Fintech và hoạt động tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại châu Á
26/04/2022 1.764 lượt xem
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế châu Á. Với số lượng chiếm hơn 95% tổng số doanh nghiệp, SMEs đóng góp 50% - 70% việc làm và chiếm 30% - 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nhiều quốc gia1. Đồng thời, trong khi châu Á hiện nay đóng góp khoảng một phần ba của thương mại toàn cầu, chỉ sau châu Âu, thì SMEs đóng góp tới hơn 40% kim ngạch xuất khẩu tại các nền kinh tế lớn như Trung Quốc và Ấn Độ (WTO, 2016). Mặc dù có tầm quan trọng đối với nền kinh tế châu Á nhưng SMEs thường gặp khó khăn trong việc thu hút nguồn lực tài chính. Một nghiên cứu chung của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho thấy, SMEs ở châu Á đi sau SMEs toàn cầu trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính, đặc biệt là về tín dụng (OECD và ADB, 2014). Họ chỉ có khả năng nhận được hạn mức tín dụng gần bằng một nửa so với các công ty cùng ngành trên toàn cầu nên phải dựa vào thu nhập giữ lại hơn là tài trợ bên ngoài để đầu tư. Theo kết quả khảo sát của ADB,  SMEs châu Á báo cáo nguồn vốn hạn chế là một lý do phổ biến kìm hãm các giao dịch thương mại trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với 60% SMEs nói rằng, họ không tiến hành giao dịch vì thiếu nguồn lực tài chính. Một lý do khiến các SMEs châu Á gặp khó khăn khi vay vốn có thể là do các yêu cầu khắt khe hơn từ các ngân hàng. Các ngân hàng ở châu Á thường yêu cầu SMEs cung cấp tài sản thế chấp cho các khoản vay và nếu được vay họ chỉ nhận được khoản vay với tỷ lệ khoảng hơn 50% tổng giá trị tài sản thế chấp. Ngược lại, ở châu Âu, các khoản cho vay đối với SMEs chủ yếu dưới hình thức hạn mức tín dụng và thường không yêu cầu phải có tài sản bảo đảm. Hơn nữa, hầu hết các quốc gia ở châu Âu đều có các tổ chức bảo lãnh, là các tổ chức phi lợi nhuận cho phép các doanh nghiệp nhỏ cải thiện khả năng vay vốn của họ (xem Columba, Gambacorta và Mistrulli (2010) đối với trường hợp ở Ý). Các ngân hàng cũng có thể ít sẵn sàng cho vay đối với SMEs ở châu Á vì cho rằng rủi ro và chi phí giao dịch cao hơn. Các nhà hoạch định chính sách châu Á từ lâu đã nhận ra nghịch lý về khả năng tiếp cận tài chính hạn chế do không có đủ dữ liệu về SMEs trong thời đại mà các dữ liệu đã trở nên nhiều hơn đáng kể và cũng đã lưu ý ngành công nghệ tham gia điều hòa nghịch lý này (Carney, 2019).  
 
Trong bối cảnh SMEs đang phải vật lộn để có được các nguồn tài chính thông thường, những đổi mới công nghệ tài chính (Fintech) mới nổi ở châu Á đã thay đổi các mô hình truyền thống để giảm bớt khó khăn cho SMEs tiếp cận được các nguồn vốn. Trong những năm gần đây, các công ty Fintech2 và các công ty công nghệ lớn3 ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp vốn cho SMEs. Đặc biệt, tín dụng Fintech đã mở rộng nhanh chóng. Theo dữ liệu từ Trung tâm Tài chính Thay thế Cambridge (CCAF)4, khối lượng tài chính thay thế (tín dụng Fintech) đã tăng 26% trong năm 2017, từ 287 tỷ USD năm 2016 lên 373 tỷ USD năm 2017. Nếu tính thêm tín dụng của các công ty công nghệ lớn thì tốc độ tăng trưởng thậm chí còn nhanh hơn và tổng tín dụng Fintech đạt mức 543 tỷ USD trên toàn cầu vào năm 2017. Phần lớn khối lượng này (492 tỷ USD) là ở Trung Quốc và một số nước khác ở châu Á. Mặc dù vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ, tín dụng Fintech đang trở thành nguồn tài chính phù hợp về mặt kinh tế cho SMEs ở một số quốc gia trên thế giới, bao gồm Trung Quốc và các khu vực khác của châu Á. Tại Trung Quốc, WDZJ.com ước tính rằng, tín dụng Fintech chiếm 13% khoản cho vay mới đối với khu vực tư nhân trong 5 tháng đầu năm 2018. Tại Hàn Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản, tín dụng Fintech lần lượt ở mức 652 triệu USD, 220 triệu USD và 190 triệu USD, phần lớn trong số đó là dành cho các doanh nghiệp nhỏ (CCAF, 2018). Tính đến tháng 7/2018, các nền tảng tín dụng Fintech đang trở nên phù hợp về mặt kinh tế ở Indonesia, với tổng các khoản vay 9,21 nghìn tỷ Rupiah (650 triệu USD) đã được giải ngân cho 1,43 triệu khách hàng (KPMG, 2018). Các công ty công nghệ lớn như Grab và Go-Jek cũng có hoạt động cho vay rộng rãi ở Indonesia và các quốc gia khác ở Đông Nam Á, bao gồm cả cho vay người mua xe hơi. Gần đây, các công ty này đã bắt đầu cung cấp tín dụng tiêu dùng để mua hàng tại các cửa hàng (Tani, 2019).



Trong những năm gần đây, các công ty Fintech và các công ty công nghệ lớn 
ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp vốn cho SMEs
 
Các công ty Fintech và công ty công nghệ lớn có một số lợi thế cụ thể so với các hoạt động tài chính hiện thời, bao gồm quyền truy cập vào các nguồn dữ liệu và mạng (FSB, 2019a; BIS, 2019; Stulz, 2019). Trong một số trường hợp, điều này có thể cho phép họ thích ứng với những thách thức và nhu cầu riêng của SMEs. So với các ngân hàng, các công ty Fintech và công ty công nghệ lớn có khả năng sử dụng các nguồn dữ liệu và công nghệ thay thế tốt hơn để bổ sung thông tin tín dụng truyền thống. Điều này đã giúp SMEs trước đây gặp bất lợi do lịch sử tín dụng hạn chế và có khả năng giải quyết một vấn đề quan trọng ở nhiều quốc gia châu Á là thiếu sự bao phủ toàn diện của các văn phòng tổ chức tín dụng. Phương pháp chấm điểm tín dụng của các công ty công nghệ lớn có thể mang lại lợi thế hơn so với các ngân hàng hiện thời, nơi thường phụ thuộc nhiều vào các nguồn thông tin truyền thống như báo cáo tài chính đã được kiểm toán, tài sản thế chấp và đánh giá của nhân viên tín dụng để chấp thuận hoặc từ chối một khách hàng vay tiềm năng. Việc sử dụng máy học có thể hỗ trợ việc đánh giá rủi ro tín dụng trực tiếp và nhanh chóng. Đặc biệt, nó có thể cải thiện việc bảo lãnh phát hành, thu hút thông tin từ các mối quan hệ giữa khách hàng và trong một số trường hợp, ngăn chặn sự thiên vị của con người vào việc ra quyết định. Các nguồn dữ liệu lớn hơn có thể mở ra khả năng các công ty công nghệ lớn cho vay những khách hàng chưa từng tham gia thị trường tín dụng ngân hàng chính thức trước đó.
 
Các mô hình đánh giá tín dụng được sử dụng bởi các công ty Fintech và các công ty cho vay công nghệ lớn ở khu vực châu Á có thể hỗ trợ SMEs tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng. 
 
Ví dụ, Hau và cộng sự (2018) đưa ra bằng chứng cho thấy, tín dụng của công ty Fintech ở Trung Quốc tạo điều kiện bổ sung nguồn cung và cho phép các doanh nghiệp có điểm tín dụng thấp hơn vẫn có thể tiếp cận tín dụng5. Tín dụng của công ty Fintech cũng có thể phục vụ các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp, chẳng hạn như các doanh nghiệp mới thành lập chỉ có tài sản chủ yếu là trí tuệ vô hình. Tín dụng Fintech vừa có thể tăng cường tài chính toàn diện, vừa có thể tiếp cận những khách hàng đi vay dưới mức chuẩn - những khách hàng có thể có mức độ tín nhiệm thấp hơn.  
 
Một lĩnh vực khác mà công nghệ có thể đóng một vai trò đáng chú ý trong việc chuyển đổi phương thức kinh doanh là tài trợ thương mại. Tầm quan trọng ngày càng tăng của châu Á trong thương mại thế giới nhấn mạnh nhu cầu mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của SMEs.  Bất chấp sự tham gia hiện tại của SMEs vào thương mại ở châu Á, sự hiện diện của SMEs bị hạn chế bởi khả năng tiếp cận tài chính. Trong lĩnh vực tài trợ thương mại, công nghệ thúc đẩy thay đổi mô hình kinh doanh có thể giúp mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính với sự nâng cao tiềm năng của SMEs châu Á thông qua hiện đại hóa các quy trình kém hiệu quả và giảm vai trò của các trung gian tốn kém. Tương tự như vậy, các đổi mới công nghệ có khả năng biến đổi hình thức tài trợ hóa đơn bằng cách tận dụng quá trình số hóa thương mại để làm cho các khoản phải thu được định giá và giao dịch dễ dàng hơn. 
 
Tính chất phức tạp và đòi hỏi nhiều giấy tờ của các giao dịch tài trợ thương mại đã khiến công nghệ sổ cái phân tán (DLT) trở thành một lựa chọn hấp dẫn ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương. DLT có thể giúp số hóa và tự động hóa chuỗi cung ứng thương mại và thực hiện kiểm tra nhanh hơn, hiệu quả hơn và ít tốn kém hơn. DLT cũng có thể cải thiện các quy trình thông qua các hợp đồng thông minh, hoạt động giống như các hợp đồng truyền thống, nhưng có thể được thực thi tự động mà không cần người trung gian hoặc quy trình dựa trên giấy tờ. Sử dụng DLT để tạo hồ sơ kỹ thuật số duy nhất để thông quan về nguyên tắc có thể giúp giảm phí và giảm các rào cản đối với thương mại.  
 
Trong khi các bằng chứng sẵn có cho thấy, những đổi mới trong lĩnh vực công nghệ tài chính ở châu Á đã thay đổi các mô hình tài trợ truyền thống, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng, giúp thu hẹp khoảng cách và bổ sung nguồn tài trợ mới cho SMEs thì vẫn tồn tại một số câu hỏi đặt ra đối với vấn đề này. 
 
Thứ nhất, những đổi mới này có thể mang lại hiệu quả vượt trội hơn so với mô hình các ngân hàng cũng đổi mới và sử dụng các thông tin mềm đó hay không? Liệu những đổi mới đó có thể được duy trì trong toàn bộ chu kỳ kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp hay không? Đặc biệt là có nhiều mô hình đánh giá tín dụng mới dựa trên chuỗi thời gian tương đối ngắn, chưa được thử nghiệm qua thời kỳ kinh tế suy thoái (Claessens và cộng sự, 2018). 
 
Thứ hai, việc sử dụng DLT trong các lĩnh vực như tài trợ thương mại và thư bảo lãnh tuy có khả năng giảm đáng kể thời gian xử lý và chi phí chung so với các quy trình thông thường, nhưng vẫn còn có một số lo ngại những lợi thế đó vẫn chưa được kiểm tra nhiều trong thực tế. 
 
Thứ ba, vẫn còn tồn tại một số thách thức liên quan đến pháp lý và quy định cụ thể. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng Trung ương và Chính phủ ở một số quốc gia châu Á đang can thiệp tích cực hơn, thường là với khu vực tư nhân, để thúc đẩy các công nghệ mới nhằm tăng cơ hội tài trợ cho SMEs. Những hành động này bao gồm cả việc xem xét các lợi ích tư nhân và công cộng và các quyền liên quan đến tiếp cận thông tin.
 
1 Theo Diễn đàn tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa, SMEs chiếm 98% số doanh nghiệp và sử dụng 50% lực lượng lao động ở châu Á và Thái Bình Dương (Ata, 2014). ADB ước tính, SMEs chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp châu Á và cung cấp 2/3 việc làm cho khu vực tư nhân (ADBI, 2019). Đáng chú ý, định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa khác nhau giữa các quốc gia. Hầu hết xác định chúng dựa trên các ngưỡng về việc làm, vốn và doanh thu.
 
2 Tín dụng Fintech đề cập đến tín dụng thông qua các nền tảng trực tuyến (phi ngân hàng), bao gồm tất cả các hoạt động tín dụng được tạo điều kiện bởi các nền tảng trực tuyến mà không được vận hành bởi các ngân hàng thương mại (CGFS và FSB, 2017; Claessens và cộng sự, 2018). Tùy thuộc vào nền kinh tế, những nền tảng này có thể được gọi là người cho vay ngang hàng (P2P), người huy động vốn cộng đồng dựa trên khoản vay hoặc người cho vay trên thị trường.
 
3 Một tập hợp tín dụng Fintech đang phát triển nhanh chóng, thường không được thu thập trong các nguồn dữ liệu tiêu chuẩn, là tín dụng công nghệ lớn, tức là tín dụng được cung cấp bởi các công ty công nghệ lớn có hoạt động kinh doanh chính là dịch vụ kỹ thuật số chứ không phải dịch vụ tài chính (Frost và cộng sự, 2019).
 
4 Như đã đề cập trước đây, dữ liệu về tín dụng công nghệ lớn rất khan hiếm và không được đưa vào dữ liệu từ Trung tâm Tài chính Thay thế Cambridge (CCAF). Do đó, khối lượng đã được ước tính dựa trên dữ liệu có sẵn công khai. Dữ liệu tổng hợp về lợi nhuận và lỗ ròng thường không được công bố rộng rãi. Vi dữ liệu về tổn thất có sẵn cho chính các công ty công nghệ lớn và có thể được sử dụng để phân tích thực nghiệm (Frost và cộng sự, 2019).
 
5 Tương tự, đối với cho vay tiêu dùng, Tang (2019) chỉ ra rằng, tín dụng Fintech bổ sung tín dụng ngân hàng đối với các khoản vay quy mô nhỏ ở Hoa Kỳ. Jagtiani và Lemieux (2018) phát hiện Lending Club đã thâm nhập vào các lĩnh vực mà các ngân hàng truyền thống chưa phục vụ. De Roure, Pelizzon và Tasca (2016) chỉ ra rằng, tín dụng Fintech phục vụ một phần của thị trường tín dụng tiêu dùng bị các ngân hàng ở Đức bỏ qua.

Dương Quốc Anh 
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quy định pháp luật về ngân hàng số tại Malaysia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
17/03/2023 259 lượt xem
Công nghệ tài chính (Fintech) đã và đang trở thành một xu hướng tất yếu trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua với sự tác động mạnh mẽ trên mọi khía cạnh của nền kinh tế. Đứng trước những biến đổi này, ngành Ngân hàng cũng không thể đứng ngoài cuộc đua công nghệ.
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
10/03/2023 634 lượt xem
Quản lí rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm từ các cơ quan quản lí và các ngân hàng thương mại (NHTM). Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã công bố bản sửa đổi gần nhất vào năm 2016 so với bản trước đó (năm 2004), dẫn đến sự điều chỉnh và thay đổi từ phía các NHTM trên thế giới.
Kinh tế tại châu Á: Giảm bớt những “cơn gió ngược”, mở đường cho sự phục hồi mạnh mẽ hơn
Kinh tế tại châu Á: Giảm bớt những “cơn gió ngược”, mở đường cho sự phục hồi mạnh mẽ hơn
02/03/2023 878 lượt xem
Có thể thấy, triển vọng kinh tế khu vực châu Á đã sáng sủa hơn mặc dù vẫn còn những thách thức lớn trong dài hạn, kể cả đối với kinh tế Trung Quốc - nền kinh tế lớn nhất khu vực.
Những tác động tiêu cực của suy thoái sâu
Những tác động tiêu cực của suy thoái sâu
24/02/2023 1.230 lượt xem
Một phân tích về hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở 24 quốc gia trong hơn 50 năm qua đã chỉ ra rằng, việc các nền kinh tế quay trở lại mức tăng trưởng trước đó sau suy thoái là khó dự đoán, vì còn phụ thuộc vào độ sâu của suy thoái. Những tác động tiêu cực của suy thoái nghiêm trọng mang tính dai dẳng và lâu dài.
Ngân hàng trung ương và rủi ro an ninh mạng
Ngân hàng trung ương và rủi ro an ninh mạng
15/02/2023 1.203 lượt xem
Theo khảo sát của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), ước tính của các ngân hàng trung ương (NHTW) về tổn thất tiềm năng từ các cuộc tấn công mạng vào hệ thống tài chính có thể lên tới 5% GDP. Sự cần thiết phải đối phó với những rủi ro ngày càng tăng của các mối đe dọa an ninh mạng đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể ngân sách của các NHTW dành cho công nghệ thông tin (CNTT).
Việt Nam trong hành trình hướng tới các mục tiêu  phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Thỏa thuận Paris  và đáp ứng các nhu cầu phát triển bền vững cấp thiết
Việt Nam trong hành trình hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Thỏa thuận Paris và đáp ứng các nhu cầu phát triển bền vững cấp thiết
25/01/2023 2.117 lượt xem
Cùng với sự phát triển của xã hội, thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức và phát triển bền vững ngày càng trở thành một chủ đề lớn, thu hút sự quan tâm của tất cả các quốc gia. Chúng ta đang sống và phát triển trên một hành tinh hữu hạn, do đó, chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về cách quản lý tài nguyên của Trái đất để đáp ứng những nguyện vọng của xã hội và thực trạng dân số đang tăng lên từng ngày, đồng thời đảm bảo rằng các thế hệ hiện tại và tương lai có cơ hội có được chất lượng cuộc sống tốt, khỏe mạnh và phát triển thịnh vượng.
Kinh tế khu vực châu Âu trước nguy cơ rơi vào suy thoái
Kinh tế khu vực châu Âu trước nguy cơ rơi vào suy thoái
06/01/2023 2.324 lượt xem
Năm 2022, tình hình kinh tế - xã hội của khu vực châu Âu đối mặt với hàng loạt khó khăn, thách thức; nguy cơ khủng hoảng kinh tế ngày một rõ nét.
Kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro hiện hữu
Kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro hiện hữu
29/12/2022 2.714 lượt xem
Bức tranh kinh tế thế giới năm 2022 phân chia thành hai nửa rõ rệt: 6 tháng đầu năm và 6 tháng cuối năm 2022. Bước vào đầu năm 2022, kinh tế toàn cầu phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ sau một năm suy thoái vì đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, kể từ giữa năm 2022, khi xung đột Nga - Ukraine gia tăng, kết hợp chính sách “Zero Covid” của Trung Quốc làm chậm lại đà phục hồi kinh tế toàn cầu, gia tăng tình trạng gián đoạn nguồn cung và đẩy giá hàng hóa thế giới tăng mạnh.
Năm 2022: Một năm đầy khó khăn của thị trường tài chính toàn cầu
Năm 2022: Một năm đầy khó khăn của thị trường tài chính toàn cầu
28/12/2022 2.292 lượt xem
Sau một năm ảnh hưởng bởi sự tàn phá nặng nề của đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi. Động lực cơ bản thúc đẩy quá trình phục hồi nhanh chóng này là chính sách hỗ trợ khổng lồ, cả về tài chính và tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ này cũng là yếu tố gây lạm phát cao. Ban đầu, lạm phát chỉ tăng đối với một số ít mặt hàng hóa, nhưng đầu năm 2022, đà tăng giá cả dịch vụ có dấu hiệu kéo dài và đã vượt mức giá trước đại dịch tại nhiều khu vực trên thế giới.
Phương thức thanh toán quốc tế BPO - Góc nhìn công nghệ số
Phương thức thanh toán quốc tế BPO - Góc nhìn công nghệ số
12/12/2022 3.061 lượt xem
Sự ra đời của phương thức BPO (Bank Payment Obligations - Nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng) là sáng kiến nhằm cung cấp một công cụ thanh toán mới hỗ trợ hoạt động thương mại toàn cầu để thích ứng với sự phát triển của thời đại số.
Vận đơn đường biển điện tử - điều kiện áp dụng tại Việt Nam
Vận đơn đường biển điện tử - điều kiện áp dụng tại Việt Nam
08/12/2022 3.018 lượt xem
Đại dịch Covid-19 xảy ra gây tác động không nhỏ đến mọi mặt của nền kinh tế thế giới, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu, Logistics bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Để ngăn chặn dịch bệnh lây lan, nhiều quốc gia đưa ra chính sách giãn cách xã hội kéo dài, dẫn đến việc chuyển giao vận đơn đường biển trở nên khó khăn, tốn kém, mất nhiều thời gian.
Mô hình ngân hàng số: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
Mô hình ngân hàng số: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
07/12/2022 2.937 lượt xem
Trong bối cảnh kỷ nguyên số với hành vi khách hàng thay đổi nhanh chóng, nhiều đột phá công nghệ và mô hình kinh doanh mới, các ngân hàng, tổ chức tài chính ở vị thế bắt buộc phải chuyển đổi số bằng công nghệ, dữ liệu và mô hình kinh doanh sáng tạo để thích ứng, vượt lên thách thức của kỷ nguyên số.
Mục tiêu lạm phát tối ưu: Ý kiến ​​của 600 nhà kinh tế
Mục tiêu lạm phát tối ưu: Ý kiến ​​của 600 nhà kinh tế
16/11/2022 3.334 lượt xem
Trong một cuộc khảo sát với hơn 600 nhà kinh tế, hầu hết những người được hỏi muốn Ngân hàng Trung ương (NHTW) của họ có một mục tiêu lạm phát rõ ràng. Gần một nửa đáp viên muốn NHTW giữ mục tiêu hiện tại. Hai phần ba số còn lại muốn tăng mục tiêu, với mức tăng bình quân một điểm phần trăm.
Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng của Việt Nam
Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng của Việt Nam
14/11/2022 4.856 lượt xem
Nông nghiệp hữu cơ với việc không sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất đã đảm bảo được sự an toàn của các sản phẩm nông nghiệp với sức khỏe con người, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái tự nhiên. Vì vậy, nông nghiệp hữu cơ được coi là giải pháp quan trọng để phát triển bền vững, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.
Truyền thông chính sách của các ngân hàng trung ương trong thời kỳ lạm phát cao
Truyền thông chính sách của các ngân hàng trung ương trong thời kỳ lạm phát cao
11/11/2022 3.127 lượt xem
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương (NHTW) với công chúng có thể là phương thức hiệu quả để giảm kỳ vọng lạm phát trong thời kỳ lạm phát tăng đột biến. Đồng thời, việc giải thích dự báo của các chuyên gia NHTW ảnh hưởng đến kỳ vọng nhiều hơn là chỉ cung cấp các số liệu dự báo.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.750

67.470

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.750

67.450

Vàng SJC 5c

66.750

67.470

Vàng nhẫn 9999

54.800

55.800

Vàng nữ trang 9999

54.600

55.400


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.380 23.750 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.440 23.740 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.385 23.745 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.390 23.750 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.360 23.740 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.900 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.403 23.788 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.413 23.760 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.390 24.010 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.450 23.780 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,50
5,60
5,70
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,50
5,60
5,70
7,50
7,70
7,90
8,30
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,70
7,70
7,70
7,70
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,50
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
6,00
6,00
6,00
8,55
8,60
8,65
9,20
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?