Nhìn lại thành công trong kiểm soát lạm phát của Việt Nam năm 2023 và triển vọng lạm phát năm 2024
10/01/2024 38.154 lượt xem
1. Thành công trong kiểm soát lạm phát năm thứ 12 liên tiếp 
 
Năm 2023, lạm phát bình quân của Việt Nam tăng 3,25%, đạt mục tiêu do Quốc hội đề ra là kiểm soát lạm phát ở mức 4,5%. Đây là năm thứ 12 liên tiếp Việt Nam duy trì được mức lạm phát một con số kể từ sau khi lạm phát tăng cao năm 2011, góp phần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế bền vững, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài vào đồng nội tệ và môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Thành công trong kiểm soát lạm phát là kết quả của sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ (CSTT), chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, giữa các bộ, ngành quản lí kinh tế ở Trung ương và các địa phương trong công tác quản lí, điều hành giá, đảm bảo cân đối cung, cầu và lưu thông các mặt hàng trên thị trường và sự phản ứng chủ động, linh hoạt, kịp thời của các cơ quan chức năng trước những diễn biến mới từ thị trường quốc tế và nội địa. 
 
Nếu nhìn sâu vào bức tranh về lạm phát của Việt Nam năm 2023, chúng ta sẽ bắt gặp những câu chuyện nhiều màu sắc về sự vận động của nền kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới, trong đó, có cả những câu chuyện tích cực nhưng cũng có những hạn chế, khó khăn đan xen. Một số những diễn biến nổi bật trong kết quả kiểm soát lạm phát năm 2023 có thể kể đến như sau: 
 
(i) Giá năng lượng trong nước (xăng dầu, gas) quay đầu giảm theo giá thế giới, hỗ trợ kiểm soát lạm phát: Nếu như năm 2022, sự tăng giá của giá xăng dầu và giá gas trong nước xuất phát từ việc giá dầu và giá gas thế giới tăng cao trong bối cảnh xung đột địa chính trị và vấn đề đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu là nhân tố đóng góp lớn nhất vào mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2022 (giá xăng dầu và giá gas trong nước bình quân năm 2022 tăng lần lượt 28,01% và 11,49%, làm CPI chung tăng 1,01 và 0,17 điểm phần trăm) thì câu chuyện của năm 2023 lại hoàn toàn ngược lại. Năm 2023, xăng dầu và gas lại là một trong số ít những nhóm hàng có xu hướng giảm giá do giá thế giới điều chỉnh giảm, hỗ trợ kiểm soát lạm phát (chỉ số giá nhóm xăng dầu trong nước giảm 11,02%, giá dầu hỏa giảm 10,02% so với năm 2022, làm CPI chung giảm 0,4 điểm phần trăm và chỉ số giá nhóm gas giảm 6,94% so với năm 2022, làm CPI chung giảm 0,1 điểm phần trăm). 
 
(ii) Giá lương thực, thực phẩm trong nước được kiểm soát tốt nhờ nguồn cung dồi dào: Trong khi nhiều quốc gia trên thế giới vẫn đang vật lộn với tình hình giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao (châu Âu tăng 7,5%, Pháp tăng 7,8%, Đức tăng 6,36%, Nhật tăng 8,6%, Hàn Quốc tăng 6,5%, Ấn Độ tăng 6,6%) do nhiều nguyên nhân, ở Việt Nam, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống lại có mức tăng thấp hơn nhiều, bình quân 3,44% (trong đó, thực phẩm tươi sống chỉ tăng 2,33%), hỗ trợ tích cực trong kết quả thành công kiểm soát lạm phát. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với đặc thù là trọng số của các nhóm hàng đáp ứng nhu cầu cơ bản như lương thực, thực phẩm trong rổ hàng hóa tiêu dùng sẽ ở mức cao và trong lịch sử, đã không ít thời điểm áp lực lạm phát tăng cao do những diễn biến bất lợi từ giá các mặt hàng này. Trong năm 2023, giá lương thực, thực phẩm trong nước duy trì khá ổn định do nguồn cung dồi dào dưới tác động tổng hợp của nhiều yếu tố như sức cầu trong nước không tăng đột biến, thời tiết tương đối thuận lợi, giá phân bón ít biến động, giá thức ăn chăn nuôi giảm, số lượng đàn gia súc gia cầm tăng, Việt Nam sản xuất được vắc-xin kiểm soát dịch tả lợn châu Phi… 
 
(iii) Sự phối hợp ngày càng nhịp nhàng, hiệu quả giữa các chính sách kinh tế vĩ mô: Những tháng đầu năm 2023 là thời điểm rất khó khăn trong quản lí, điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước khi áp lực lạm phát vẫn còn lớn (tháng 01/2023 lạm phát so với cùng kì tăng 4,89%, cao hơn so với mục tiêu cả năm) trong khi tăng trưởng kinh tế suy giảm đáng kể dưới tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, bám sát diễn biến thị trường, quyết liệt giảm 04 lần lãi suất điều hành, triển khai nhiều biện pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Song hành cùng CSTT theo hướng hỗ trợ thì CSTK cũng được triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm thông qua các chính sách gia hạn thời hạn nộp thuế, giảm lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước, giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT), giảm tiền thuê đất1, giúp doanh nghiệp, người dân giảm bớt khó khăn, tiết giảm chi phí, qua đó, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, các chính sách quản lí, điều hành giá được triển khai đồng bộ, chặt chẽ như sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu hiệu quả, linh hoạt nhằm hạn chế mức biến động mạnh của giá xăng dầu trong nước và giúp duy trì nguồn cung ổn định cho thị trường, tăng cường quản lí, kiểm soát chặt chẽ công tác niêm yết giá bán và bán đúng giá niêm yết, đấu tranh chống hành vi lợi dụng tình hình khan hiếm hàng hóa trên thị trường để đầu cơ, găm hàng hoặc lợi dụng dịch bệnh để định giá bán hàng hóa bất hợp lí, đặc biệt là đối với mặt hàng xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng, thực phẩm, trang thiết bị y tế… Việc sử dụng đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô nói trên đã bổ khuyết cho nhau, hướng tới đạt được “mục tiêu kép” khi qua từng quý tăng trưởng kinh tế dần được cải thiện trong khi không tạo ra áp lực lớn tới lạm phát, kết thúc bằng việc cán đích thành công mục tiêu lạm phát cả năm 2023. 
 
(iv) Kì vọng lạm phát được neo giữ vững: Theo kết quả từ Điều tra kì vọng lạm phát của các tổ chức tín dụng (TCTD) do NHNN thực hiện trong năm 2023, kì vọng lạm phát bình quân cả năm 2023 luôn được neo giữ vững chắc ở mức 3,4 - 4%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 4,5% kể cả trong những giai đoạn áp lực lạm phát tăng cao nhất. Kết quả này phản ánh niềm tin rất lớn của người dân vào năng lực quản lí kinh tế vĩ mô của Chính phủ và điều hành CSTT của NHNN. Đây là thành quả đáng ghi nhận của cả một quá trình liên tục 12 năm kiểm soát thành công lạm phát ở mức mục tiêu cũng như những nỗ lực hoàn thiện cơ chế điều hành CSTT và đẩy mạnh truyền thông của NHNN. Kì vọng lạm phát được neo giữ vững chắc sẽ cải thiện niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào sự ổn định của đồng nội tệ, giảm tình trạng đô la hóa nền kinh tế, hỗ trợ khơi thông nguồn lực chảy vào các khu vực sản xuất kinh doanh và tăng cường hiệu lực, hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô quốc gia. 
 
(v) Tỉ giá được điều hành linh hoạt, hỗ trợ kiểm soát lạm phát nhập khẩu: Đối với một quốc gia có độ mở thương mại lớn và hội nhập sâu, rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu như Việt Nam, tỉ giá tăng cao hay đồng nội tệ mất giá mạnh sẽ khiến giá hàng hóa nhập khẩu tăng cao, làm tăng chi phí sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế và tạo áp lực lạm phát nhập khẩu. Trong năm 2023, NHNN đã điều hành tỉ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong và ngoài nước, can thiệp linh hoạt nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần hấp thụ các cú sốc bên ngoài, triển khai các giải pháp hạn chế biến động lớn trong ngắn hạn của tỉ giá. Kết quả là năm 2023, VND mất giá khoảng 2,9% so với USD (đồng tiền chủ yếu sử dụng trong thương mại quốc tế), là mức phù hợp với xu hướng chung trên thế giới và trong khu vực, góp phần kiềm chế áp lực lạm phát nhập khẩu từ thế giới.
 
(vi) Lạm phát cơ bản vẫn có dấu hiệu dai dẳng: Dù lạm phát chung chứng kiến sự giảm tốc ngay từ đầu năm khi tốc độ tăng so với cùng kì liên tục chậm lại (tháng 01/2023: 4,89%; tháng 02/2023: 4,31%, tháng 6/2023: 2%) nhưng lạm phát cơ bản (lạm phát tổng thể loại trừ một số mặt hàng thực phẩm tươi sống, năng lượng, mặt hàng Nhà nước quản lí giá) lại chứng kiến xu hướng dai dẳng hơn khi duy trì mức tăng so với cùng kì liên tục trên 4% trong nửa đầu năm 2023 và chỉ giảm tốc khi chỉ số giá nhóm nhà ở thuê hạ nhiệt, cuối năm bình quân tăng 4,16%. Diễn biến của lạm phát cơ bản luôn là một trong những chỉ báo cực kì quan trọng đối với công tác điều hành CSTT vì nó bỏ qua những mặt hàng có thể biến động mạnh trong ngắn hạn do các yếu tố bất định nằm ngoài khả năng dự báo và tác động của CSTT (thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh…) mà tập trung vào sự tăng giá trên diện rộng, lâu dài của rổ hàng hóa tiêu dùng. Do đó, sự dai dẳng của lạm phát cơ bản cũng là một yếu tố cảnh báo về áp lực lạm phát trong trung hạn của nền kinh tế và cần phải theo dõi sát sao từ các nhà hoạch định chính sách để có phản ứng phù hợp. 
 
Trong bối cảnh nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới vẫn chứng kiến mức lạm phát cao thì Việt Nam năm thứ 12 liên tiếp hoàn thành mục tiêu kiểm soát lạm phát, có thể nói là một điểm sáng đáng tự hào. Việc kiểm soát thành công lạm phát đã đóng góp tích cực vào sự ổn định kinh tế vĩ mô nói chung, tăng niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào đồng nội tệ và kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Những thành công về ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi tăng trưởng và kiểm soát lạm phát trong năm 2023 là một yếu tố rất quan trọng để tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings nâng hạng tín nhiệm quốc gia cho Việt Nam từ BB lên BB+ (là quốc gia duy nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và là một trong số ít các quốc gia trên thế giới được nâng hạng tín nhiệm), qua đó, gia tăng sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Kinh tế vĩ mô ổn định và lạm phát được kiểm soát sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho phục hồi kinh tế bền vững và hiệu quả trong năm 2024. 
 
2. Triển vọng lạm phát năm 2024
 
Trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, tại Nghị quyết số 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, Quốc hội đã phê duyệt mục tiêu tốc độ tăng CPI bình quân 4 - 4,5%. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước tiềm ẩn nhiều diễn biến khó lường, việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024 sẽ chịu tác động đan xen thuận lợi và khó khăn. Một số thuận lợi có thể kể đến như: 
 
Một là, lạm phát thế giới tiếp tục xu hướng tăng chậm lại dưới tác động của CSTT thắt chặt trong thời gian qua, hỗ trợ làm giảm giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, giảm chi phí sản xuất và tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó, đồng USD dự kiến sẽ có xu hướng yếu đi so với các đồng tiền chủ chốt khác khi Cục Dữ trữ liên bang Mỹ (Fed) tiến hành cắt giảm lãi suất điều hành trong năm 2024 cũng làm giảm áp lực đối với tỉ giá trong nước, hỗ trợ kiềm chế lạm phát nhập khẩu. 
 
Hai là, lạm phát kì vọng trong nước được neo giữ vững chắc khi NHNN liên tiếp 12 năm thành công trong mục tiêu kiểm soát lạm phát. Theo kết quả từ cuộc Điều tra kì vọng lạm phát do NHNN thực hiện tháng 12/2023, kì vọng lạm phát bình quân năm 2024 của các TCTD và các chuyên gia kinh tế đạt 3,7%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 4 - 4,5%. Lạm phát kì vọng được neo vững chắc sẽ ổn định tâm lí người dân, doanh nghiệp, tránh những phản ứng quá mức khi có biến động bất thường xảy ra, hỗ trợ ổn định mặt bằng giá cả trong nước.  
 
Ba là, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện một số giải pháp điều hành, quản lí giá phù hợp với diễn biến thị trường và mục tiêu kiểm soát lạm phát. Các chính sách như sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, hỗ trợ giảm thuế môi trường đối với xăng dầu, giảm VAT 2% trong nửa đầu năm 2024, thực hiện các giải pháp bình ổn giá, đảm bảo nguồn cung hàng hóa trong các dịp lễ, tết cũng giúp giảm bớt áp lực lạm phát trong năm 2024. 
 
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024 cũng còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đan xen từ cả thị trường trong nước và quốc tế như: 
 
Thứ nhất, áp lực lạm phát cầu kéo từ trong nước khi kinh tế tiếp tục phục hồi. Với các tác động hỗ trợ từ các chính sách kinh tế vĩ mô, các chương trình hỗ trợ phục hồi, giải ngân đầu tư công của Chính phủ đã thực hiện trong năm 2023 và các giải pháp trong thời gian tới, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ phục hồi trong năm 2024, kéo theo nhu cầu tiêu dùng, đầu tư trong nền kinh tế tăng lên, gây sức ép từ tổng cầu của nền kinh tế tới giá cả hàng hóa trong nước.
 
Thứ hai, giá hàng hóa thế giới biến động khó lường, tiềm ẩn nhiều rủi ro làm tăng giá hàng hóa trong nước. Theo Ngân hàng Thế giới (tháng 11/2023), giá hàng hóa thế giới năm sau dự kiến giảm 4%, trong đó, cả giá năng lượng, giá kim loại và giá sản phẩm nông nghiệp đều giảm nhẹ do tăng trưởng kinh tế thế giới giảm tốc. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều những yếu tố bất định trên thế giới như chiến tranh, xung đột địa chính trị, chính sách cắt giảm nguồn cung dầu của OPEC, chính sách thắt chặt an ninh lương thực tại nhiều quốc gia, biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan... có thể tác động làm tăng mạnh trở lại giá năng lượng, lương thực và kim loại, qua đó gây áp lực tăng giá nguyên nhiên liệu trong nước.  
 
Thứ ba, giá các mặt hàng do Nhà nước quản lí tiếp tục được điều chỉnh tăng theo lộ trình. Giá dịch vụ giáo dục tăng do các địa phương tăng học phí theo lộ trình quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Giá dịch vụ y tế tăng theo hướng dẫn tại Thông tư số 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trong toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trong một số trường hợp. Bên cạnh đó, giá điện sinh hoạt có thể tiếp tục được điều chỉnh tăng khi nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, than đều đang ở mức cao. Tác động tăng của giá điện sinh hoạt không chỉ dừng ở tác động trực tiếp mà còn có thể tiếp tục tác động tới mặt bằng giá cả các hàng hóa khác thông qua tác động tới chi phí sản xuất. Việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lí là cần thiết, phù hợp với đặc thù của nền kinh tế thị trường hiện đại để phán ánh chính xác các mối quan hệ lợi ích - chi phí giữa các chủ thể kinh tế nhưng cũng sẽ phần nào làm tăng áp lực lạm phát trong năm 2024. 
 
Thứ tư, việc thực hiện cải cách tiền lương và tăng lương tối thiểu vùng từ ngày 01/7/2024 sẽ có tác động cải thiện thu nhập của người dân và hộ gia đình, làm tăng nhu cầu chi tiêu và tạo áp lực lạm phát cầu kéo trong nước. Ngoài ra, tác động từ tăng lương trong khu vực công cũng tạo tâm lí lan tỏa tới các khu vực khác trong nền kinh tế và cũng thúc đẩy quá trình điều chỉnh tăng giá các mặt hàng tiêu dùng khác nhanh hơn. 
 
Thứ năm, các yếu tố rủi ro bất ngờ, nằm ngoài tầm dự báo và khống chế như thiên tai, dịch bệnh, các hiện tượng thời tiết cực đoan (hạn hán, mưa đá, sương muối...) có thể ảnh hưởng đến nguồn cung và sự lưu thông hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng lương thực, thực phẩm tươi sống, có thể gây áp lực tới lạm phát trong nước tại một số thời điểm nhất định. 
 
Có thể thấy, việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024 đan xen cả thuận lợi và khó khăn. Nhiều tổ chức quốc tế vẫn tin tưởng vào khả năng Việt Nam sẽ tiếp tục thành công trong mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024. Quỹ Tiền tệ quốc tế (tháng 10/2023) dự báo lạm phát Việt Nam 3,43%, Ngân hàng Thế giới (tháng 8/2023) dự báo 3%, Ngân hàng Phát triển châu Á (tháng 9/2023) dự báo 4%, Ngân hàng HSBC (tháng 10/2023) dự báo 3,3%. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy niềm tin của không chỉ người dân, doanh nghiệp trong nước mà cả các tổ chức quốc tế và nhà đầu tư nước ngoài vào hiệu quả công tác điều hành kinh tế vĩ mô để kiểm soát lạm phát đã được cải thiện đáng kể. Dù vậy, lạm phát so với cùng kì có xu hướng tăng trở lại từ giữa năm 2023, lạm phát cơ bản dai dẳng và nhiều yếu tố rủi ro tiềm ẩn là những cảnh báo không thể chủ quan trong điều hành, quản lí kinh tế vĩ mô, trong đó có điều hành CSTT. 
 
Trong năm 2024, NHNN sẽ điều hành linh hoạt, thận trọng CSTT, phối hợp chặt chẽ với CSTK và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. NHNN sẽ tiếp tục điều hành tỉ giá, lãi suất linh hoạt, thích ứng kịp thời với thị trường trong và ngoài nước và mục tiêu CSTT, điều hành tín dụng với khối lượng phù hợp, chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN cũng sẽ tiếp tục phát huy vai trò, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong Ban Chỉ đạo điều hành giá quốc gia để thường xuyên đánh giá và dự báo diễn biến thị trường, tham mưu cho Chính phủ các chính sách điều hành và quản lí giá phù hợp, tránh những biến động quá mức, tâm lí đầu cơ, găm giữ làm méo mó giá cả hàng hóa trên thị trường. Năm 2024 là năm bản lề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 và nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát sẽ là tiền đề quan trọng để kiến tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hướng tới thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước, chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIV vào năm 2026.
 
1 Nghị quyết số 101/2023/QH15 Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV về giảm 2% mức thuế suất VAT từ 10% xuống 8%; Nghị định số 12/2023/NĐ-CP ngày 14/4/2023 của Chính phủ về gia hạn VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2023; Nghị định số 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 của Chính phủ về gian hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước; Nghị định số 41/2023/NĐ-CP ngày 28/6/2023 của Chính phủ về quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự xe được sản xuất, lắp ráp trong nước; Quyết định số 01/2023/QĐ-TTg ngày 31/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ về giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước năm 2022 đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Đào Minh Thắng, Nguyễn Thùy Linh 
Phòng Nghiên cứu - Tổng hợp, Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và triển vọng
26/07/2024 94 lượt xem
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một trong năm mũi đột phá của Việt Nam cần được tập trung để thúc đẩy tăng trưởng phát triển và hội nhập.
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/07/2024 256 lượt xem
Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) trên thị trường đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính, thúc đẩy phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống...
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
Một số rủi ro khi sử dụng thẻ tín dụng - Kinh nghiệm và bài học cho giới trẻ
22/07/2024 246 lượt xem
Ở thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), thẻ tín dụng dần trở thành một phương tiện thanh toán khá phổ biến đối với bất kì khách hàng nào bởi tính tiện dụng trong chi tiêu và thanh toán.
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại
22/07/2024 192 lượt xem
Ngày nay, toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang trở thành xu hướng tất yếu, phát triển ngày càng sâu rộng trên thế giới, ngày càng có nhiều nước tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương đã được ký kết.
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
Nghiên cứu xây dựng mô hình học sâu phát hiện tin nhắn rác dựa trên bộ dữ liệu phức hợp được cập nhật
19/07/2024 240 lượt xem
Dựa trên bộ dữ liệu phức hợp mới được cập nhật, bài viết này đề xuất mô hình học máy nhằm phát hiện tin nhắn rác giúp giảm thiểu tối đa những rủi ro mà người dùng thiết bị di động đang phải đối mặt, đặc biệt là rủi ro liên quan đến vấn đề tài chính.
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
Đánh giá tác động của tham nhũng địa phương đến hoạt động ESG của doanh nghiệp Việt Nam
18/07/2024 264 lượt xem
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của tham nhũng địa phương (tham nhũng cấp tỉnh/thành phố) đến hoạt động ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội và Governance - quản trị) của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
Lãi suất theo quy định pháp luật Việt Nam và sự cân nhắc về “mức giới hạn trần” trong hoạt động cho vay của các công ty tài chính.
16/07/2024 446 lượt xem
“Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng” - đây là phát biểu của nhà kinh tế học người Pháp A. Poial.
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
Giải pháp và lộ trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
15/07/2024 327 lượt xem
Với xu hướng hội nhập tài chính quốc tế, để đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, minh bạch, việc áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là một trong những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh xu hướng này, góp phần hoàn thiện các giải pháp đồng bộ thúc đẩy lĩnh vực kế toán - kiểm toán phát triển; đảm bảo việc ghi nhận sổ sách theo cơ chế thị trường vận hành và thông lệ quốc tế.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
11/07/2024 431 lượt xem
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước (1986 - 2024), khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động và đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
Đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023
01/07/2024 674 lượt xem
Mục tiêu của bài viết này là phân tích và đánh giá thực trạng an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023 trên các khía cạnh gồm an toàn vốn, thanh khoản và chất lượng tài sản. Qua đó, bài viết đưa ra một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam và kiến nghị đối với các cơ quan quản lí nhà nước nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
Tác động truyền thông chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tới người tiêu dùng
27/06/2024 560 lượt xem
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống và nghiên cứu định lượng qua việc chạy mô hình hồi quy Logistic nhị phân (Binary Logistic Regression) để đánh giá tác động từ truyền thông chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tới người tiêu dùng.
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
Mô hình tập trung trong thanh toán quốc tế của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/06/2024 623 lượt xem
Có nhiều mô hình thanh toán quốc tế đang được áp dụng tại các ngân hàng trên thế giới, bao gồm mô hình tập trung, phân tán, thuê ngoài và các mô hình thanh toán khác.
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
19/06/2024 671 lượt xem
Phát huy vai trò báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thời gian qua đã được Đảng, Nhà nước, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo chí trong cả nước và đội ngũ những người làm báo quan tâm, chăm lo, thực hiện; từng bước đề ra nhiều nội dung, giải pháp, phương thức, phát huy hiệu quả vai trò của báo chí cách mạng.
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
Ứng dụng ESG trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam
19/06/2024 659 lượt xem
Kinh doanh bền vững gắn với bảo vệ môi trường, đề cao trách nhiệm xã hội đang là xu thế tất yếu tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
Vai trò điều tiết của đa dạng hóa thu nhập đến mối quan hệ giữa các yếu tố đặc thù với khả năng sinh lời của ngân hàng
17/06/2024 479 lượt xem
Là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống tài chính, các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong việc chuyển vốn từ bên thừa sang bên thiếu vốn.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?