6% của năm 2022 và tốc độ giảm thậm chí mạnh hơn đến mức trì trệ 2,7% vào năm 2023. Liệu các nền kinh tế lớn có tránh được suy thoái trong bối cảnh bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát - là câu hỏi luôn được đưa ra trong các cuộc thảo luận. Trong khi đó, việc các nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng trong tương lai là điều không gây bàn cãi.

Tuy nhiên, trong thực tế, điều này không phải lúc nào cũng đúng. Chẳng hạn, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP ở nhiều nước phát triển vẫn thấp hơn đáng kể so với xu hướng trước khủng hoảng trong một thời gian dài. Năm 2015, 23 quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) mất bình quân 8,4% sản lượng tiềm năng, tương đương 4,3 nghìn tỉ USD - tổn thất về sản lượng tiềm năng có sự khác biệt giữa các nước, dao động từ gần như bằng 0 ở Thụy Sĩ và Úc đến hơn 30% ở Hy Lạp, Hungary và Ireland (Laurence B. Ball, 2014). Có hai kết luận có thể rút ra từ dữ liệu trên: (i) Ở hầu hết các quốc gia, tổn thất sản lượng tiềm năng lớn gần bằng mức thiếu hụt sản lượng thực tế so với xu hướng trước khủng hoảng. Điều này ngụ ý rằng hiệu ứng trễ đã rất mạnh trong cuộc Đại suy thoái 2008 - 2009; (ii) Tại các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi suy thoái, tốc độ tăng trưởng của sản lượng tiềm năng ngày nay thấp hơn đáng kể so với trước năm 2008. Tốc độ tăng trưởng chậm lại này có nghĩa là mức sản lượng tiềm năng có thể sẽ còn giảm sâu hơn nữa so với xu hướng trước khủng hoảng trong những năm tới.

Ngay cả những tác động ngắn hạn cũng có thể có hậu quả lâu dài - khủng hoảng có thể để lại "vết sẹo" cho nền kinh tế, đó là lí do tại sao khả năng phục hồi hoàn toàn là khó xảy ra.

Tuy nhiên, làm thế nào để xác định được liệu một cuộc khủng hoảng cụ thể có để lại “vết sẹo” hay không? Để trả lời câu hỏi này, nhóm tác giả bao gồm David Aikman, Giáo sư tài chính tại Trường Kinh doanh Hoàng gia London; Mikael Juselius, cố vấn nghiên cứu tại Ngân hàng Phần Lan; Matthias Dremann, nhà nghiên cứu tại Ngân hàng Thanh toán quốc tế và Xiaochuan Xing từ Đại học Yale đã thực hiện nghiên cứu các hiệu ứng đối với tăng trưởng từ các đợt suy giảm sâu. Nhóm tác giả kết luận rằng, thông thường, chỉ suy thoái sâu mới có tác động kìm hãm tăng trưởng dài hạn, trong khi những hiệu ứng của việc hạ cánh mềm có thể được các nền kinh tế xử lí tương đối nhanh chóng mà không ảnh hưởng đến quỹ đạo tăng trưởng (David Aikman et al., 2022).

 


Tích lũy vốn trong quá trình mở rộng kinh tế có thể có tác động tích cực dài hạn đến tăng trưởng GDP (Ảnh internet)

Khủng hoảng đặc biệt nguy hiểm

Sau khi nghiên cứu các cuộc khủng hoảng trong vòng 50 năm kể từ năm 1970 tại 24 quốc gia (19 nước phát triển và 5 nước đang phát triển); so sánh quỹ đạo dự báo tăng trưởng trước khủng hoảng của các nền kinh tế này trong 10 năm tới với quỹ đạo thực tế sau khủng hoảng, Aikman và các cộng sự nhận thấy, trong hầu hết các trường hợp, nền kinh tế nhanh chóng quay trở lại tốc độ tăng trưởng dài hạn trước khủng hoảng.

Các cuộc khủng hoảng có ảnh hưởng đến động lực của GDP 10 năm sau đó chiếm tỉ trọng khoảng 20% trong mẫu nghiên cứu. Những “vết sẹo” tăng tỉ lệ thuận với độ sâu của suy thoái. Những "vết sẹo" sâu nhất vẫn còn sau những cuộc suy thoái sâu nhất, trung bình khoảng 5%: Sau các đợt suy thoái sâu, tăng trưởng kinh tế trong 10 năm sau đó ở mức 4,25 điểm phần trăm, thấp hơn so với khi chưa diễn ra khủng hoảng. Với mức giảm nhỏ hơn 3 - 4 lần, GDP thực trong thập kỉ sau đó đã chậm lại trung bình 1,05 điểm phần trăm (David Aikman et al., 2022).

Các cuộc suy thoái ít sâu hơn, nghĩa là, 80% còn lại trong mẫu nghiên cứu thường không gây ra hậu quả lâu dài. Sau “điểm tới hạn”, độ sâu của suy thoái để lại “vết sẹo”, có sự khác biệt tùy thuộc vào phương pháp đánh giá; tuy nhiên, kết luận chỉ ra một cuộc suy thoái tương đối mạnh mới gây ra tác động tiêu cực lâu dài đã được xác nhận bằng bất kì phương pháp tính toán, cho bất kì quốc gia và bất kì thời kì nào.

Để tìm hiểu xem liệu tất cả các cuộc suy thoái sâu hay chỉ một trong số chúng có thể gây ra các tổn thất dài hạn hay không, nghiên cứu tập trung vào một mẫu khảo sát gồm 198 cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất (từ 5% trở lên), sau khi xác định nguyên nhân của chúng. Hầu hết các cuộc suy thoái này đều do một trong ba nguyên nhân: 100 trường hợp - khủng hoảng tài chính ngân hàng; 19 trường hợp - cú sốc dầu mỏ đầu những năm 1970; 51 trường hợp - thắt chặt tiền tệ.

 Các tính toán đã chỉ ra rằng, một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong 10 năm tới, trung bình 5,6 điểm phần trăm, tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ có cường độ yếu gần gấp đôi. Các cuộc khủng hoảng dầu mỏ để lại những "vết sẹo" sâu sắc nhất - chúng làm chậm tốc độ tăng trưởng nền kinh tế trong dài hạn gấp 1,5 lần so với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất. Nhưng nói chung, nguyên nhân cụ thể của suy thoái kinh tế không có ý nghĩa đối với việc, liệu nó có “đánh bật” nền kinh tế khỏi quỹ đạo tăng trưởng trước đó hay không.


Hậu quả của các cuộc khủng hoảng

Các cuộc suy thoái gây ra bởi những cú sốc bên ngoài cũng như những sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô và khủng hoảng chính trị có thể dẫn đến tổn thất dài hạn cho nền kinh tế là một trong những gợi ý đầu tiên vào những năm 2000 của các nhà kinh tế IMF Valerie Serra và Sveta Chaman Saxena. Theo tính toán của họ, dựa trên dữ liệu từ 190 quốc gia kể từ năm 1960, khủng hoảng cán cân thanh toán dẫn đến tổn thất dài hạn trung bình khoảng 5 điểm phần trăm tăng trưởng, khủng hoảng ngân hàng khoảng 10 điểm phần trăm tăng trưởng và nếu nó đi kèm với khủng hoảng tiền tệ, thì tổng thiệt hại dài hạn có thể lên tới 15 điểm phần trăm (Valerie Cerra et al.,2018).
 
  
Các nghiên cứu kinh tế đã phân tích một số cơ chế gây nên những “vết sẹo” sau khủng hoảng trên “cơ thể” nền kinh tế. Những "vết sẹo" này có thể do trong thời kì suy thoái, các hoạt động đổi mới mang lại ít lợi nhuận hơn và doanh nghiệp giảm đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), làm "đóng băng" sự phát triển của công nghệ trong một thời gian dài; xói mòn nguồn nhân lực do thất nghiệp kéo dài; thay đổi hành vi kinh tế và niềm tin của người dân; cú sốc cầu kìm hãm tăng trưởng sản lượng; sự suy giảm năng suất trong dài hạn do sự phá sản của các công ty có năng suất lao động cao và quá trình “zombification” nền kinh tế¹; làm suy yếu động lực theo đuổi các cải cách dài hạn của chính phủ. Ở giai đoạn này, quá trình phi toàn cầu hóa và phân mảnh nền kinh tế thế giới do đại dịch Covid-19 và xung đột quân sự kích hoạt, có thể trở thành một xúc tác bổ sung.

Nhưng nếu suy thoái mạnh có tác động tiêu cực trong dài hạn, thì các giai đoạn tăng trưởng nhanh có thể có tác động dài hạn tương tự, nhưng liệu có tích cực hay không? Khả năng này xuất phát từ lí thuyết tăng trưởng nội sinh, theo đó, tích lũy vốn trong quá trình mở rộng kinh tế có thể có tác động tích cực dài hạn đến động lực GDP do lợi nhuận không thể giảm theo quy mô. Tuy nhiên, các tính toán cho thấy rằng, ngay cả tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trên thực tế cũng không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tiếp theo trong khoảng thời gian 10 năm (sau một thời gian mở rộng, chúng sẽ tiệm cận gần mức trung bình được quan sát trước khi tăng tốc).

Do đó, các tác động dài hạn là phi tuyến tính và bất đối xứng. Trong khi suy thoái kinh tế mạnh ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, thì suy thoái nông không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Các tác giả cho biết, kết quả của nghiên cứu mang ý nghĩa tức thời đối với các nhà hoạch định chính sách. Điều đầu tiên và quan trọng nhất là những cú sốc kinh tế mạnh có thể làm chậm tốc độ tăng trưởng GDP trong nhiều năm, vì vậy, nỗ lực chính của những người ra quyết định trong lĩnh vực chính sách tiền tệ, tài khóa, điều tiết vĩ mô cần tập trung vào việc ngăn chặn các đợt suy thoái kinh tế sâu. Thứ hai, nếu một cuộc suy thoái nghiêm trọng đã xảy ra thì không nên kì vọng rằng nền kinh tế sẽ sớm trở lại xu hướng trước khủng hoảng. Một ảo tưởng như vậy có thể dẫn đến việc đánh giá sai lầm chênh lệch sản lượng - chỉ số cho thấy mức độ tiệm cận sản lượng hiện tại với mức sản lượng tiềm năng dài hạn và mức chênh lệch sản lượng mà ngân hàng trung ương tính đến trong chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn cảnh báo, những cuộc suy thoái sâu kéo theo thời gian dài tăng trưởng thấp có thể gây khó khăn cho việc duy trì mức nợ bền vững - cho cả cá nhân và nhà nước.

 Năm 2014, Olivier Blanchard, nguyên Cố vấn kinh tế và Trưởng bộ phận nghiên cứu của IMF, khi suy ngẫm về những bài học của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã nhấn mạnh bài học chủ yếu cho chính sách rất đơn giản: “Hãy tránh xa những góc tối” - những tình huống, trong đó, nền kinh tế có thể gặp trục trặc nghiêm trọng. Với một số biến động lớn đã xảy ra trong những năm gần đây, câu hỏi quan trọng hiện nay là liệu các nhà hoạch định chính sách có các công cụ để tránh hiện thực hóa những góc tối như vậy hay không? Aikman và cộng sự lập luận rằng: Có thể tác động của cuộc khủng hoảng hiện tại bị hạn chế, nhưng cũng có thể, ví dụ, sự gián đoạn nguồn cung sẽ trở nên tồi tệ hơn hoặc đại dịch sẽ bùng phát trở lại. “Nhưng điều rõ ràng là việc tập trung vào các mô hình kinh tế vĩ mô chuẩn với giả định rằng nền kinh tế chắc chắn sẽ phục hồi theo xu hướng trước đó sau một cú sốc, có thể gây hiểu nhầm, đặc biệt là vào những thời điểm rủi ro cao”.


¹The zombification of the economy đề cập đến tình huống, trong đó, các chương trình hỗ trợ của chính phủ và hoạt động cho vay của ngân hàng khiến các doanh nghiệp không thể sống sót vẫn tồn tại trên thị trường (doanh nghiệp zombie).

Tài liệu tham khảo

1. David Aikman et al. (2022). The scarring effects of deep contractions. Bank of Finland Research Discussion Papers. 12.2022.
2. Đại dịch doanh nghiệp zombie lan tràn khắp thế giới. https://cafebiz.vn/dai-dich-doanh-nghiep-zombie-lan-tran-khap-the-gioi176221121090824981.chn
3. Glenn Schepens et al (2020). Zombification in Europe in times of pandemic. https://cepr.org/voxeu/columns/zombification-europe-times-pandemic
4. Laurence M. Ball (2014). Long-term damage from the Great Ression in OECD countries. NBER.
5. Olivier Blanchard (2014). Where danger lurks. Finance & Development, September 2014, Vol 52, No 3.
6. Valerie Cerra et al. (2018). The Economic Scars of Crises and Recessions. https://www.imf.org/en/Blogs/Articles/2018/03/21/the-economic-scars-of-crises-and-recessions, truy cập ngày 15/12/2022.
 
 
Nhật Trung
Đại học Hòa Bình
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hạn chế của Basel II, sáng kiến khắc phục hướng đến Basel III của BIS và hàm ý cho Việt Nam
Hạn chế của Basel II, sáng kiến khắc phục hướng đến Basel III của BIS và hàm ý cho Việt Nam
25/09/2023 615 lượt xem
Hiệp ước Basel II đã và đang được các ngân hàng thương mại (NHTM) áp dụng rộng rãi như một chiến lược nhằm mục đích nâng cao chất lượng quản trị rủi ro, đảm bảo sự ổn định tài chính của ngân hàng. Mặc dù vậy, cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng giai đoạn 2008 - 2009 với sự sụp đổ của nhiều định chế tài chính lớn như Ngân hàng Đầu tư Bear Stearns, các ngân hàng Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers đã cho thấy những điểm yếu của Basel II như mức vốn cấp 1 (Tier 1) tối thiểu 4% và tỉ lệ an toàn vốn không đủ bù đắp các khoản lỗ lớn; một số kĩ thuật sử dụng kế toán sáng tạo có thể che đậy rủi ro tín dụng; suy thoái kinh tế có thể dẫn đến áp lực bán tháo làm tăng tính thuận chu kì của hệ thống; sử dụng một số sản phẩm tài chính phức tạp như công cụ phái sinh, bảo lãnh như một phần của việc giảm rủi ro tín dụng…
Xu hướng tăng trưởng kinh tế của khu vực châu Á
Xu hướng tăng trưởng kinh tế của khu vực châu Á
21/09/2023 866 lượt xem
Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi rất nhiều yếu tố làm suy giảm đà phục hồi, nền kinh tế các nước tại khu vực châu Á cũng nằm trong xu hướng đó và được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại với các động lực tăng trưởng yếu, áp lực lạm phát ở mức vừa phải.
Khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ: Nguyên nhân và tác động
Khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ: Nguyên nhân và tác động
20/09/2023 1.121 lượt xem
Căng thẳng ngân hàng tại Mỹ bắt đầu xảy ra vào tháng 3/2023, khi Ngân hàng Silicon Valley (SVB) sụp đổ, sau đó lan truyền sang một số ngân hàng khác, làm dấy lên lo ngại về tính ổn định trong khu vực tài chính. Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, biện pháp xử lí của cơ quan quản lí, tác động của nó cũng như bài học kinh nghiệm rút ra là hết sức cần thiết.
Chi ngân sách nhà nước cho tăng trưởng xanh tại các quốc gia trên thế giới
Chi ngân sách nhà nước cho tăng trưởng xanh tại các quốc gia trên thế giới
04/09/2023 2.398 lượt xem
Các quốc gia hiện nay ngoài mục tiêu phát triển kinh tế thì đã từng bước chú trọng bảo vệ môi trường. Theo đó, các chính sách đã được ban hành, trong đó có chính sách chi ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, con người, bảo tồn hệ sinh thái và các khoản chi khác nhằm chuyển dịch nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh.
Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng tại các quốc gia châu Âu và một số vấn đề đặt ra
Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng tại các quốc gia châu Âu và một số vấn đề đặt ra
16/08/2023 3.623 lượt xem
Ngành Ngân hàng đã trải qua một sự chuyển đổi đáng kể trong những năm gần đây, được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ và nhu cầu ngày càng tăng đối với các dịch vụ tiện lợi và được cá nhân hóa. Sự xuất hiện của dữ liệu lớn và các công cụ phân tích tiên tiến đã mở ra những cơ hội mới cho các ngân hàng để cải thiện trải nghiệm của khách hàng, giảm chi phí và thúc đẩy tăng trưởng.
Các nguyên tắc ngân hàng bền vững - Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với  Việt Nam
Các nguyên tắc ngân hàng bền vững - Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam
04/08/2023 4.836 lượt xem
Phát triển bền vững là một khái niệm mới và đang dần trở thành mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới. Để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), nguồn lực tài chính là yếu tố đặc biệt quan trọng. Theo đó, ngân hàng bền vững đã, đang và sẽ trở thành một triết lí nền tảng của các ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng không chỉ mang lại lợi nhuận cho nhân viên và các cổ đông của ngân hàng mà còn mang lại lợi nhuận cho khách hàng.
Dự thảo Luật Ổn định tài chính và một số cải cách pháp lí của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc - Hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Dự thảo Luật Ổn định tài chính và một số cải cách pháp lí của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc - Hàm ý chính sách đối với Việt Nam
20/07/2023 5.460 lượt xem
Tháng 4/2022, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã dự thảo Luật Ổn định tài chính (Luật ODTC) và hiện đang lấy ý kiến sâu rộng trong nhân dân để chính thức ban hành luật. Nếu được thông qua (dự kiến vào cuối quý III/2023), Luật ODTC của Trung Quốc sẽ là cơ sở pháp lí đầu tiên điều chỉnh cụ thể việc phòng ngừa, giải quyết và xử lí rủi ro hệ thống; đối tượng điều chỉnh là các ngân hàng, công ty chứng khoán, bảo hiểm và công ty tài chính. Chúng ta cùng nhìn lại lịch sử, một số diễn biến quan trọng và nguyên nhân khiến Trung Quốc “mạnh tay” cải cách pháp lí đối với hệ thống tài chính.
Dữ liệu mới phục vụ điều hành chính sách tiền tệ: Thực tiễn các quốc gia  châu Á và bài học kinh nghiệm
Dữ liệu mới phục vụ điều hành chính sách tiền tệ: Thực tiễn các quốc gia châu Á và bài học kinh nghiệm
13/07/2023 5.902 lượt xem
Sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông trong thời gian qua đã tạo ra sự bùng nổ về lượng thông tin được thu thập, dẫn đến kỉ nguyên mới của dữ liệu.
Phát triển ngân hàng di động hướng tới mục tiêu tài chính toàn diện
Phát triển ngân hàng di động hướng tới mục tiêu tài chính toàn diện
08/06/2023 9.277 lượt xem
Công nghệ ngân hàng di động (Mobile Banking) đã và đang được các ngân hàng thương mại áp dụng rộng rãi như một chiến lược mở rộng thị phần mà không cần đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng. Nó là một công cụ hữu ích cho các khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng bởi tính tiện lợi, chất lượng dịch vụ tốt, nhanh chóng, không phụ thuộc vào yếu tố thời gian và mức độ bao phủ lớn, đáp ứng mục tiêu tài chính toàn diện.
Kinh nghiệm quốc tế về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi hỗ trợ tài chính đối với quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt
Kinh nghiệm quốc tế về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi hỗ trợ tài chính đối với quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt
15/05/2023 10.485 lượt xem
Theo tài liệu “Các vấn đề xử lí tổ chức tín dụng hợp tác - Tổng quan về các đặc điểm và công cụ xử lí” (Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế - IADI, 2018), các tổ chức tài chính nhận tiền gửi như hiệp hội tín dụng, các ngân hàng hợp tác hoặc tương hỗ hay quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) được gọi chung là tổ chức tín dụng (TCTD) hợp tác, là một thành viên quan trọng trong hệ thống tài chính của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Nhìn chung, các TCTD hợp tác có những đặc điểm khác biệt với ngân hàng.
Điều tra thị trường cho hoạch định chính sách tại ngân hàng trung ương
Điều tra thị trường cho hoạch định chính sách tại ngân hàng trung ương
19/04/2023 11.236 lượt xem
Điều tra thị trường (Market Intelligence - MI) là một công cụ đắc lực được các ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới tiến hành để bổ sung, hoàn thiện cho công tác thống kê truyền thống. Với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường tài chính quốc tế, vai trò của hoạt động này ngày càng được coi trọng và tại nhiều quốc gia, hoạt động điều tra thị trường được tổ chức một cách bài bản với cơ cấu nhân sự độc lập.
Sự sụp đổ của Ngân hàng Silicon Valley - Những vấn đề đặt ra
Sự sụp đổ của Ngân hàng Silicon Valley - Những vấn đề đặt ra
18/04/2023 14.370 lượt xem
Chỉ vài ngày trước khi phá sản, Silicon Valley Bank (SVB) vẫn được xem là một tổ chức tài chính uy tín trong giới công nghệ khi cung cấp dịch vụ cho hàng nghìn startup tại Mỹ. Tuy nhiên, chỉ trong hơn 48 giờ, ngân hàng 40 tuổi này bất ngờ sụp đổ. Sự sụp đổ quá nhanh và bất ngờ của SVB là “thảm kịch” ngân hàng lớn nhất ở Mỹ kể từ khi ngân hàng Washington Mutual tan rã vào năm 2008.
Ứng phó của ngân hàng trung ương các nước trước rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu: Bài học đối với Việt Nam
Ứng phó của ngân hàng trung ương các nước trước rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu: Bài học đối với Việt Nam
03/04/2023 11.936 lượt xem
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt và các rủi ro do biến đổi khí hậu đối với hệ thống tài chính - ngân hàng ngày càng lớn, chủ đề giám sát rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và ngân hàng trung ương (NHTW) các nước.
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
17/03/2023 10.402 lượt xem
Công nghệ tài chính (Fintech) đã và đang trở thành một xu hướng tất yếu trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua với sự tác động mạnh mẽ trên mọi khía cạnh của nền kinh tế. Đứng trước những biến đổi này, ngành Ngân hàng cũng không thể đứng ngoài cuộc đua công nghệ.
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
10/03/2023 11.736 lượt xem
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm từ các cơ quan quản lí và các ngân hàng thương mại (NHTM). Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã công bố bản sửa đổi gần nhất vào năm 2016 so với bản trước đó (năm 2004), dẫn đến sự điều chỉnh và thay đổi từ phía các NHTM trên thế giới.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?