Vượt qua những biến động mạnh của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, trong năm 2018, nền kinh tế Việt Nam đã ghi nhận những dấu ấn kỷ lục mới trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại: cán cân thương mại thặng dư cao kỷ lục, dòng tiền kiều hối phục hồi và các luồng vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào mạnh mẽ. Đóng góp cho những thành tựu đáng ghi nhận đó có vai trò quan trọng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bài viết sau đây xin điểm lại những thành tích về kinh tế đối ngoại mà Việt Nam đã đạt được trong năm 2018 và những thách thức đặt ra cho năm 2019.
Năm 2018, nền kinh tế Việt Nam đã ghi nhận những dấu ấn
kỷ lục mới trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại
1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Năm 2018, nền kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi với tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 3,7%, cao hơn tốc độ tăng 2,8% của năm 2017; lạm phát ở hầu hết nền kinh tế chủ chốt đều được kiểm soát tốt và tình trạng thất nghiệp được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, nền kinh tế thế giới cũng trải qua một năm đầy biến động với những hệ lụy chưa thể lường hết. Nhìn chung, trong năm 2018, nền kinh tế thế giới bị chi phối bởi các xu hướng chính sau:
- Xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ: Đáng chú ý nhất và có ảnh hưởng lớn nhất là việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) 04 lần tăng lãi suất, nhiều hơn 01 lần so với dự kiến, đưa lãi suất điều hành lên mức 2,25 - 2,5% vào cuối tháng 12/2018, đồng thời cũng để ngỏ khả năng tiếp tục tăng lãi suất trong năm 2019. Lý giải cho việc tăng lãi suất nhiều hơn dự kiến trước đó, Fed cho rằng nền kinh tế Mỹ đã tăng trưởng rất tốt, tình trạng thất nghiệp được cải thiện đáng kể trong khi nguy cơ về việc hình thành bong bóng trên thị trường chứng khoán là hiện hữu và lạm phát có xu hướng gia tăng. Mặc dù không nằm ngoài dự đoán của thị trường nhưng việc Fed tăng lãi suất nhiều hơn dự kiến đã dẫn đến việc đồng USD tăng giá khá mạnh so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt. Tính đến cuối năm 2018, chỉ số USD-Index tăng 4,1% so với cuối năm 2017, lên mức 96,086 điểm, trong đó, tăng 4,39% so với EUR, tăng 5,59% so với GBP, tăng 5,67% so với CNY và tăng từ 4 -11% so với các đồng tiền khu vực ASEAN. Việc đồng USD tăng giá quá mạnh đã buộc NHTW nhiều nước phải can thiệp bằng cách tăng lãi suất để giữ cho đồng bản tệ khỏi bị mất giá quá nhiều và ngăn dòng vốn bị rút khỏi thị trường chứng khoán. Những NHTW đã tiến hành tăng lãi suất trong năm 2018 bao gồm: Anh, Ấn Độ, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ… Một số NHTW khác dù không tăng lãi suất nhưng cũng đã có các động thái thắt chặt tiền tệ như NHTW Châu Âu (ECB), NHTW Nhật Bản đã thu hẹp chương trình kích thích kinh tế và ECB dự kiến sẽ chấm dứt chương trình này vào tháng 1/2019. Chỉ riêng Trung Quốc đi ngược với xu hướng này bằng việc 02 lần cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với mục tiêu tăng lượng tiền cung ứng, thúc đẩy tăng trưởng do nền kinh tế có dấu hiệu chững lại. Một mặt, xu hướng thắt chặt tiền tệ đã giúp lạm phát được kiểm soát tốt ở hầu hết các nước và ngăn chặn nguy cơ hình thành bong bóng giá cả tài sản, nhưng mặt khác, lại chặn đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2019.
- Xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng: Hình thức phổ biến nhất trong bảo hộ thương mại hiện nay là áp dụng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, chiếm tới gần 16% trong tổng số các biện pháp được áp dụng. Theo một số đánh giá, thuế nhập khẩu của Mỹ đã tăng mạnh trong giai đoạn 2016 - 2018 và đã tăng gấp đôi kể từ năm 2009. Đỉnh điểm của xu hướng bảo hộ này chính là cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung nổ ra từ tháng 7/2018, ngày càng leo thang và chưa thể lường hết hậu quả. Sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ thương mại được thúc đẩy bởi việc tăng thuế của Mỹ gần đây đã làm dấy lên lo ngại rằng nhiều quốc gia tham gia chuỗi công nghiệp sẽ chịu tác động không nhỏ. Bên cạnh những tác động trực tiếp, nhiều nghiên cứu còn chỉ ra việc tăng thuế sẽ tác động tiêu cực một cách gián tiếp đến xuất khẩu của 12 ngành công nghiệp của 63 quốc gia, tác động đến tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư. Trước hết, tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2018 ước tính chỉ đạt mức 3,7% so với mức tăng 5,1% của năm 2017. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có xu hướng rút ra khỏi châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Theo Phòng thương mại Hoa Kỳ tại Trung Quốc (AmCham Trung Quốc), có khoảng 1/3 trong số hơn 430 công ty Mỹ tại Trung Quốc đang cân nhắc hoặc đã chuyển dây chuyền sản xuất ra nước ngoài (chủ yếu sang các nước Đông Nam Á).
- Thị trường tài chính toàn cầu đối mặt với nhiều rủi ro, dòng vốn có xu hướng rút khỏi các thị trường mới nổi: Xu hướng thắt chặt tiền tệ, đồng USD tăng giá mạnh và cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã tác động lớn đến thị trường tài chính toàn cầu. Hầu hết các thị trường chứng khoán đều trải qua những đợt trồi sụt mạnh mẽ và kết thúc năm 2018 với xu hướng giảm điểm chiếm ưu thế. Trong đó, mất điểm nhiều nhất là các chỉ số chứng khoán châu Á với chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản giảm 10%, mức giảm đầu tiên kể từ năm 2011; chỉ số MSCI của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ngoại trừ Nhật Bản) giảm 16%; thị trường Trung Quốc giảm tới 24%. Các thị trường ở châu Âu cũng giảm từ 5 - 12%. Quan trọng hơn, dòng vốn đang có xu hướng rút khỏi các thị trường mới nổi. Trong nửa đầu năm 2018, dấu hiệu dòng vốn quay trở lại thị trường của các nước phát triển, nhất là Mỹ đã khá rõ ràng. Các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng khoán Mỹ khi thị trường này đạt mức tăng trưởng 6,2% trong khi các thị trường châu Á giảm điểm đáng kể. Theo đánh giá của IMF đưa ra vào tháng 10/2018, sẽ có khoảng 100 tỷ USD bị rút khỏi các thị trường mới nổi.
2. Dấu ấn kinh tế đối ngoại của Việt Nam năm 2018
Bất chấp những biến động mạnh trên thị trường quốc tế, đặc biệt là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung liên tục leo thang, lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam vẫn đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
- Cán cân thương mại đạt mức xuất siêu kỷ lục: Tính đến hết ngày 31/12/2018, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đã đạt mức 480,2 tỷ USD, tăng 12,2% so với năm 2017. Trong đó, xuất khẩu đạt 243,5 tỷ USD, tăng 13,2% so với năm 2017 và kim ngạch nhập khẩu đạt 236,7 tỷ USD, tăng 11,1% so với năm 2017. Như vậy, cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng trưởng vượt mức mục tiêu đặt ra, đặc biệt là xuất khẩu. Nhờ đó, cán cân thương mại đạt mức xuất siêu kỷ lục 6,8 tỷ USD (năm 2017 xuất siêu ở mức 2,1 tỷ USD). Điểm sáng trong bức tranh xuất, nhập khẩu không chỉ dừng lại ở tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ mà hoạt động xuất, nhập khẩu đã có những bước chuyển dịch theo hướng tích cực trên nhiều phương diện. Cụ thể:
+ Xuất khẩu hàng hóa của khu vực trong nước duy trì tốc độ tăng trưởng khá và thu hẹp dần khoảng cách với khu vực FDI. Trong năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của khu vực trong nước xấp xỉ 72 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 29,6% (năm 2017 là 29%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 15% so với năm 2017. Mặc dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu chưa được cải thiện nhiều nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực trong nước đã vượt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước (13,2%) và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI (12,4%). Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của khu vực trong nước bao gồm nông sản, thủy sản và khoáng sản đều duy trì mức tăng trưởng dương. Bên cạnh đó, một số mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp chế biến chế tạo có mức tăng trưởng khá, cụ thể: gỗ và sản phẩm gỗ tăng gần 15%; nguyên phụ liệu dệt may, da tăng 11,4%; vải mành, vải kỹ thuật khác tăng 16,8%; sản phẩm mây tre cói thảm tăng 27,5% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, khu vực trong nước đã có sự tăng trưởng toàn diện, đẩy mạnh sản xuất ở các nhóm hàng khác thay vì chỉ tập trung vào các mặt hàng truyền thống như các năm trước.
+ Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm khoáng sản, nguyên liệu thô như dầu thô, than đá… đã giảm hẳn, xuống còn 2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Thay vào đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp chế biến chế tạo như điện thoại, dệt may, giày dép, máy tính và linh kiện các loại, các sản phẩm về gỗ… có sự tăng trưởng mạnh mẽ, chiếm tới 82,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù mới chỉ dừng ở các sản phẩm gia công nhưng giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu thuộc nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo đã thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn và giảm bớt phụ thuộc vào sự biến động của giá cả trên thị trường quốc tế.
+ Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung lan rộng dẫn đến những lo ngại về việc xuất khẩu của Việt Nam có thể bị “vạ lây” do cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều mặt trùng với các nhóm hàng bị phía Mỹ áp dụng mức thuế suất cao. Tuy nhiên, trên thực tế, xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao. Tính chung trong năm 2018, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt 47,5 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2017 và chiếm tỷ trọng 19,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vào thị trường này đều duy trì được mức tăng trưởng khá như dệt may (tăng 11,7%), giày dép (tăng 14,4%), gỗ và sản phẩm về gỗ (tăng 18,4%). Đặc biệt, mặt hàng điện thoại các loại có mức tăng trưởng đột biến lên tới 47,1%.
- Du lịch tăng trưởng cao giúp gia tăng đáng kể nguồn thu ngoại tệ cho dịch vụ du lịch: Năm 2018, du lịch Việt Nam được Tổ chức Du lịch thế giới đánh giá xếp thứ 6/10 quốc gia tăng trưởng khách du lịch cao nhất với 15,5 triệu lượt khách quốc tế. Đây là lần đầu tiên, du lịch Việt Nam đạt được con số này, đánh dấu bước tăng trưởng vượt bậc của ngành du lịch. Sau 3 năm, tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng gấp đôi (tăng 3 triệu lượt so với năm 2017 và 5 triệu lượt so với năm 2016), duy trì mức tăng xấp xỉ 22% so với năm 2017. Việt Nam cũng được ghi nhận là điểm đến du lịch hàng đầu khu vực châu Á trong lễ trao giải của World Travel Awards và là điểm đến chơi golf hàng đầu châu Á trong lễ trao giải của Golf World Travel Awards. Cùng với dấu mốc đón 15,5 triệu lượt khách, năm 2018, ngành du lịch cũng phục vụ khoảng 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt 620.000 tỷ đồng (26 tỷ USD). Điều này góp phần khẳng định Việt Nam đang và sẽ là một điểm đến hấp dẫn, an toàn và thân thiện trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, là tiền đề để du lịch Việt Nam phấn đấu mục tiêu định hướng phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
- Chuyển tiền kiều hối tăng trưởng ổn định: Trong năm 2018, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đạt 10,5 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2017. Số tiền kiều hối chuyển về trung bình đạt 875 triệu USD/tháng, trong đó, riêng tháng 1/2018 đạt 1.042 triệu USD, mức cao nhất trong năm 2018. Kiều hối chuyển về tập trung ở các thị trường truyền thống, nơi có nhiều người Việt Nam sinh sống và làm việc như Mỹ, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc,… Đây là nguồn ngoại tệ quan trọng góp phần ổn định thị trường ngoại hối trong nước.
- Việt Nam vẫn là điểm sáng thu hút dòng vốn ngoại: Mặc dù dòng vốn đầu tư gián tiếp đang có xu hướng rút khỏi các thị trường mới và thị trường chứng khoán có một năm biến động mạnh nhưng dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tiếp tục gia tăng. Năm 2018, thị trường chứng khoán Việt Nam chứng kiến nhiều biến động lớn. Phiên giao dịch cuối cùng của năm 2018 (28/12/2018), VN Index đóng cửa ở mức 892,54 điểm, giảm 9,3% so với cuối năm trước (ngày 29/12/2017, VN Index đạt 984,24 điểm). Thanh khoản thị trường ở mức thấp. Thị trường tăng trưởng mạnh trong những tháng đầu năm khi VN Index luôn đạt trên ngưỡng 1000 điểm và đạt mức cao kỷ lục vào ngày 9/4/2018 với 1.204,33 điểm, tăng 22,4% so với cuối năm 2017. Tuy nhiên, từ giữa tháng 5/2018, VN Index bắt đầu hạ nhiệt, thanh khoản thị trường giảm sút, gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư. Mặc dù thị trường biến động mạnh nhưng tính chung năm 2018, nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đã mua ròng khoảng gần 3 tỷ USD đối với các chứng khoán do Việt Nam phát hành trên thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế. Một số giao dịch lớn của NĐTNN trong năm 2018 bao gồm: Ngày 18/5/2018, NĐTNN mua ròng lên tới trên 1 tỷ USD đối với cổ phiếu của Vinhomes (VHM); ngày 27/6/2018, NĐTNN mua ròng với giá trị trên 100 triệu USD đối với cổ phiếu của Tập đoàn Yeah 1 (YEG); ngày 2/10/2018, tập đoàn SK Group của Hàn Quốc đã mua toàn bộ cổ phiếu quỹ của tập đoàn Masan với giá trị lên tới trên 470 triệu USD. Đối với việc phát hành chứng khoán ở nước ngoài, năm 2018 cũng ghi nhận 3 thương vụ thành công, cụ thể là: tháng 3/2018, Novaland phát hành 160 triệu trái phiếu chuyển đổi trên thị trường Singapore; tháng 5/2018, Vinpearl phát hành 325 triệu trái phiếu quốc tế; tháng 8/2018, Tập đoàn Vingroup chào bán cổ phần ưu đãi với giá trị 400 triệu USD cho Công ty Quản lý quỹ Hanwha của Hàn Quốc. Nhờ có các giao dịch này nên mặc dù thị trường chứng khoán trong nước kém thuận lợi nhưng NĐTNN vẫn mua ròng đối với các chứng khoán do Việt Nam phát hành.
Bên cạnh đó, dòng vốn FDI vào Việt Nam đạt 15,5 tỷ USD, tăng xấp xỉ 10% so với mức 14,1 tỷ USD của năm 2017; Ba lĩnh vực thu hút FDI nhiều nhất tại Việt Nam tiếp tục là công nghiệp chế biến, chế tạo, kinh doanh bất động sản và bán buôn, bán lẻ và 03 quốc gia đầu tư hàng đầu bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore.
- Tỷ giá và thị trường ngoại hối trong nước ổn định: Nhìn chung, năm 2018 là một năm khá thành công trong việc điều hành và quản lý thị trường ngoại hối trong nước. Tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh bám khá sát với diễn biến tăng, giảm của đồng USD trên thị trường thế giới. Mặc dù đồng USD tăng giá khá mạnh với các đồng tiền chủ chốt và hầu hết các đồng tiền trong khu vực nhưng tỷ giá USD/VND được duy trì khá ổn định. Tính đến ngày 28/12/2018, tỷ giá trung tâm do NHNN công bố tăng 1,8%, tỷ giá bình quân giao ngay của các TCTD tăng 2,2%, tỷ giá giao dịch của các NHTM và tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do đều tăng lần lượt 2,2% và 2,5% so với cuối năm 2017. Cân đối cung cầu ngoại tệ trong nước được hỗ trợ tích cực nhờ hoạt động xuất siêu hàng hóa và các luồng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng tốt. Trong năm 2018, NHNN đã mua ròng hơn 6 tỷ USD từ các TCTD để bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước.
3. Những thách thức và định hướng cho năm 2019
Năm 2018 khép lại với những biến động mạnh đã đặt ra không ít khó khăn cho nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Một số rủi ro hiện hữu có thể tác động trực tiếp đến kinh tế Việt Nam năm 2019 bao gồm:
- Tăng trưởng kinh tế thế giới giảm tốc với nhiều rủi ro, bất trắc: Hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới cho năm 2019 - 2020 xuống còn 3,5% và 3%. Đặc biệt, nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc được dự báo sẽ giảm mức tăng trưởng sẽ làm giảm nhu cầu tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các nước dựa nhiều vào xuất khẩu.
- Môi trường kinh tế toàn cầu kém thuận lợi hơn như cạnh tranh chiến lược và xung đột thương mại kéo dài dẫn đến sụt giảm thương mại và đầu tư khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu càng trở nên bấp bênh.
- Rủi ro tài chính toàn cầu gia tăng do điều kiện tài chính ngày càng thắt chặt, tỷ giá các đồng tiền chủ chốt diễn biến khó lường và không loại trừ khả năng chiến tranh thương mại chuyển hóa xung đột trở thành chiến tranh tiền tệ.
- Giá dầu diễn biến khó lường do sự nhạy cảm trước các yếu tố chính trị, kinh tế và công nghệ. Cùng với điều kiện tài chính thắt chặt, sự biến động của giá dầu là nhân tố quan trọng quyết định việc thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ của NHTW các nước, làm cho sự biến động của thị trường tài chính càng trở nên khó lường.
Trong bối cảnh rủi ro ngày càng gia tăng từ nền kinh tế thế giới và độ mở của nền kinh tế ở mức cao, việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô để thúc đẩy xuất khẩu và thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài là mục tiêu quan trọng cần hướng tới. Để hỗ trợ cho hoạt động kinh tế đối ngoại trong năm 2019, NHNN đã đặt ra một số mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia:
- Trên cơ sở các mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ và đánh giá kinh tế vĩ mô, tiền tệ, năm 2019, NHNN điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu bình quân dưới 4%; bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, kiểm soát tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng theo định hướng đề ra.
- Chủ động thực hiện các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng hiệu quả. Tiếp tục củng cố dự trữ ngoại hối nhà nước. Triển khai tích cực các biện pháp hạn chế tình trạng đô la hóa trên lãnh thổ, tăng niềm tin vào đồng Việt Nam, góp phần ổn định thị trường ngoại tệ và kinh tế vĩ mô.
- Điều hành tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán…; tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án BOT, BT giao thông, tín dụng tiêu dùng. Kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ và có lộ trình phù hợp giảm dần cho vay bằng ngoại tệ.
Nguyễn Đức Long
Nguồn: TCNH số 2+3/2019