Ngân hàng trung ương và rủi ro an ninh mạng
15/02/2023 10.105 lượt xem
Theo khảo sát của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), ước tính của các ngân hàng trung ương (NHTW) về tổn thất tiềm năng từ các cuộc tấn công mạng vào hệ thống tài chính có thể lên tới 5% GDP. Sự cần thiết phải đối phó với những rủi ro ngày càng tăng của các mối đe dọa an ninh mạng đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể ngân sách của các NHTW dành cho công nghệ thông tin (CNTT).

Năm 2021, Tập đoàn nghiên cứu thị trường Ipsos khảo sát khoảng 3.500 chuyên gia của Tập đoàn bảo hiểm đa quốc gia AXA, những người làm việc tại 60 quốc gia trên thế giới. Kết quả cho thấy, có tới 61% trong số người được khảo sát đưa rủi ro liên quan đến an ninh mạng vào top 3 rủi ro hàng đầu sẽ ảnh hưởng đến xã hội trong 5-10 năm tới. Năm 2018, tỉ lệ này là 54%. Trong “xếp hạng tổng thể”, rủi ro an ninh mạng vượt xa đại dịch Covid-19 và các bệnh truyền nhiễm, chỉ “chịu thua” trước những rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu (AXA Futures Risks Report, 2021). Các rủi ro an ninh mạng tiếp tục gia tăng khi các đợt phong tỏa do đại dịch Covid-19 đã đẩy nhanh quá trình số hóa các hoạt động. Các tổ chức tài chính và cơ sở hạ tầng thị trường tài chính nằm trong một khu vực rủi ro đặc biệt, các chuyên gia của BIS lưu ý khi đánh giá rủi ro an ninh mạng của NHTW; mặt khác, sự phát triển của thị trường tiền mã hóa còn làm tăng khả năng xảy ra tội phạm mạng trong khu vực tài chính theo nghĩa rộng, bao gồm các tổ chức tài chính truyền thống.
 

 
Một cuộc khảo sát do BIS thực hiện cho thấy, các NHTW rất lưu ý tới sự gia tăng rủi ro an ninh mạng. Theo đó, các NHTW đang xây dựng các chiến lược để phòng, chống các cuộc tấn công mạng và tăng đáng kể ngân sách cho mục đích này. Cuộc khảo sát với sự tham gia của 21 chuyên gia từ Global Cyber ​​Resilience Group, một nhóm gồm các giám đốc phụ trách an toàn thông tin từ 9 đại diện của NHTW các nước phát triển và 12 đại diện từ NHTW các nước đang phát triển (Sebastian Doerr et al., 2022).

Thuật ngữ "rủi ro an ninh mạng" bao gồm nhiều loại rủi ro liên quan đến sự cố an ninh mạng và hack hệ thống CNTT; đồng thời, bao gồm cả các cuộc tấn công có chủ ý vào cơ sở hạ tầng CNTT và các sự cố không cố ý. Các chuyên gia châu Âu ước tính rằng các cuộc tấn công mạng chiếm 40% các sự cố mạng. BIS nhấn mạnh, có ba loại tấn công mạng: (i) Lừa đảo; (ii) Tấn công chuỗi cung ứng (lây nhiễm phần mềm trước khi phân phối cho người dùng); (iii) Phần mềm độc hại tống tiền, loại sự cố thứ hai đã tăng gấp ba lần chỉ trong năm 2021.

Động cơ của các cuộc tấn công mạng có thể là mong muốn kiếm tiền (tống tiền, gián điệp công nghiệp...), mục tiêu địa chính trị (các cuộc tấn công do nhà nước bảo trợ vào cơ sở hạ tầng quan trọng) hoặc sự bất mãn chung và mong muốn thúc đẩy các ý tưởng mang động cơ chính trị.

Rủi ro của các cuộc tấn công mạng đang gia tăng trong bối cảnh ứng dụng rộng rãi các công nghệ điện toán đám mây, vì điều này dẫn đến việc mở rộng "vành đai bảo mật" ra ngoài mạng công ty - xu hướng này đặc biệt gia tăng do quá trình chuyển đổi ồ ạt sang làm việc từ xa trong bối cảnh đại dịch Covid-19.
 


Nguồn: Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking, BIS Working Papers No 1039

Ở các NHTW, lừa đảo và các hình thức tấn công xã hội khác được coi là hình thức tấn công phổ biến nhất. Ở các nước phát triển, NHTW quan tâm đến những cuộc tấn công vào chuỗi cung ứng hơn ở các nước đang phát triển và tổn thất liên quan đến chúng được cho là nhiều hơn. Đồng thời, theo đại diện của các NHTW, các cuộc tấn công liên quan đến việc sử dụng phần mềm độc hại có tổn thất lớn nhất (Biểu đồ 1). Thậm chí ngoài những tổn thất tài chính trực tiếp từ các cuộc tấn công mạng, các NHTW còn lo ngại về các rủi ro hoạt động và rủi ro danh tiếng liên quan đến các cuộc tấn công mạng, ảnh hưởng đến uy tín của NHTW và các hệ thống thanh toán.

Các NHTW từ các nước phát triển và đang phát triển có quan điểm hơi khác nhau về chủ thể chính của các cuộc tấn công mạng. NHTW ở các nước phát triển đổ lỗi cho tội phạm có tổ chức và các nhóm do nhà nước bảo trợ là thủ phạm chính; còn các nước đang phát triển thì xem tội phạm có tổ chức và các nhà hoạt động xã hội - chính trị (những người hoặc nhóm người thực hiện các hành động xã hội hay chính trị bằng cách đột nhập và phá hoại hệ thống máy tính) là những chủ thể tấn công mạng chủ yếu. Thật thú vị khi chỉ có một NHTW từ các nước đang phát triển cho rằng các chủ thể nội bộ có thể gây ra mối đe dọa, trong khi một phần ba số người được khảo sát từ các NHTW của các nước phát triển nghĩ như vậy (Biểu đồ 1). Các mối đe dọa nội bộ có thể được coi là nhỏ, nhưng không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của chúng.

Tổn thất vì tấn công mạng

Theo một phân tích dựa trên hơn 100.000 sự cố rủi ro an ninh mạng, trong giai đoạn 2002 - 2019, các công ty tổn thất cho mỗi sự cố trung bình là 2,6 triệu USD (Aldasaro I. et al., 2020). Vào năm 2021, một cuộc tấn công mạng vào Colonial Pipeline, hệ thống đường ống lớn nhất của Hoa Kỳ, đã khiến nó phải ngừng hoạt động, gây ra tình trạng thiếu hụt và giá nhiên liệu trong nước tăng vọt, công ty buộc phải trả khoảng 5 triệu USD cho tin tặc; do cuộc tấn công mạng vào mạng lưới các nhà máy của JBS - một trong những công ty chế biến thịt lớn nhất thế giới - đã ngừng hoạt động.

Trong lĩnh vực tài chính, các cuộc tấn công mạng phổ biến hơn sáu lần so với các lĩnh vực khác, nhưng chi phí trung bình lại thấp hơn, ở mức 1,7 triệu USD, điều này dường như là nhờ có sự quản lí và giám sát chặt chẽ hơn. Lĩnh vực tài chính thường xuyên bị ảnh hưởng bởi gian lận, chiếm hơn 60% trong tất cả các sự cố so với 49% theo mẫu khảo sát các công ty thuộc tất cả các lĩnh vực. Đối với các ngân hàng, rủi ro an ninh mạng chỉ chiếm 0,2% trong tổng số tổn thất hoạt động, nhưng tần suất xuất hiện những rủi ro này ngày càng tăng và tỉ lệ thu nhập của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi rủi ro an ninh mạng ước tính vào khoảng 0,2-4,2% (Aldasaro I. et al., 2020).

Các NHTW lưu ý rằng, tổn thất tiềm ẩn từ các cuộc tấn công nghiêm trọng mang tính hệ thống vào cơ sở hạ tầng tài chính có thể rất lớn: Con số tổn thất thông thường được đề cập ở mức 5% GDP hằng năm, nhưng một số NHTW ở các nước đang phát triển đưa ra ước tính trên 10% GDP. Hơn nữa, những thiệt hại từ các cuộc tấn công mạng đã xảy ra đối với lĩnh vực tài chính trong giai đoạn 2020 - 2021 đã tăng lên: Thông thường, mức tăng này được ước tính trong khoảng 20%, nhưng gần 1/3 NHTW ở các nước phát triển tin rằng nó vượt quá 20% (Sebastian Doerr et al., 2022).

Bảo vệ trước mối đe dọa an ninh mạng

Hầu hết các NHTW được khảo sát đang tăng ngân sách CNTT để đối phó với sự gia tăng các mối đe dọa an ninh mạng. Hơn 60% NHTW ở các nước phát triển và khoảng 50% ở các nước đang phát triển đã tăng ngân sách cho cơ sở hạ tầng CNTT lên 5-20% và khoảng 1/4 NHTW ở các nước đang phát triển đã tăng ngân sách hơn 20% (Biểu đồ 2). Danh mục các nhiệm vụ ưu tiên bao gồm tạo và duy trì các giao thức bảo mật, đảm bảo tính liên tục của các quy trình kinh doanh, đào tạo cán bộ và thuê nhân viên mới với các kỹ năng cần thiết. Đồng thời, BIS cũng chỉ ra các khó khăn trong việc tìm đủ số lượng nhân viên có trình độ chuyên môn cao: “Hầu hết các NHTW gặp khó khăn trong việc thuê, giữ chân và liên tục đào tạo lại nguồn nhân lực của họ do nguồn cung lao động hạn chế, chi phí cao và môi trường công nghệ thay đổi nhanh chóng”. Một cuộc khảo sát năm 2020 đối với các chuyên gia an ninh mạng do Enterprise Strategy Group và ISSA thực hiện cho thấy, 70% số người được hỏi tin rằng các tổ chức của họ đang thiếu hụt kĩ năng an ninh mạng toàn cầu, với gần một nửa cho biết tình trạng thiếu hụt chỉ trở nên tồi tệ hơn trong những năm gần đây và chỉ 7% ước tính rằng tình hình đã được cải thiện (Jon Oltsik et al., 2020).
 

Nguồn: Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking, BIS Working Papers No 1039

Ngân sách bổ sung cho an ninh mạng sẽ phải được tăng lên trong trường hợp đưa vào lưu hành các loại tiền kĩ thuật số của NHTW (CBDC), vì điều này sẽ tăng tính phức tạp và đòi hỏi hoàn thiện cơ sở hạ tầng CNTT hiện có (Biểu đồ 3).
 



Nguồn: Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking, BIS Working Papers No 1039

Tất cả các NHTW được khảo sát đều xây dựng kế hoạch hành động trong trường hợp bị tấn công. Ngoài ra, khoảng 80% xây dựng chiến lược trong trường hợp hệ thống tài chính bị tấn công. Trong số các NHTW được khảo sát, tất cả đều tiến hành các đợt diễn tập nội bộ để mô phỏng các cuộc tấn công mạng ít nhất mỗi năm một lần, bao gồm các kịch bản tấn công vào hệ thống của chính NHTW, cũng như sự cố ngừng hoạt động của hệ thống thanh toán hoặc cơ sở hạ tầng thị trường tài chính quan trọng khác.

Tại hầu hết các nước, đặc biệt là nước đang phát triển, NHTW đã ban hành khung quản lý rủi ro an ninh mạng hoặc đang có kế hoạch giới thiệu một khuôn khổ như vậy, nhưng việc kiểm tra sức chịu đựng thường xuyên đối với các công ty tài chính vẫn chưa trở thành một thông lệ phổ biến. Cho đến nay, chỉ có 1/3 NHTW ở các nước phát triển và 15% ở các nước đang phát triển tiến hành các kiểm tra này (Sebastian Doerr et al., 2022). Kết quả khảo sát cho thấy, hơn một nửa số NHTW tin rằng các khoản đầu tư vào an ninh mạng trong lĩnh vực tài chính là không đủ trong những năm gần đây. Ngoài ra, đại diện của các NHTW đồng tình rằng, thị trường bảo hiểm vẫn chưa thể đánh giá và bù đắp rủi ro an ninh mạng một cách hiệu quả.

Hầu hết các NHTW ở các nước đang phát triển đều có hệ thống thu thập thông tin về các cuộc tấn công mạng nhằm vào các tổ chức tài chính, nhưng ở các nước phát triển, chỉ một nửa số người được hỏi báo cáo việc này. Một thực trạng tương tự như vậy khi đề cập đến việc liệu các tổ chức được giám sát có bắt buộc phải báo cáo các tổn thất liên quan đến các cuộc tấn công mạng cho người giám sát hay không. Ở hầu hết các nước đang phát triển, các định chế chịu sự giám sát của NHTW được yêu cầu báo cáo các khoản tổn thất liên quan đến rủi ro an ninh mạng, trong khi chỉ có 2/3 NHTW ở các nước phát triển đưa ra yêu cầu như vậy. Những câu trả lời này phù hợp với sự thay đổi chung trong thực tiễn an ninh mạng của các NHTW, đó là, sự dịch chuyển từ trọng tâm dựa trên tuân thủ sang quản lí rủi ro và khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi không gian mạng (Cyber resilience), trong bối cảnh này, có thể được định nghĩa là khả năng của một NHTW/cơ quan quản lí tiền tệ có thể tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình bằng cách đánh giá và thích ứng với các mối đe dọa an ninh mạng và những thay đổi có liên quan khác trong môi trường cũng như bằng cách chống đỡ, ngăn chặn và phục hồi nhanh chóng sau các sự cố mạng không vượt quá giới hạn hoạt động của tổ chức. Qua một số khảo sát tại các NHTW, những người tiến hành khảo sát nhận thấy, hiện nay, có ba xu hướng đang nổi lên, đó là:

Thứ nhất, phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và tập trung vào các ưu tiên được áp dụng nhiều hơn. Các cách tiếp cận trước đây tập trung vào việc tuân thủ toàn diện các tiêu chuẩn kiểm toán hoặc liên tục bổ sung các công cụ công nghệ mới. Phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro neo các bộ điều khiển chủ chốt vào các kịch bản tấn công thực tế. Độ bền thường được kiểm tra bằng cách sử dụng các cuộc tấn công mô phỏng nhiều lớp, nhiều tầng với quy mô toàn diện.

Thứ hai, quản lí an ninh mạng ngày càng được tích hợp vào các khuôn khổ quản lí rủi ro doanh nghiệp. Các lợi ích bao gồm thể hiện tốt hơn khẩu vị rủi ro, ưu tiên giữa các loại rủi ro và quan trọng là được thừa nhận tốt hơn về trách nhiệm giải trình ở tuyến đầu trong quản lí mức độ rủi ro an ninh mạng của các quy trình kinh doanh.

Thứ ba, an ninh mạng chuyển sang khả năng phục hồi không gian mạng. Khái niệm khẩu vị rủi ro chấp nhận rằng rủi ro bằng không không tồn tại. Do đó, trọng tâm đang chuyển sang khả năng tổ chức đánh giá và phòng, chống các cuộc tấn công, cũng như tiếp tục duy trì các hoạt động quan trọng của tổ chức trong các giai đoạn ứng phó và phục hồi. Do đó, ưu tiên dành cho các quy trình phục hồi và ứng phó như quản lí sự cố hay quản lí khủng hoảng.

Tài liệu tham khảo:

1. Aldasaro I. et al. (2020). Cyber risk in the financial sector. SUERF Policy Note, Issue No 206.
2. Ipsos (2021). AXA Futures Risks Report 2021.
3. Jon Oltsik et al. (2020). The Life and Times of Cubersecurity Professionals 2020. ESG Research Report.
4. Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking. BIS Working Papers No 1039.

Nhật Trung
Trường Đại học Hòa Bình 
 

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hạn chế của Basel II, sáng kiến khắc phục hướng đến Basel III của BIS và hàm ý cho Việt Nam
Hạn chế của Basel II, sáng kiến khắc phục hướng đến Basel III của BIS và hàm ý cho Việt Nam
25/09/2023 609 lượt xem
Hiệp ước Basel II đã và đang được các ngân hàng thương mại (NHTM) áp dụng rộng rãi như một chiến lược nhằm mục đích nâng cao chất lượng quản trị rủi ro, đảm bảo sự ổn định tài chính của ngân hàng. Mặc dù vậy, cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng giai đoạn 2008 - 2009 với sự sụp đổ của nhiều định chế tài chính lớn như Ngân hàng Đầu tư Bear Stearns, các ngân hàng Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers đã cho thấy những điểm yếu của Basel II như mức vốn cấp 1 (Tier 1) tối thiểu 4% và tỉ lệ an toàn vốn không đủ bù đắp các khoản lỗ lớn; một số kĩ thuật sử dụng kế toán sáng tạo có thể che đậy rủi ro tín dụng; suy thoái kinh tế có thể dẫn đến áp lực bán tháo làm tăng tính thuận chu kì của hệ thống; sử dụng một số sản phẩm tài chính phức tạp như công cụ phái sinh, bảo lãnh như một phần của việc giảm rủi ro tín dụng…
Xu hướng tăng trưởng kinh tế của khu vực châu Á
Xu hướng tăng trưởng kinh tế của khu vực châu Á
21/09/2023 860 lượt xem
Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi rất nhiều yếu tố làm suy giảm đà phục hồi, nền kinh tế các nước tại khu vực châu Á cũng nằm trong xu hướng đó và được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại với các động lực tăng trưởng yếu, áp lực lạm phát ở mức vừa phải.
Khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ: Nguyên nhân và tác động
Khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ: Nguyên nhân và tác động
20/09/2023 1.116 lượt xem
Căng thẳng ngân hàng tại Mỹ bắt đầu xảy ra vào tháng 3/2023, khi Ngân hàng Silicon Valley (SVB) sụp đổ, sau đó lan truyền sang một số ngân hàng khác, làm dấy lên lo ngại về tính ổn định trong khu vực tài chính. Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, biện pháp xử lí của cơ quan quản lí, tác động của nó cũng như bài học kinh nghiệm rút ra là hết sức cần thiết.
Chi ngân sách nhà nước cho tăng trưởng xanh tại các quốc gia trên thế giới
Chi ngân sách nhà nước cho tăng trưởng xanh tại các quốc gia trên thế giới
04/09/2023 2.393 lượt xem
Các quốc gia hiện nay ngoài mục tiêu phát triển kinh tế thì đã từng bước chú trọng bảo vệ môi trường. Theo đó, các chính sách đã được ban hành, trong đó có chính sách chi ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, con người, bảo tồn hệ sinh thái và các khoản chi khác nhằm chuyển dịch nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh.
Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng tại các quốc gia châu Âu và một số vấn đề đặt ra
Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng tại các quốc gia châu Âu và một số vấn đề đặt ra
16/08/2023 3.617 lượt xem
Ngành Ngân hàng đã trải qua một sự chuyển đổi đáng kể trong những năm gần đây, được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ và nhu cầu ngày càng tăng đối với các dịch vụ tiện lợi và được cá nhân hóa. Sự xuất hiện của dữ liệu lớn và các công cụ phân tích tiên tiến đã mở ra những cơ hội mới cho các ngân hàng để cải thiện trải nghiệm của khách hàng, giảm chi phí và thúc đẩy tăng trưởng.
Các nguyên tắc ngân hàng bền vững - Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với  Việt Nam
Các nguyên tắc ngân hàng bền vững - Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam
04/08/2023 4.831 lượt xem
Phát triển bền vững là một khái niệm mới và đang dần trở thành mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới. Để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), nguồn lực tài chính là yếu tố đặc biệt quan trọng. Theo đó, ngân hàng bền vững đã, đang và sẽ trở thành một triết lí nền tảng của các ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng không chỉ mang lại lợi nhuận cho nhân viên và các cổ đông của ngân hàng mà còn mang lại lợi nhuận cho khách hàng.
Dự thảo Luật Ổn định tài chính và một số cải cách pháp lí của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc - Hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Dự thảo Luật Ổn định tài chính và một số cải cách pháp lí của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc - Hàm ý chính sách đối với Việt Nam
20/07/2023 5.455 lượt xem
Tháng 4/2022, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã dự thảo Luật Ổn định tài chính (Luật ODTC) và hiện đang lấy ý kiến sâu rộng trong nhân dân để chính thức ban hành luật. Nếu được thông qua (dự kiến vào cuối quý III/2023), Luật ODTC của Trung Quốc sẽ là cơ sở pháp lí đầu tiên điều chỉnh cụ thể việc phòng ngừa, giải quyết và xử lí rủi ro hệ thống; đối tượng điều chỉnh là các ngân hàng, công ty chứng khoán, bảo hiểm và công ty tài chính. Chúng ta cùng nhìn lại lịch sử, một số diễn biến quan trọng và nguyên nhân khiến Trung Quốc “mạnh tay” cải cách pháp lí đối với hệ thống tài chính.
Dữ liệu mới phục vụ điều hành chính sách tiền tệ: Thực tiễn các quốc gia  châu Á và bài học kinh nghiệm
Dữ liệu mới phục vụ điều hành chính sách tiền tệ: Thực tiễn các quốc gia châu Á và bài học kinh nghiệm
13/07/2023 5.897 lượt xem
Sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông trong thời gian qua đã tạo ra sự bùng nổ về lượng thông tin được thu thập, dẫn đến kỉ nguyên mới của dữ liệu.
Phát triển ngân hàng di động hướng tới mục tiêu tài chính toàn diện
Phát triển ngân hàng di động hướng tới mục tiêu tài chính toàn diện
08/06/2023 9.272 lượt xem
Công nghệ ngân hàng di động (Mobile Banking) đã và đang được các ngân hàng thương mại áp dụng rộng rãi như một chiến lược mở rộng thị phần mà không cần đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng. Nó là một công cụ hữu ích cho các khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng bởi tính tiện lợi, chất lượng dịch vụ tốt, nhanh chóng, không phụ thuộc vào yếu tố thời gian và mức độ bao phủ lớn, đáp ứng mục tiêu tài chính toàn diện.
Kinh nghiệm quốc tế về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi hỗ trợ tài chính đối với quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt
Kinh nghiệm quốc tế về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi hỗ trợ tài chính đối với quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt
15/05/2023 10.480 lượt xem
Theo tài liệu “Các vấn đề xử lí tổ chức tín dụng hợp tác - Tổng quan về các đặc điểm và công cụ xử lí” (Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế - IADI, 2018), các tổ chức tài chính nhận tiền gửi như hiệp hội tín dụng, các ngân hàng hợp tác hoặc tương hỗ hay quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) được gọi chung là tổ chức tín dụng (TCTD) hợp tác, là một thành viên quan trọng trong hệ thống tài chính của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Nhìn chung, các TCTD hợp tác có những đặc điểm khác biệt với ngân hàng.
Điều tra thị trường cho hoạch định chính sách tại ngân hàng trung ương
Điều tra thị trường cho hoạch định chính sách tại ngân hàng trung ương
19/04/2023 11.231 lượt xem
Điều tra thị trường (Market Intelligence - MI) là một công cụ đắc lực được các ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới tiến hành để bổ sung, hoàn thiện cho công tác thống kê truyền thống. Với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường tài chính quốc tế, vai trò của hoạt động này ngày càng được coi trọng và tại nhiều quốc gia, hoạt động điều tra thị trường được tổ chức một cách bài bản với cơ cấu nhân sự độc lập.
Sự sụp đổ của Ngân hàng Silicon Valley - Những vấn đề đặt ra
Sự sụp đổ của Ngân hàng Silicon Valley - Những vấn đề đặt ra
18/04/2023 14.363 lượt xem
Chỉ vài ngày trước khi phá sản, Silicon Valley Bank (SVB) vẫn được xem là một tổ chức tài chính uy tín trong giới công nghệ khi cung cấp dịch vụ cho hàng nghìn startup tại Mỹ. Tuy nhiên, chỉ trong hơn 48 giờ, ngân hàng 40 tuổi này bất ngờ sụp đổ. Sự sụp đổ quá nhanh và bất ngờ của SVB là “thảm kịch” ngân hàng lớn nhất ở Mỹ kể từ khi ngân hàng Washington Mutual tan rã vào năm 2008.
Ứng phó của ngân hàng trung ương các nước trước rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu: Bài học đối với Việt Nam
Ứng phó của ngân hàng trung ương các nước trước rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu: Bài học đối với Việt Nam
03/04/2023 11.931 lượt xem
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt và các rủi ro do biến đổi khí hậu đối với hệ thống tài chính - ngân hàng ngày càng lớn, chủ đề giám sát rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và ngân hàng trung ương (NHTW) các nước.
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
17/03/2023 10.396 lượt xem
Công nghệ tài chính (Fintech) đã và đang trở thành một xu hướng tất yếu trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua với sự tác động mạnh mẽ trên mọi khía cạnh của nền kinh tế. Đứng trước những biến đổi này, ngành Ngân hàng cũng không thể đứng ngoài cuộc đua công nghệ.
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
10/03/2023 11.731 lượt xem
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm từ các cơ quan quản lí và các ngân hàng thương mại (NHTM). Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã công bố bản sửa đổi gần nhất vào năm 2016 so với bản trước đó (năm 2004), dẫn đến sự điều chỉnh và thay đổi từ phía các NHTM trên thế giới.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?