Có thể nói rằng, chuyển đổi số là xu hướng tất yếu của ngành Ngân hàng, giúp các ngân hàng vượt lên thách thức, tạo lợi thế cạnh tranh, chủ động thích ứng và phát triển bền vững. Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14/01/2020 về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam và Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Tuy nhiên, bên cạnh đó, mặt trái của chuyển đổi số đã làm phát sinh các hành vi phạm tội mới. Việc tội phạm hóa một số hành vi phạm tội phát sinh trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là hành vi có sử dụng công nghệ cao để phạm tội trong Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015, đã cho thấy chủ trương và chính sách kịp thời của Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
Pháp luật hình sự từ trước đến nay đã có quy định liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, quan niệm của các nhà tội phạm học đều cho rằng, những hành vi phạm tội phát sinh trong lĩnh vực ngân hàng là những loại tội phạm kinh tế, xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh đó, các hình thức phạm tội trước đây cũng chủ yếu là những hành vi như lừa đảo thông qua các hoạt động cầm cố, thế chấp trong tín dụng ngân hàng, tham ô, cố ý làm trái, nhận hối lộ, chiếm đoạt tiền của ngân hàng1. Chính vì vậy, có thể nói rằng, ở thời điểm đó, chưa có một định nghĩa rõ ràng về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Nghiên cứu BLHS đầu tiên của Việt Nam là BLHS 1985, có thể thấy, nhà làm luật không xây dựng một cấu thành tội phạm nào đối với hành vi phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng mà chỉ có một tội danh cố ý làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng ở Điều 174. Sau đó, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng chính thức được ban hành vào năm 1997 đã quy định cụ thể về các hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý để nhà làm luật quy định các hành vi vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng vào trong BLHS 1999. Bên cạnh việc sửa đổi Điều 174 BLHS 1985 thành tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng ở Điều 165 BLHS 1999 nhằm để xử lý hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng, các nhà làm luật cũng đã bổ sung mới tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng ở Điều 179 BLHS 1999 bao gồm các hành vi: Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; cho vay quá giới hạn quy định và hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng. Các hành vi này chỉ cấu thành tội phạm nếu “gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, dấu hiệu này là định tính, điều này dẫn đến khó xác định cụ thể mức độ thiệt hại khi áp dụng trên thực tế. Chính vì vậy, khi BLHS 2015 ra đời, cùng với những quy định mới về tội phạm ngân hàng nói riêng, dấu hiệu phản ánh hậu quả có tính chất định tính trước đây đã được thay thế bởi các dấu hiệu mang tính định lượng. Chúng tôi cho rằng, với việc định lượng hóa các dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, nhất là với những tội phạm có thể xác định được thiệt hại như trong lĩnh vực ngân hàng là điều thực sự cần thiết, cho thấy quan điểm của các nhà làm luật nước ta đã có sự thay đổi đáng kể, tạo điều kiện cho việc thực thi trong thực tiễn. Quy định các dấu hiệu theo cách định lượng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức, áp dụng thống nhất pháp luật và góp phần hạn chế việc vận dụng tùy tiện2. Bởi lẽ, khi quy định các dấu hiệu định lượng, chắc chắn các nhà làm luật phải căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tương lai3.
Trên thực tế, các yếu tố cấu thành tội phạm quy định trong BLHS 1999 không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế và cơ chế mới ở nước ta. Một tác giả đã nhận định rằng, việc quy định không rõ ràng về hành vi có thể dẫn đến dễ bị lạm dụng khi xử lý4. Việc cụ thể hóa bằng các tội danh độc lập, trong đó có Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng ở Điều 206 BLHS 2015 chính là nhằm đảm bảo hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm đặc thù trong từng lĩnh vực cụ thể. Cùng với Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi, những quy định mới về những hành vi phát sinh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, các hành vi phạm tội mới này được mô tả cụ thể bao gồm: Cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng; cấp tín dụng không đảm bảo hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho những đối tượng không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật; vi phạm các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng hoặc cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản đảm bảo; vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ tín dụng đối với các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng; cấp tín dụng vượt quá giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng; phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả; kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép; tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Các hành vi kể trên được coi là tội phạm khi gây ra thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.
Xét về các yếu tố cấu thành tội phạm, tội phạm này xâm hại đến khách thể là trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là xâm hại đến chế độ quản lý của Nhà nước trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Theo quy định tại Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân”. Hiện nay ở Việt Nam, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã… Trong đó, ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác nhằm kiếm lợi nhuận nên dễ trở thành mục tiêu để bọn tội phạm xâm phạm và gây thiệt hại nhất.
Trong các hành vi liệt kê tại Điều 206 BLHS 2015, chỉ có hành vi “kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép” không cùng dấu hiệu chủ thể, các hành vi còn lại vẫn là hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng do các chủ thể là người có chức vụ hoặc có quyền hạn nhất định hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Trước đây, theo BLHS 1999, tội phạm này được quy định tại Điều 165 để điều chỉnh các hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và chủ thể thực hiện phải là người có chức vụ, quyền hạn. Điều này khiến cho trên thực tế, chủ thể không có chức vụ, quyền hạn thực hiện việc kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép không bị xử lý hình sự về tội này. Do đó, để phù hợp với đặc điểm tội phạm trong tình hình mới, Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 đã điều chỉnh lại tên tội danh và một số dấu hiệu cấu thành tội phạm, không đòi hỏi dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” đối với hành vi kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép nữa.
Tuy nhiên, vẫn có ý kiến cho rằng, quy định về hành vi kinh doanh vàng, ngoại hối trái phép vào trong tội danh này là chưa phù hợp về lý luận bởi lẽ, đây là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Việc cấp giấy phép kinh doanh có thể cấp cho nhiều chủ thể khác nhau chứ không phải chỉ giới hạn ở hoạt động ngân hàng. Đồng thời, hoạt động kinh doanh vàng liệu có phải là hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng trong khi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng điều chỉnh các hành vi phạm tội lại không điều chỉnh hành vi kinh doanh vàng, ngoại tệ nói trên5. Có thể thấy rằng, vàng và ngoại hối có vai trò đặc biệt quan trọng trong thị trường tiền tệ. Với chức năng là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có chính sách quản lý đối với hoạt động kinh doanh vàng, kinh doanh ngoại hối. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển công nghệ cao, một số đối tượng đã lợi dụng việc kinh doanh vàng, ngoại hối để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều cá nhân, tổ chức. Do đó, chúng tôi cho rằng, việc bổ sung hành vi kinh doanh vàng và ngoại hối trái phép nhằm đảm bảo công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong hoạt động điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, nhưng cũng đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh vàng và ngoại hối hợp pháp là điều cần thiết. Nhưng cũng cần có sự điều chỉnh lại các văn bản pháp luật có liên quan trong lĩnh vực ngân hàng kể cả văn bản xử lý vi phạm hành chính về hoạt động này để có sự đồng bộ giữa BLHS với các văn bản chuyên ngành khác, tạo sự thống nhất trong quá trình áp dụng.
Bên cạnh tội danh này, một số tội danh có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng mà có sử dụng công nghệ cao, sử dụng thiết bị công nghệ thông tin để phạm tội cũng được quy định mới hoặc bổ sung trong một số cấu thành tội phạm trong BLHS. Đó là các hành vi: Phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử đối với hệ thống tài chính, ngân hàng (quy định tại điểm b khoản 2 Điều 286 BLHS 2015); hành vi cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử đối với hệ thống tài chính, ngân hàng (quy định tại điểm b khoản 2 Điều 287 BLHS 2015); hành vi xâm phạm trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của hệ thống tài chính, ngân hàng (quy định tại điểm b khoản 3 Điều 289 BLHS 2015); hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội, cụ thể là sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ (điểm a khoản 2 Điều 290 BLHS 2015); hành vi thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291 BLHS 2015).
Đối tượng tác động của những tội phạm này lại là các công cụ, thiết bị phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử. Chính vì vậy, việc xếp các tội này vào nhóm các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin thuộc các tội xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng là nhằm để nâng cao chính sách phòng ngừa đối với loại tội phạm công nghệ cao này. Tuy không được xếp vào loại tội phạm ngân hàng, nhưng có thể thấy rằng dấu hiệu phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng được coi là dấu hiệu định khung tăng nặng của các tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin, qua đó cho thấy được cách xây dựng cấu thành tội phạm của nhà làm luật có sự linh hoạt, đa dạng, điều này đảm bảo vừa xử lý được tội phạm ngân hàng nói riêng vừa xử lý được các hành vi phạm tội khác có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng hoặc lợi dụng hệ thống ngân hàng để thực hiện tội phạm nói chung.
2. Pháp luật hình sự một số nước quy định về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
Qua nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, chúng tôi nhận thấy, các nước cũng có những quy định tương ứng về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
BLHS Trung Quốc cũng dành một điều luật quy định về hành vi phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng tại Điều 177 như sau: “Người nào làm giả, thay đổi mệnh giá ngân phiếu thuộc một trong các tình tiết dưới đây thì bị phạt tù đến 3 năm hoặc cải tạo lao động và phạt tiền bổ sung hoặc chỉ bị phạt tiền từ 2 vạn đến 20 vạn Nhân dân tệ; nếu có tình tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm và bị phạt tiền từ 5 vạn đến 50 vạn Nhân dân tệ; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm trở lên hoặc tù chung thân và bị phạt tiền từ 5 vạn đến 50 vạn Nhân dân tệ hoặc bị tịch thu tài sản:
1. Làm giả, sửa đổi ngân phiếu, hối phiếu, séc;
2. Làm giả, sửa đổi giấy tờ ủy nhiệm chi, giấy tờ thanh toán ngân hàng khác như: chứng nhận tiền gửi, hóa đơn ngân hàng;
3. Làm giả, sửa đổi chứng từ tín dụng hoặc giấy tờ, hóa đơn kèm theo;
4. Làm giả thẻ tín dụng”6.
Bên cạnh đó, BLHS Trung Quốc cũng quy định các hành vi khác liên quan đến lĩnh vực ngân hàng như: Hành vi thành lập ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tiền tệ khác khi chưa được phép, hành vi giả mạo sửa chữa hoặc chuyển nhượng giấy phép kinh doanh của ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tiền tệ khác ở Điều 174; hành vi nhận bất hợp pháp tín dụng của các tổ chức tiền tệ rồi cho người khác vay với lãi suất cao để kiếm lời với số lượng tương đối lớn ở Điều 175; hành vi huy động bất hợp pháp hoặc biến tướng huy động tiền gửi của công chúng gây rối loạn trật tự tiền tệ ở Điều 176.
Các hành vi này cũng tương tự như các hành vi được quy định tại Điều 206 BLHS 2015 của Việt Nam và được hiểu là những những hành vi tiến hành hoạt động ngân hàng khác được quy định tại điểm k khoản 1 điều này. Tuy nhiên, trong BLHS Việt Nam chưa có quy định về hành vi lập ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tiền tệ khác khi chưa được phép của Ngân hàng Nhà nước là hành vi phạm tội. Một điểm khác biệt nữa so với BLHS Việt Nam đó là, BLHS Trung Quốc có quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng trong khi Việt Nam không quy định. Tuy nhiên, BLHS Trung Quốc lại sử dụng khái niệm “đơn vị phạm tội” thay vì sử dụng thuật ngữ pháp nhân như các nước trên thế giới đã sử dụng. Đơn vị phạm tội được hiểu là toàn bộ các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể thực hiện hành vi phạm tội do khái niệm đơn vị phạm tội phù hợp với truyền thống văn hóa ở Trung Quốc, dễ hiểu và dễ chấp nhận hơn, đảm bảo chấp hành pháp luật hình sự và đạt được mục đích của luật hình sự7. Ngoài ra, trách nhiệm hình sự áp dụng đối với đơn vị phạm tội chỉ duy nhất là hình phạt tiền.
Trong khi đó, BLHS Nhật Bản lại dành Chương 18-2: Tội liên quan đến thẻ tín dụng dữ liệu điện tử dùng để trả tiền quy định về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Các hành vi phạm tội bao gồm: Tội làm không đúng thẻ tín dụng dữ liệu điện tử dùng để trả tiền; tội mang theo thẻ tín dụng dữ liệu điện tử giả: Điều 163-2 quy định: “Người nào với mục đích làm cho sai lệch việc xử lý tài chính của người khác mà cung cấp dữ liệu điện tử cho việc xử lý đó để làm thẻ tín dụng giả thì bị phạt tù dưới 10 năm hoặc phạt tiền dưới 10 vạn yên. Người làm không đúng dữ liệu điện tử để làm thành thẻ tín dụng sử dụng cho việc rút tiền tiết kiệm thì cũng bị phạt tương tự như khoản trên”. Hoặc Điều 163-3 quy định:“Người nào với mục đích theo quy định của khoản 1 Điều 163-3, mà đem theo thẻ tín dụng theo quy định của khoản 3 Điều 163-2 thì sẽ bị phạt tù dưới 5 năm, hoặc phạt tiền dưới 50 vạn yên”.
Qua đây có thể thấy rằng, các hành vi tội phạm này cũng tương tự như hành vi làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán và hành vi sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả được quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 206 BLHS 2015 của Việt Nam. Tuy nhiên, khi so sánh về cấu thành tội phạm và trách nhiệm hình sự đặt ra đối với các hành vi này thì giữa hai nước có sự khác nhau. Trong khi BLHS Việt Nam quy định dấu hiệu cấu thành tội phạm là phải có hậu quả thiệt hại về tài sản thì BLHS Nhật Bản lại chỉ quy định dấu hiệu hành vi mà không đòi hỏi dấu hiệu hậu quả. Ngoài ra, mức hình phạt cao nhất dành cho hành vi phạm tội này trong BLHS Việt Nam có thể lên đến 20 năm (thuộc khoản 4 Điều 206 BLHS 2015) thì mức cao nhất được quy định trong BLHS Nhật Bản mà người phạm tội phải chịu chỉ dưới 10 năm tù. Điều này cho thấy, chính sách xử lý tội phạm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng ở nước ta là rất nghiêm khắc đối với nhóm tội phạm này.
BLHS Liên bang Nga cũng quy định các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng tại Chương 22: Các tội phạm trong lĩnh vực kinh tế. Điều 172 quy định tội hoạt động ngân hàng bất hợp pháp như sau: “Người nào tiến hành hoạt động ngân hàng, các nghiệp vụ ngân hàng mà không đăng ký hay không có giấy phép riêng trong trường hợp bắt buộc phải đăng ký hoặc có giấy phép gây thiệt hại lớn thì bị phạt tiền từ 500 lần đến 800 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương, khoản thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian từ 5 tháng đến 8 tháng hoặc bị phạt tù đến bốn năm hoặc bị phạt tiền đến 50 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương, khoản thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến một tháng hoặc không kèm theo hình phạt đó”8. Cũng hành vi đó, nếu do một nhóm người có tổ chức hoặc do người trước đây đã bị kết án về tội hoạt động ngân hàng bất hợp pháp hay tội kinh doanh bất hợp pháp thực hiện thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm, bị tịch thu tài sản hoặc không kèm theo hình phạt đó.
BLHS Liên bang Nga cũng quy định các hành vi phạm tội khác như: Hành vi doanh nhân hay lãnh đạo tổ chức nhận tín dụng nhận các điều kiện ưu đãi về tín dụng bằng thủ đoạn xuất trình cho ngân hàng hoặc chủ nợ khác các tài liệu không đúng sự thật về tình hình kinh doanh hoặc tình trạng tài chính của mình gây thiệt hại nghiêm trọng của Tội nhận tín dụng bằng thủ đoạn lừa dối (Điều 176); hành vi lãnh đạo tổ chức hoặc công dân nào cố ý không thanh toán các khoản tín dụng với số lượng lớn theo quyết định đã có hiệu lực của tòa án của Tội cố ý không thanh toán các khoản tín dụng (Điều 177), hành vi thu thập thông tin về bí mật thương mại và ngân hàng bằng cách chiếm đoạt các tài liệu mua chuộc hay đe dọa người khác cũng như bằng các thủ đoạn trái pháp luật khác nhằm tiết lộ hoặc sử dụng trái phép thông tin đó của Tội thu thập và tiết lộ bất hợp pháp các thông tin về bí mật thương mại và ngân hàng (Điều 182). Bên cạnh đó, BLHS Liên bang Nga còn quy định Tội giao dịch bất hợp pháp về ngoại hối (Điều 189) và tội Vi phạm quy định về giao nộp cho nhà nước kim khí quý, đá quý (Điều 190).
Nếu như BLHS Liên bang Nga có quy định tội tiến hành hoạt động ngân hàng và các nhiệm vụ ngân hàng mà không đăng ký hay không có giấy phép riêng thì BLHS 2015 của Việt Nam cũng có quy định hành vi tương đương tại điểm k khoản 1 Điều 206. Tuy nhiên, BLHS Liên bang Nga quy định đối với hành vi giao dịch bất hợp pháp về ngoại hối hay vi phạm quy định về giao nộp cho nhà nước kim khí quý, đá quý thành một tội phạm độc lập, trong khi BLHS 2015 của Việt Nam lại xem đây là một trong những hành vi thuộc cấu thành tội phạm tại điểm i khoản 1 Điều 206. Việc quy định thành tội độc lập giúp cho việc xử lý tội phạm được dễ dàng hơn bởi lẽ chính sách quản lý về ngoại hối và vàng có những điểm đặc thù riêng, phụ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi. Các hành vi trong cấu thành tội phạm quy định tại Điều 206 cũng cho thấy, chủ thể phạm tội đa số là các cán bộ làm việc trong các ngân hàng, trong khi đó chủ thể phạm tội quy định trong BLHS Liên bang Nga vừa là cán bộ làm việc trong ngân hàng vừa là khách hàng, chẳng hạn như hành vi nhận tín dụng bằng thủ đoạn lừa dối tại Điều 176 hoặc hành vi cố ý không thanh toán các khoản tín dụng mới tại Điều 177. Theo pháp luật hình sự Việt Nam, những hành vi này lại được xử lý theo các hành vi phạm tội truyền thống mà không được xem là các hành vi phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng. Một điểm khác biệt nữa đó là, cách quy định về mức hình phạt dành cho các tội phạm này. BLHS Liên bang Nga quy định mức hình phạt tiền không bằng một con số cụ thể mà bằng số lần so với mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay khoản thu nhập khác của người phạm tội. Cách quy định này có tính linh hoạt ở chỗ, có thể điều chỉnh được mức phạt theo mức thay đổi của khoản lương hay thu nhập mà không ảnh hưởng đến nội dung điều luật hay không phải sửa luật. Bởi lẽ, tùy vào từng thời điểm, hoàn cảnh khác nhau của xã hội mà thu nhập, khoản lương của người phạm tội có sự thay đổi, giá trị đồng tiền cũng sẽ thay đổi nên nếu ấn định giá trị cụ thể hình phạt tiền như trong BLHS Việt Nam hiện nay dễ dẫn đến việc phải sửa đổi về sau, khi cần thiết phải nâng giá trị tiền phạt lên.
Tóm lại, khi so sánh các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng có thể thấy rằng, các hành vi phạm tội đặc thù được mô tả trong BLHS của Việt Nam rõ ràng, chi tiết hơn so với BLHS Liên bang Nga, Trung Quốc hay Nhật Bản. Bên cạnh đó, có một số hành vi mà theo luật hình sự các nước nói trên coi đó là hành vi phạm tội nhưng luật hình sự Việt Nam chưa quy định thành tội phạm cụ thể. Hay cách quy định về chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự cũng khác nhau, mức hình phạt và hình thức quy định hình phạt cũng có sự khác nhau. Do đó, việc nghiên cứu và đánh giá pháp luật một số nước có nền văn hóa, chính trị tương đồng với Việt Nam nhằm để tiếp thu, kế thừa những kinh nghiệm lập pháp được cho là tiến bộ trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và pháp luật về nhóm tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng.
3. Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đem lại những đổi mới cho toàn hệ thống ngân hàng. Sự phát triển của công nghệ số đã tác động và làm thay đổi cơ chế quản lý, chính sách hoạt động, qua đó đem lại lợi ích cho khách hàng và tạo ra lợi nhuận cho chính các ngân hàng. Bên cạnh những hiệu quả mang lại, các hành vi lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ để đạt được các mục đích cá nhân hoặc vì vụ lợi đã và đang phát sinh gây ra những thiệt hại không nhỏ cho xã hội. Hàng loạt các vụ án trong lĩnh vực ngân hàng thời gian vừa qua đã gióng lên hồi chuông báo động về loại tội phạm này. Các chủ trương, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách về kinh tế, thương mại ngày càng mở rộng. Điều này cũng khiến cho các giao dịch liên quan đến ngân hàng tăng lên, dẫn đến nguy cơ tiềm ẩn các vi phạm trong hệ thống ngân hàng ngày càng cao, đặc biệt là các hành vi lợi dụng công nghệ cao để thực hiện chiếm đoạt tài sản.
Trong thời gian qua, tội phạm công nghệ cao liên tục tấn công hệ thống dữ liệu của các ngân hàng nhằm thực hiện những động cơ của mình. Điều này để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Ngân hàng số sẽ là tương lai của ngành Ngân hàng, nhưng cũng được coi là mảnh đất màu mỡ để tội phạm công nghệ cao khai thác phi pháp một cách ngày càng tinh vi.
Qua nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, có thể thấy một số đặc trưng của hành vi phạm tội có liên quan đến công nghệ cao hoặc sử dụng thiết bị công nghệ cao để phạm tội thường là những dạng hành vi như: Trộm cắp thông tin thẻ ngân hàng, số PIN, thông tin về cá nhân để rút tiền mà không cần đến thẻ của chủ sở hữu. Hành vi này đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho các cá nhân và tổ chức. Theo báo cáo năm 2020 của Công ty An ninh mạng Viettel, 90% trong số 3 triệu vụ cảnh báo tấn công mạng là nhắm đến hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam. Trong đó, 4 chiến dịch tấn công giả mạo (phishing) khiến 26.000 người dùng ngân hàng bị ảnh hưởng; các hình thức tấn công cũng đa dạng và tinh vi, phổ biến là khai thác trang web (chiếm 77,6%), mã độc hại (12,1%), vét cạn (3,9%), các loại hình tấn công khác như từ chối dịch vụ, nhắm vào thiết bị di động chiếm 6,5%9. Thống kê của BKAV cũng cho thấy, đã có hàng trăm tỷ đồng đã bị hacker chiếm đoạt qua tấn công an ninh mạng trong năm 2020, trong đó chủ yếu là các vụ đánh cắp mã OTP giao dịch của người dùng thông qua hoặc có liên quan đến ngân hàng10.
Ngoài các hành vi phạm tội truyền thống liên quan đến lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản, vi phạm các quy định về cho vay, thời gian qua còn xuất hiện một số phương thức, thủ đoạn hoạt động mới như giả mạo chữ ký trên sổ tiết kiệm để chiếm đoạt tài sản ngân hàng, giả mạo thông tin khách hàng để làm thẻ tín dụng, làm giả phôi thẻ tín dụng để rút tiền chiếm đoạt. Một số doanh nghiệp nước ngoài và trong nước cấu kết với nhau xin cấp hạ tầng, lập dự án, thông đồng với cán bộ ngân hàng để vay vốn, hợp thức hóa việc sử dụng vốn vay bằng các hợp đồng nâng khống giá trị máy móc, thiết bị với các đối tác nước ngoài để chuyển tiền ra nước ngoài. Hay bọn tội phạm còn tìm cách thành lập công ty “ma”, công ty “ảo” để trộm cắp dữ liệu, bằng hình thức này tiền được chuyển về tài khoản khác chứ không phải tài khoản của công ty; xâm phạm an ninh, an toàn thiết bị điện tử (máy tính, mạng máy tính), thiết bị số của ngân hàng hoặc doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thực hiện mua bán - thanh toán trực tuyến bằng hình thức phát tán virus, phần mềm gián điệp, mã độc hại với nhiều biến thể qua thư điện tử, đường link website, diễn đàn, mạng xã hội…; truy cập bất hợp pháp vào các website, dùng phần mềm giả mạo để lấy các thông tin cá nhân, phát tán thư rác, tạo trang web bán hàng giả.
Trong thực tiễn xử lý tội phạm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, các hành vi nói trên cấu thành tội phạm thuộc nhiều nhóm tội: Các tội phạm về tham nhũng trong lĩnh vực ngân hàng, tội phạm rửa tiền hệ thống ngân hàng, tội phạm xâm phạm sở hữu, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm làm giả thẻ ngân hàng để rút tiền qua hệ thống ngân hàng, tội phạm giả tài liệu, giấy tờ để chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. Chủ thể thực hiện tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường tập trung vào nhóm đối tượng là cán bộ ngân hàng, ngoài ra còn có nhóm đối tượng ngoài ngành Ngân hàng. Tội phạm ngân hàng là một trong các loại tội phạm kinh tế xâm hại hoặc đe dọa gây thiệt hại tới các lợi ích được luật hình sự bảo vệ, đều do những chủ thể có năng lực, trách nhiệm hình sự và đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của cá nhân. Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng luôn được sự quan tâm của dư luận xã hội là do có những đặc thù riêng mà không một ngành kinh tế nào có thể có được đã tạo ra tính khác biệt với các tội phạm kinh tế khác. Ngoài ra, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng không chỉ có hiệu lực trong phạm vi quốc gia mà còn mang tính quốc tế rộng rãi thông qua các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu giữa các ngân hàng, các tổ chức, các cá nhân kinh doanh trong và ngoài nước. Điều này đã khiến cho tội phạm ngân hàng mang tính đa quốc gia, tính chất của tội phạm trở nên tinh vi, phức tạp và đa dạng hơn bất kỳ tội phạm nào khác. Khi tham gia vào các giao dịch quốc tế, ngoài việc tuân thủ pháp luật của nước của người bán và người mua, thì cả hai bên phải cùng nhau tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Trước đây, các giao dịch trong hệ thống ngân hàng được thực hiện bằng tiền mặt. Vì vậy, khi tiền đã ra khỏi ngân hàng thì việc kiểm soát đồng tiền là khó có thể, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch sân sau, giúp che giấu các khoản tiền chênh lệch qua các khoản vay, từ đó dẫn tới tình trạng tham ô, cố ý làm trái, lừa đảo, nhận hối lộ xảy ra ở các ngân hàng thương mại quốc dân hay ngân hàng thương mại cổ phần. Ngày nay, việc thanh toán qua thẻ tín dụng và sử dụng thẻ tín dụng ngày càng trở nên thông dụng vì tính tiện lợi và an toàn cho người sử dụng, tuy nhiên vì mọi giao dịch đều được thực hiện thông qua các thiết bị điện tử hoặc thiết bị công nghệ thông tin nên chỉ cần người nào nắm được thông tin mật khẩu và dữ liệu của chủ thẻ thì đều có thể thực hiện được các giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng. Điều này cũng sẽ khiến cho các khách hàng rơi vào tình trạng khó được đảm bảo an toàn khi các dữ liệu cá nhân đã bị đánh cắp. Trong xu thế hội nhập và phát triển, các giao dịch ngân hàng đã vượt qua biên giới quốc gia, thanh toán qua tài khoản cá nhân giữa các nước đã trở nên thuận tiện và nhanh chóng. Chính vì vậy, lợi dụng chính sách mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng, nhiều cá nhân nước ngoài đã dùng hộ chiếu giả để mở tài khoản cá nhân để nhận tiền bất chính từ ngân hàng nước ngoài chuyển vào. Đây cũng chính là nguồn gốc làm phát sinh tội phạm rửa tiền.
4. Những đề xuất hoàn thiện pháp luật về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, nhiều tội phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế nhưng chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, trong đó có cả tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều này đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện BLHS để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần phải hoàn thiện các cấu thành tội phạm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, kế thừa kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước trên thế giới về chủ thể của tội phạm, chúng tôi cho rằng các hành vi vi phạm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng không ngoại trừ hành vi của các tổ chức, pháp nhân phạm tội. Pháp luật hình sự Việt Nam đã bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, đây là một điểm mới tiến bộ làm thay đổi các quan niệm truyền thống trước kia về chủ thể tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta mới đang dừng lại ở việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với một số nhóm tội phạm nhất định. Bên cạnh đó, chúng ta đang trong quá trình sửa đổi và hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp. Vì vậy, việc mở rộng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân trong các nhóm tội phạm khác là điều cần thiết. Chúng tôi cho rằng, lĩnh vực ngân hàng là một lĩnh vực có nhiều hoạt động đa dạng và đặc thù ảnh hưởng đến chế độ quản lý nhà nước về lưu thông tiền tệ nên những hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng sẽ gây ra ảnh hưởng rất lớn đến nhà nước và có thể gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng được thực hiện bởi chính các tổ chức, pháp nhân. Thiết nghĩ rằng, việc bổ sung chủ thể là pháp nhân phạm tội đối với các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng cùng với hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự sẵn có trong BLHS của Việt Nam sẽ là một điểm mới và trở thành một công cụ hữu hiệu để có thể phòng, chống có hiệu quả đối với tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
Thứ hai, cần nghiên cứu quy định dấu hiệu sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội là một dấu hiệu tăng nặng trách nhiệm hình sự. Dấu hiệu này có thể được quy định trong cấu thành tội phạm của các tội danh trong lĩnh vực ngân hàng hoặc có thể được quy định tại Điều 52 BLHS 2015 về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được áp dụng cho tất cả các tội phạm cụ thể.
Thứ ba, bổ sung cấu thành tội phạm quy định về hành vi thành lập tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng trái với quy định của pháp luật và gây ra thiệt hại nghiêm trọng để có thể xử lý với các hành vi này như cách BLHS Trung Quốc đã quy định. Hiện nay, Nghị định số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng cũng chưa có quy định xử lý đối với hành vi thành lập tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng trái với quy định của pháp luật. Do đó, cần phải quy định bổ sung hành vi này trong văn bản xử lý hành chính và BLHS. Từ đó, có thể quy định dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này rồi mà còn vi phạm” làm dấu hiệu định tội danh bên cạnh dấu hiệu gây thiệt hại nghiêm trọng.
Thứ tư, đối với hành vi kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 206 BLHS 2015, chúng tôi cho rằng, vì tính chất đặc biệt của loại hành vi này, cho nên có thể nghiên cứu để tách ra thành một tội danh riêng với tên tội danh là tội kinh doanh vàng trái phép hoặc ngoại hối trái phép: Điều này vừa đảm bảo không mâu thuẫn với các quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng, đồng thời vẫn đảm bảo xử lý được hành vi vi phạm. Việc tách hành vi này để trở thành một tội phạm độc lập giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xử lý được đối với cá nhân phạm tội và tổ chức phạm tội, bởi lẽ trên thực tế, hành vi kinh doanh vàng trái phép hoặc ngoại hối trái phép có thể do các tổ chức thực hiện.
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, trong bối cảnh chuyển đổi số vẫn đang diễn ra mạnh mẽ và tác động tới mọi hoạt động của lĩnh vực ngân hàng, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh việc thiết lập các công cụ để đối phó với các tội phạm lợi dụng công nghệ cao để phạm tội nhằm đảm bảo an toàn an ninh mạng trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung. Một khi có hành lang pháp lý đồng bộ và chặt chẽ cùng với các chế tài nghiêm khắc thì tội phạm sẽ khó lợi dụng kẽ hở để thực hiện phạm tội.
1 Nguyễn Xuân Yêm (2004), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
2 Đặng Anh (2002), Bàn về định lượng trong BLHS 1999, Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 7, tr.28.
3 Lê Thị Sơn (2005), Dấu hiệu định lượng trong BLHS, Tạp chí Luật học số 1, tr.50.
4 Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận những điểm mới của BLHS 2015 sửa đổi, bỏ sung năm 2017, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, tr.195.
5 Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận những điểm mới của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, tr.208.
6 Xem Đinh Bích Hà (2007), BLHS của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
7 Nguyễn Ngọc Hòa, Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, nhận thức cần thống nhất?, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.186.
8 Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga, bản dịch, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
9 https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/rui-ro-cua-he-thong-tai-chinh-ngan-hang-viet-nam-do-la-toi-pham-1374988.html, truy cập ngày 8/7/2021.
10 https://vneconomy.vn/toi-pham-mang-ngan-hang-van-la-dich-ngam.htm, truy cập ngày 8/7/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Đặng Anh (2002), Bàn về định lượng trong BLHS 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7.
2. BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (2019), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Đinh Bích Hà (2007), BLHS của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
4. Nguyễn Quang Hiền, Nhận diện tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng và các kiến nghị phòng ngừa, xử lý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 (290), tháng 5/2015.
5. Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận những điểm mới của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Hồng Đức, Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Ngọc Hòa, Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, nhận thức cần thống nhất?, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
7. Hà Loan (2017), Ngại chia sẻ thông tin, ngân hàng khó an toàn bảo mật, 17/8/2017, http://anninhthudo.vn/chinh-tri- xahoi/ngai-chia-se-thong-tin-ngan-hang-kho-an-toan-bao-mat/738308.antd
8. Lê Thị Sơn (2005), Dấu hiệu định lượng trong BLHS, Tạp chí Luật học số 1.
9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga, bản dịch, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
10. Nguyễn Xuân Yêm (2004), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
TS. Hà Lệ Thủy
Trường Đại học Luật, Đại học Huế