Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở nước ta hiện nay đang thực sự là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế xã hội. Nhiều sản phẩm, hàng hoá sáng tạo và dịch vụ của các DNNVV và những DN khởi nghiệp đem lại những giá trị gia tăng rất lớn, hiệu quả cao, làm thay đổi nhiều quan niệm và sản phẩm truyền thống hiện nay. Tuy nhiên, DNNVV Việt Nam vẫn tồn tại, gặp phải những khó khăn, như: thiếu vốn tài chính, khó khăn về tín dụng, thủ tục hành chính, thuế. Bản thân DNNVV còn có những bất cập khác như: hạch toán kế toán, công nghệ, chiến lược kinh doanh...
Đó cũng là những vấn đề mà Việt Nam cần nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm vận hành cũng như thúc đẩy hoạt động của DNNVV tại các nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới. Bài viết tổng hợp kinh nghiệm của Mỹ - một nền kinh tế lớn nhất trên thế giới và có quá trình phát triển DNNVV lâu dài; kinh nghiệm của Malaysia, quốc gia có nền kinh tế khá tại khu vực Đông Nam Á.
Kinh nghiệm của Mỹ
Tuy Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất trên thế giới nhưng Chính phủ nước này vẫn hết sức coi trọng sự tồn tại và phát triển của DNNVV. Tại Mỹ, 30 triệu doanh nghiệp nhỏ là động lực chính của nền kinh tế, tạo ra hai phần ba việc làm mới của khu vực tư nhân và sử dụng hơn 50% nguồn lao động quốc gia. Chính phủ Mỹ thành lập Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ (Small Business Administration - SBA) vào năm 1953, hoạt động như là một tổ chức độc lập để hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp nhỏ. Thông qua việc hỗ trợ vốn và tạo cơ hội ký hợp đồng, SBA giúp doanh nghiệp nhỏ phát triển và tạo việc làm bền vững. SBA muốn xây dựng môi trường lành mạnh cho doanh nghiệp thông qua khóa đào tạo, dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp loại này, tập trung hỗ trợ và hồi phục doanh nghiệp nhỏ sau khủng hoảng.
Mỹ không có định nghĩa cụ thể để phân chia DNNVV như các nước châu Âu. Căn cứ vào tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp để phục vụ mục đích báo cáo thuế, doanh nghiệp được chia thành 2 nhóm, bao gồm nhóm các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp một thành viên, có giá trị tài sản dưới 10 triệu USD; nhóm doanh nghiệp lớn và vừa có giá trị tài sản lớn hơn 10 triệu USD. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ (SBA) nhận thấy sẽ không có một tiêu chuẩn chung để xác đinh doanh nghiệp nhỏ cho tất các ngành, nên đã phát triển một bảng tiêu chuẩn để xác định doanh nghiệp nhỏ theo từng ngành, trong đó tiêu chuẩn với một số ngành chủ chốt như Ngành sản xuất: Số nhân công dưới 500 đến 1.500 người (khoảng 27% doanh nghiệp sản xuất có 500 nhân công); Ngành mỏ: Số nhân công dưới 250 đến 1.500 người; Ngành xây dựng: Trung bình thu nhập dưới 36,5 triệu USD...
Trong khoảng thời gian khủng hoảng tài chính các năm 2007 - 2010, khoản cho vay từ ngân hàng giảm, điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ. Trong khi đó, nhà đầu tư và người cho vay có xu hướng muốn đầu tư vốn vào doanh nghiệp lớn, do doanh nghiệp nhỏ non trẻ và có lịch sử mức độ tín nhiệm thấp, khiến rủi ro của khoản vay cao. Để giảm thiểu rủi ro cho khoản vay, SBA sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ tiếp cận nguồn vốn bằng cách đảm bảo cho các khoản vay, doanh nghiệp sẽ không vay vốn trực tiếp từ nhà đầu tư mà thông qua SBA. Khoản vay được SBA bảo đảm từ 500 USD đến 5,5 triệu USD cho phần lớn mục đích kinh doanh như mua tài sản cố định và vốn hoạt động. Một số chương trình vay đặt ra quy định về cách sử dụng vốn và có những yêu cầu cụ thể ví dụ mức thu nhập, đặc điểm của chủ sở hữu, địa điểm doanh nghiệp hoạt động, khả năng trả nợ, mục đích của doanh nghiệp, SBA sẽ đóng vai trò trung gian kết nối bên cho vay với những doanh nghiệp có nhu cầu. Các khoản vay được SBA đảm bảo thường có lãi suất, phí tương đương với các khoản vay không được bảo đảm và thường kèm theo dịch vụ tư vấn giúp doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp, vận hành hiệu quả. Khoản vay được SBA bảo đảm có khoản thanh toán thấp hơn, yêu cầu chi phí linh hoạt và một số khoản vay không yêu cầu tài sản thế chấp.
Theo thống kê tổng doanh thu xuất khẩu của Mỹ trong giai đoạn 1997-2015 của SBA, tổng doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ tăng gấp đôi từ 200 tỉ USD năm 2005 lên đến 400 tỉ USD năm 2015. Không chỉ hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại nước Mỹ, SBA còn quan tâm đến doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế và tăng tính cạnh tranh của những doanh nghiệp này bằng những khoản vay dành riêng cho doanh nghiệp xuất khẩu, tư vấn và đào tạo cho người đầu tư cũng như doanh nghiệp nhỏ.
Chính phủ liên bang Mỹ được biết đến là người mua lớn nhất thế giới. Hàng năm, những hợp đồng hàng trăm tỷ USD được sử dụng mua hàng hóa và dịch vụ cho cơ quan liên bang. Quốc hội đã đặt yêu cầu tối thiểu 23% khoản chi của Chính phủ phải được sử dụng từ các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp nhỏ. SBA sẽ đóng vai trò giám sát cơ quan liên bang để đạt được 23% giá trị hợp đồng của chính phủ liên bang sẽ được ký kết với doanh nghiệp nhỏ. Cơ quan chính phủ liên bang công khai danh sách những hợp đồng và một số hợp đồng được đưa vào danh sách đặc biệt dành cho doanh nghiệp nhỏ. Một số hợp đồng (set-aside contract) trong danh sách đó là một phần công việc của hợp đồng lớn, hoặc những hợp đồng nhỏ (sole- source contract) dành cho doanh nghiệp nhỏ. Chính phủ sẽ dành tối thiểu 5% giá trị hợp đồng hàng năm cho các doanh nghiệp nhỏ khó khăn, doanh nghiệp nhỏ do phụ nữ làm chủ và 3% giá trị hợp đồng cho doanh nghiệp nhỏ của người khuyết tật, doanh nghiệp nằm trong vùng suy thoái kinh tế và doanh nghiệp nhỏ nằm trong khu vực không được sử dụng đúng mức (historically underutilized business zone- HUBZone).
Mặc dù trong 20 năm, từ năm 1995 đến năm 2015, nền kinh tế đối mặt với khủng hoảng tài chính (2007 - 2010), số lượng tổ chức cho vay tài chính giảm do xu hướng sát nhập của ngân hàng và sự bùng nổ của cho vay online, nhưng khoản vay cho doanh nghiệp nhỏ vẫn có xu hướng tăng từ khoảng 400 tỉ USD lên 500 tỉ USD (theo thống kê khoản vay tại Mỹ từ năm 1995-2015 của SBA).
Kinh nghiệm của Malaysia
Malaysia là quốc gia điển hình trong khu vực có các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay và đã thành công trong quá trình triển khai thực hiện. Theo số liệu thống kê năm 2011, Malaysia có mức độ tăng trưởng DNNVV đạt 6,4% và hàng năm đóng góp trung bình 32% GDP.
Malaysia phân loại DNNVV dựa theo ngành, tổng doanh thu và số nhân công. Theo thống kê của SME năm 2017, 98,5% doanh nghiệp tại Malaysia là DNNVV, trong đó có 76,5% là doanh nghiệp siêu nhỏ, 21,2% doanh nghiệp nhỏ và 2,3% doanh nghiệp vừa. DNNVV chủ yếu kinh doanh trong ngành dịch vụ (89,2%), doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất (5,3%) , doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng (4,3%), doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp (1,1%), doanh nghiệp thuộc ngành mỏ, khai khoáng (0,1%) .
Trong nhiều năm, Chính phủ Malaysia với nỗ lực hỗ trợ DNNVV với chính sách tích cực và sáng kiến tạo ra môi trường năng động cho doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
Bảo lãnh tín dụng (BLTD) là một chính sách quan trọng trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế của quốc gia này và được hình thành từ rất sớm, nhằm duy trì sự phát triển bền vững và ở mức độ cao của cộng đồng DNNVV. Hệ thống BLTD được xây dựng thống nhất từ cấp trung ương đến cấp địa phương, phân chia theo lĩnh vực hoạt động và thực hiện theo 3 mô hình: (BLTD của Chính phủ, BLTD của các hiệp hội, BLTD của khu vực tư nhân). Tại Malaysia, DNNVV có thể tiếp cận vốn vay từ 4 quỹ bảo lãnh tín dụng:
- Tập đoàn bảo lãnh tín dụng Malaysia (Credit Guarantee Corporation Malasia Berhad- CGC) được thành lập từ năm 1972 với số vốn góp từ các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính của Chính phủ, nhiệm vụ chính là cung cấp chương trình bảo lãnh theo doanh mục (portfolio guarantee) và chương trình bảo lãnh theo nhóm (wholesale guarantee). Tính đến nay, CGC đã bảo lãnh 67,1 tỉ RM cho hơn 453.800 DNNVV. Hiện nay, hệ thống này có số bảo lãnh cao nhất trong 4 hệ thống (với mức bảo lãnh tín dụng là 90% và phí bảo lãnh từ 0,5% - 1% giá trị bảo lãnh).
- Hệ thống bảo lãnh các khoản vay đặc biệt (Special Loan Scheme): tài trợ cho các doanh nghiệp có các dự án đặc biệt, doanh nghiệp xuất khẩu, … được thành lập từ năm 1981.
- Hệ thống BLTD cơ bản (Principal Guarantee Scheme) được thành lập từ năm 1989.
- Hệ thống BLTD chủ yếu - mới (new Principal Guarantee Scheme) được thành lập từ năm 1994.
Ba hệ thống BLTD này hoạt động vì mục đích lợi nhuận, do các tổ chức tư nhân thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các DNNVV với mức phí bảo lãnh cao hơn CGC tùy thuộc thỏa thuận giữa các bên.
Ngân hàng Trung ương Malaysia (Bank Negara Malaysia - BNM) thành lập quỹ đặc biệt và đổi lên là Quỹ BNM cho DNNVV, gồm Quỹ cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ và Quỹ các doanh nghiệp mới, để giúp đỡ các DNNVV đựợc vay vốn với lãi suất thấp, từ 4 đến 6%/năm. Việc vay vốn này có thể được thông qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phát triển và tập đoàn bảo lãnh tài chính (CGC). Kể từ khi thành lập cho đến nay, Quỹ BNM đã hỗ trợ 77.000 doanh nghiệp với số tiền là 7,4 tỉ RM và được sử dụng cho vay quay vòng tương đương với 30 tỉ RM.
Năm 2006, Chính phủ Malaysia xây dựng chương trình Skim Pembiayaan Mikro, nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp siêu nhỏ. Chương trình tập trung tạo cơ hội cho doanh nghiệp siêu nhỏ không có tài sản thế chấp và thiếu lịch sử tín dụng, có thể tiếp cận với nguồn vốn lên tới 50.000RM. Từ năm 2006-2017, với sự tham gia của 10 ngân hàng, chương trình đã cho vay 3,8 tỉ RM cho hơn 216.900 doanh nghiệp.
Tính đến tháng 12 năm 2017, tổng số có 110 quỹ đầu tư mạo hiểm và 9 quỹ cổ phần riêng đăng ký trên thị trường Malaysia. Trong đó, tổ chức chính phủ 29,9% và quỹ đầu tư quốc 29,5% gia đóng góp gần 60% nguồn vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm. Các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các doanh nghiệp mới khởi nghiệp (33%) và trong giai đoạn phát triển (34%) chủ yếu trong lĩnh vực khoa học đời sống chiếm 52,7% tổng đầu tư, tiếp theo là sản xuất 24,6%.
Bên cạnh đó, Chính phủ Malaysia xây dựng hàng loạt những chương trình hỗ trợ tài chính đa dạng phù hợp doanh nghiệp từ mọi khu vực kinh tế để tạo môi trường năng động cho DNNVV. Ví dụ như chương trình Mobilepreneur khuyến khích giới trẻ khởi nghiệp ở lĩnh vực mới như bán hàng lưu động; chương trình tài chính Ikhtiar với mục tiêu giảm tý lệ nghèo ở Malaysia, thông qua hỗ trợ tài chính để trao quyền cho các hộ nghèo kinh doanh nâng cao thu nhập. Các DNNVV gặp phải khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ có thể tái cơ cấu nợ thông qua “Kế hoạch giải quyết nợ cho các doanh nghiệp nhỏ” (Small Dept Resolution Scheme). Đến thời điểm tháng 10 năm 2008, trên 600 SMEs đã được hưởng lợi từ kế hoạch này.
Bài học cho Việt Nam
Dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2005, trong cả nước có 101.679 DNNVV, chiếm 95% tổng số doanh nghiệp, thì đến năm 2015, đã tăng lên tới 433.674 DNNVV, chiếm gần 98% doanh nghiệp cả nước. DNNVV trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp quan trọng trong tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, gia tăng sự tăng trưởng kinh tế và huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào quá trình đầu tư phát triển. Đối với Việt Nam có thể học hỏi một số kinh nghiệm phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và đặc điểm của DNNVV, cụ thể:
Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng và ban hành Luật hỗ trợ DNNVV (Luật số 04/2017/QH14), chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu đối với các doanh nghiệp, Chính sách vay vốn từ Quỹ phát triển DNNVV (Quyết định số 601/QĐ-TTg) và quỹ bảo lãnh tín dụng (Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg). Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho DNNVV hoạt động và phát triển.
Hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng cần được đẩy mạnh và tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV có thể tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả tới nguồn vốn vay. Các cơ quan chức năng cần đưa ra các điều kiện bảo đảm để cho Quỹ chính thức đi vào hoạt động, hỗ trợ các chương trình bảo lãnh, quỹ cho vay đặc biệt cho những DNNVV không có tài sản thế chấp và thiếu lịch sử tín dụng có thể tiếp cận được vốn vay.
Hiện nay, Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được thành lập theo Nghị định 38/2018/NĐ-CP, ngày 11/3/2018 và hoạt động tương tự như quỹ đầu tư mạo hiểm đã hoạt động thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, quy định pháp luật và chính sách cho quỹ đầu tư khởi nghiệp cần được hoàn thiện để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch và ổn định cho quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động.
Ngoài các khoản tín dụng truyền thống, chính phủ các nước cũng chú trọng đến các hình thức tiếp cận vốn mới cho các DNNVV như peer - to - peer lending, kêu gọi vốn từ cộng đồng (Equity Crowdfunding- ECF) hay phát triển các dịch vụ tín dụng thuê mua... Hướng phát triển này đã được vùng lãnh thổ như Đài loan, Malaysia thực hiện. Việc phát triển thị trường tài chính một mặt giúp DNNVV có nhiều sự lựa chọn khi tiếp cận vốn lại vừa giúp các ngân hàng thương mại giảm gánh nặng vốn cho vay.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Mỹ và Malaysia trong chính sách hỗ trợ DNNVV tiếp cận vốn cho thấy rằng, dù đối với nền kinh tế phát triển hay đang phát triển thì vai trò của DNNVV là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đứng trước những biến động kinh tế và sự cạnh tranh khốc liệt của các loại hình kinh tế khác. Chính sách hỗ trợ tích cực của nhà nước cùng với sự nỗ lực của doanh nghiệp có thể khắc phục được những hạn chế, tồn tại và tạo điều kiện cho DNNVV phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ (Small Business Administration- SBA): Báo cáo kế hoạch giai đoạn 2018-2022.
Tập đoàn Doanh nghiệp nhỏ và vừa Malaysia (SME Corporation Malaysia): Báo cáo thường niên 2017/2018.
Bộ KH&ĐT, Cục phát triển doanh nghiêp: Sách trắng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt nam 2017.
http://business.gov.vn/Trangch%e1%bb%a7.aspx
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/3878/tiep-can-nguon-von-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua-nhin-tu-cac-nuoc-phat-trien-trong-khu-vuc-dong-nam-a.aspx.
http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Dien-dan-Quy-dau-tu-khoi-nghiep-sang-tao-co-hoi-quy-tu-lan-toa/367889.vgp.
ThS. Hoàng Mạnh Hùng
Nguồn: TCNH chuyên đề đặc biệt 2019