Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
21/08/2023 3.176 lượt xem
Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu quy định về biện pháp bảo đảm trong chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ khi chính sách này được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (năm 2002) đến nay. Trên cơ sở phân tích những vướng mắc về tài sản bảo đảm mà các DNNVV gặp phải khi có nhu cầu được cấp bảo lãnh từ các quỹ bảo lãnh tín dụng để vay vốn tại các ngân hàng thương mại (NHTM), bài viết đề xuất một số nội dung cần sửa đổi đối với chính sách về biện pháp bảo đảm để tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV trong việc sử dụng các khoản bảo lãnh từ quỹ bảo lãnh tín dụng để vay vốn ngân hàng.
 
Từ khóa: Bảo lãnh tín dụng, biện pháp bảo đảm, DNNVV.
 
RENOVATING COLLATERAL MEASURES IN CREDIT GUARANTEE TO EXPAND BANK CAPITAL ACCESSIBILITY FOR SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTERPRISES 
 
Abstract: This article studies the regulations on collaterals in the policy on guarantee for small and medium-sized enterprises since it was carried out in Vietnam (2002) until now. By analyzing the encountered problems of collaterals that small and medium-sized enterprises when requiring a guarantee from credit guarantee funds to get loans at commercial banks, the article proposes some amendments in the regulations on collaterals in credit guarantee to create favorable conditions for small and medium-sized enterprises.
 
Keywords: Credit guarantee, collateral measures, small and medium-sized enterprises.
 
1. Đặt vấn đề
 
DNNVV là bộ phận chiếm tỉ trọng rất lớn trong cộng đồng doanh nghiệp của Việt Nam và có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm cho nền kinh tế. Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn vốn tự có nên hoạt động của các DNNVV phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn đi vay, trong đó phổ biến là vay từ các NHTM.
 
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, NHTM có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc cho vay không có bảo đảm. Tuy nhiên, đối với nhiều DNNVV, việc vay vốn tại các NHTM vẫn thường đi kèm với điều kiện về tài sản bảo đảm tiền vay. Trong khi đó, do không có nhiều tài sản và không huy động được tài sản của bên thứ ba, cùng với uy tín của doanh nghiệp lại chưa đủ lớn, nên các DNNVV thường không đáp ứng được điều kiện về bảo đảm tiền vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng như ngân hàng cho vay. Chính vì vậy, ngay từ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, với mục đích tạo thêm một kênh hỗ trợ về biện pháp bảo đảm của Nhà nước cho các DNNVV khi vay vốn tại các NHTM.
 
Trải qua hơn 20 năm triển khai với nhiều lần được điều chỉnh hành lang pháp lí, hoạt động bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV vẫn không thu được kết quả như mong đợi. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do vướng mắc về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh.
 
Chính vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp điều chỉnh quy định về biện pháp bảo đảm nhằm tháo gỡ vướng mắc cho hoạt động bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV là một việc làm rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà các DNNVV là một lực lượng sản xuất quan trọng của nền kinh tế và vẫn không có nhiều tài sản để đáp ứng yêu cầu của các NHTM về bảo đảm tiền vay. 
 
2. Biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV
 
Biện pháp bảo đảm là một nội dung quan trọng được quy định trong các văn bản pháp lí điều chỉnh hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành qua các thời kì. Trước tiên, theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ, để được bảo lãnh tín dụng, các DNNVV không phải thực hiện biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh tại quỹ bảo lãnh tín dụng song phải có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay. Tỉ lệ này sau đó được giảm xuống còn 15% theo Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ, nhưng DNNVV phải sử dụng tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của mình mà pháp luật không cấm giao dịch để thực hiện các biện pháp bảo đảm tại quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đến khi Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 được Chính phủ ban hành để thay thế Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, quy định về bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh vay vốn lại được điều chỉnh theo hướng cho phép quỹ bảo lãnh tín dụng đánh giá và quyết định việc sử dụng một hoặc nhiều biện pháp bảo đảm, bao gồm: (i) Quyền tài sản, tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của DNNVV hoặc tài sản hiện có của bên thứ ba, (ii) Dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, đảm bảo khả năng trả nợ của DNNVV theo đánh giá của quỹ bảo lãnh tín dụng, (iii) Xếp hạng tín nhiệm của DNNVV theo đánh giá xếp hạng của quỹ bảo lãnh tín dụng là DNNVV đảm bảo khả năng trả nợ cho khoản vay tại ngân hàng. 
 
Từ các quy định trên cho thấy, mặc dù có sự thay đổi qua mỗi lần điều chỉnh chính sách, song yêu cầu về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV về cơ bản vẫn được quy định dựa trên cơ sở tài sản (bao gồm cả quyền tài sản, tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của DNNVV hoặc bên thứ ba). Mặc dù theo quy định hiện hành tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ, quỹ bảo lãnh tín dụng được phép miễn tài sản bảo đảm nếu DNNVV đề nghị cấp bảo lãnh tín dụng có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, đảm bảo khả năng trả nợ hoặc có xếp hạng tín nhiệm đảm bảo khả năng trả nợ theo đánh giá của quỹ bảo lãnh tín dụng, tuy nhiên, trên thực tế thì biện pháp bảo đảm mà các quỹ bảo lãnh tín dụng lựa chọn vẫn chủ yếu là bảo đảm bằng tài sản. Vì vậy, cho đến thời điểm hiện tại, điều kiện về tài sản bảo đảm vẫn là một trở ngại phổ biến đối với các DNNVV khi có nhu cầu được bảo lãnh tín dụng để vay vốn tại các ngân hàng.
 
Trong khi đó, nếu so với việc trực tiếp vay vốn tại các ngân hàng, thì việc vay vốn thông qua hoạt động bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng lại đòi hỏi các DNNVV phải đáp ứng nhiều yêu cầu khác về hồ sơ, thủ tục và các khoản phí liên quan. Điều này lại dẫn đến một thực trạng hết sức bất hợp lí là mặc dù vẫn phải đáp ứng yêu cầu về biện pháp bảo đảm giống như khi trực tiếp vay vốn tại ngân hàng, song khi sử dụng hình thức vay vốn thông qua hoạt động bảo lãnh tín dụng, các DNNVV lại phải chịu nhiều chi phí hơn, bao gồm cả chi phí thời gian cũng như chi phí tài chính. (Bảng 1)

Bảng 1: Sự khác biệt chủ yếu giữa vay vốn trực tiếp tại ngân hàng và vay vốn thông qua hoạt động bảo lãnh tín dụng 

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
 
Từ những thông tin được trình bày tại Bảng 1, có thể nhận ra rằng, so với việc vay vốn trực tiếp tại các ngân hàng thì việc vay vốn thông qua sử dụng bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng về cơ bản không những không tháo gỡ được khó khăn về tài sản bảo đảm cho các DNNVV mà còn đòi hỏi DNNVV phải tốn thêm nhiều thời gian để thực hiện các thủ tục, đồng thời cũng phải chịu thêm các khoản chi phí phát sinh từ việc sử dụng bảo lãnh, bên cạnh các chi phí phải trả cho ngân hàng. 
 
Hệ quả của những trở ngại nói trên là kể từ khi bắt đầu triển khai hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng (năm 2002), số vốn mà các DNNVV có thể vay từ các ngân hàng thông qua hoạt động bảo lãnh của các quỹ này là không nhiều, thêm vào đó lại đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Thống kê của NHNN cho thấy, trong giai đoạn 2002 - 2017, số vốn mà các DNNVV có thể vay được từ các ngân hàng theo chứng thư bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ đạt khoảng 4.100 tỉ đồng. Tại thời điểm cuối năm 2016, dư nợ tín dụng có bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng là 411 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 0,039% trong số hơn 1,115 triệu tỉ đồng dư nợ của các DNNVV tại các ngân hàng. Đến hết năm 2017, dư nợ được bảo lãnh của DNNVV tăng lên 648 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 0,057% trong tổng số dư nợ của các DNNVV tại các ngân hàng. Tuy nhiên, con số này sau đó liên tục giảm dần qua các năm 2018 - 2022 và đến hết tháng 02/2023, dư nợ có bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ còn lại 261 tỉ đồng, chiếm khoảng 0,012% trong gần 2,2 triệu tỉ đồng dư nợ của các DNNVV tại các ngân hàng cùng thời điểm (Hình 1). 

Hình 1: Dư nợ được bảo lãnh tín dụng của DNNVV tại các ngân hàng

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ thống kê của NHNN 

Số liệu tổng hợp tại Hình 1 cho thấy, mặc dù các quỹ bảo lãnh tín dụng được Nhà nước thành lập để tăng khả năng của các DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, song trong những năm qua, số vốn mà các DNNVV có thể vay được từ hệ thống ngân hàng thông qua hoạt động bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng là không đáng kể, thậm chí còn giảm dần từ năm 2018. Đáng nói hơn, giai đoạn từ năm 2018 trở lại đây cũng chính là thời kì mà các quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập mới hoặc sắp xếp lại hoạt động theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ như một bộ phận quan trọng trong tổng thể các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNNVV được quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV mà Quốc hội thông qua ngày 12/6/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Điều này cũng có nghĩa là hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng chưa phát huy được vai trò hỗ trợ của Nhà nước đối với bộ phận chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cộng đồng doanh nghiệp của Việt Nam. Nếu không có những điều chỉnh phù hợp đối với chính sách về bảo lãnh tín dụng nói chung và chính sách về biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh nói riêng, thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm phát huy vai trò của các quỹ bảo lãnh tín dụng như ý tưởng của các cơ quan hoạch định chính sách khi lập ra các quỹ này là điều không thể thực hiện được. 
 
3. Đề xuất đổi mới biện pháp bảo đảm trong bảo lãnh tín dụng cho DNNVV
 
Kết quả phân tích ở phần trên của bài viết đã cho thấy rằng, một trong những trở ngại cơ bản đối với các DNNVV khi có nhu cầu được bảo lãnh tín dụng để vay vốn tại các ngân hàng chính là thiếu tài sản để thực hiện biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh.
 
Trong khi đó, các quỹ bảo lãnh tín dụng, về bản chất, là công cụ hỗ trợ của Nhà nước nhằm tăng khả năng cho các DNNVV trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức và hoạt động bảo lãnh của các quỹ này chính là một hình thức bảo đảm tiền vay thay thế cho biện pháp bảo đảm bằng tài sản mà các DNNVV phải thực hiện khi vay vốn tại các ngân hàng. Do đó, việc yêu cầu DNNVV phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản cho hoạt động bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng, vô hình trung đã làm triệt tiêu ý nghĩa của chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV bởi không tháo gỡ được khó khăn về tài sản bảo đảm cho các doanh nghiệp này khi có nhu cầu vay vốn tại các ngân hàng.
 
Từ những phân tích nói trên có thể thấy, để mở rộng quy mô bảo lãnh của các quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các DNNVV, việc nghiên cứu điều chỉnh quy định về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng là việc làm cần được ưu tiên hàng đầu trong quá trình sửa đổi, bổ sung chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Theo đó, các biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh quy định tại Điều 25 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ nên được xem xét sửa đổi theo hướng không yêu cầu DNNVV sử dụng tài sản hiện có (kể cả tài sản của DNNVV cũng như tài sản của bên thứ ba) để thực hiện biện pháp bảo đảm tại quỹ bảo lãnh tín dụng. Thay vào đó, các DNNVV chỉ phải thực hiện biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh bằng tài sản hình thành trong tương lai từ số vốn mà DNNVV vay được từ ngân hàng theo chứng thư bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng.
 
Việc điều chỉnh quy định về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng như trên có tác dụng một mặt tháo gỡ được khó khăn cho các DNNVV trong việc huy động tài sản hiện có để thực hiện biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh, mặt khác đưa hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng trở về đúng với bản chất vốn có như một biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNNVV có nhu cầu vay vốn của ngân hàng nhưng lại không đủ tài sản hiện có để bảo đảm tiền vay. Đồng thời, việc yêu cầu DNNVV sử dụng tài sản hình thành từ số vốn vay được bảo lãnh tín dụng để bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh cũng tạo cơ sở để quỹ bảo lãnh tín dụng có thể thu hồi được số vốn phải trả nợ thay trong trường hợp DNNVV không trả được nợ vay cho ngân hàng.
 
Tuy nhiên, với việc thay đổi chính sách theo hướng cho phép DNNVV hoàn toàn sử dụng tài sản hình thành trong tương lai từ vốn vay để bảo đảm cho bảo lãnh thay cho tài sản hiện có, hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng cũng có thể phải đối mặt với những rủi ro lớn hơn, bởi về nguyên lí thì khả năng thu nợ từ tài sản hình thành trong tương lai thường không chắc chắn bằng khả năng thu nợ từ tài sản hiện có. Và cũng xuất phát từ sự thiếu chắc chắn này, nếu không có biện pháp hỗ trợ khác từ Nhà nước đối với quỹ bảo lãnh tín dụng thì việc thay đổi chính sách về biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh cũng không phát huy được tác dụng thật sự bởi các quỹ bảo lãnh tín dụng chắc chắn sẽ nảy sinh tâm lí e ngại khi phải đối mặt với nguy cơ vừa bị tổn thất lớn hơn, vừa bị xếp loại thấp hơn theo quy định về đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng. 
 
Vì vậy, để việc thay đổi biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh như đề xuất ở trên có thể phát huy tác dụng mà vẫn đảm bảo các quỹ bảo lãnh tín dụng có thể hoạt động tốt, thì các cơ quan hoạch định chính sách cũng cần xem xét thực hiện một số biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các định chế tài chính này. Theo đó, Nhà nước cần đầu tư thích đáng vào việc phát triển năng lực về nhân sự cũng như cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng, đặc biệt là hạ tầng thông tin, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định của quỹ bảo lãnh tín dụng về hiệu quả và tính khả thi của dự án, phương án sản xuất, kinh doanh mà các DNNVV lập ra để vay vốn. Đồng thời, ngân sách nhà nước cần bố trí một phần kinh phí để hỗ trợ các quỹ bảo lãnh tín dụng lập quỹ dự phòng rủi ro nhằm tăng năng lực ứng phó với nguy cơ tổn thất trong trường hợp khả năng thu hồi nợ từ tài sản hình thành trong tương lai mà các DNNVV sử dụng để làm biện pháp bảo đảm bị sụt giảm so với kết quả thẩm định tại thời điểm chấp thuận bảo lãnh. Số kinh phí này có thể được trích từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đánh vào phần lợi nhuận tăng thêm của các ngân hàng do giảm chi phí dự phòng rủi ro đối với các khoản vay của các DNNVV được bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng. 
 
Ngoài ra, các quy định liên quan đến khẩu vị rủi ro của quỹ bảo lãnh tín dụng cũng cần được điều chỉnh theo hướng chấp nhận tỉ lệ nợ trả thay và tỉ lệ nợ xấu cao hơn khi đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại quỹ bảo lãnh tín dụng cũng như xếp loại người quản lí quỹ bảo lãnh tín dụng theo Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 15/2019/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính1
 
4. Kết luận
 
Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV là một chính sách lớn của Nhà nước nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho loại hình doanh nghiệp chiếm tỉ trọng lớn nhất trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để chính sách này có thể phát huy được tác dụng đích thực, các quy định về biện pháp bảo đảm trong bảo lãnh tín dụng cần được đổi mới theo hướng tháo gỡ khó khăn về tài sản bảo đảm cho DNNVV, đồng thời vẫn đảm bảo được điều kiện hoạt động cho các quỹ bảo lãnh tín dụng.
 
Nếu chính sách được điều chỉnh như đề xuất nêu trên, việc sử dụng biện pháp bảo lãnh tín dụng để bảo đảm tiền vay của các DNNVV sẽ trở nên thuận lợi hơn, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các doanh nghiệp này cũng vì thế mà được nâng cao đáng kể. Đồng thời, với sự thay đổi chính sách theo hướng này, hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng cũng có thể trở về đúng với bản chất vốn có - là công cụ hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNNVV gặp khó khăn về tài sản bảo đảm khi vay vốn ngân hàng.
 
1 Theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP và Thông tư số 15/2019/TT-BTC, việc đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại hằng năm đối với các quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện theo 5 chỉ tiêu: (1) Tăng trưởng doanh số cấp bảo lãnh tín dụng, (2) Tỉ lệ nợ đã trả thay cho doanh nghiệp, (3) Tỉ lệ thu hồi nợ bắt buộc đối với hoạt động bảo lãnh tín dụng hằng năm, (4) Tổng thu nhập trừ tổng chi phí, (5) Tình hình chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lí và sử dụng vốn, tài sản, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chế độ báo cáo tài chính của quỹ bảo lãnh tín dụng. Việc xếp loại người quản lí quỹ bảo lãnh tín dụng cũng được thực hiện tương ứng với kết quả xếp loai quỹ bảo lãnh tín dụng dựa trên các chỉ tiêu này.

 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Thạch Bình (2018), “Nâng tầm quỹ bảo lãnh tín dụng”, Cổng thông tin điện tử NHNN, truy cập ngày 21/5/2023 tại https://sbv.gov.vn/webcenter/portal/cds_sbv/menu/trangchu/tinmoinhat/tmn_chitiet?dDocName=SBV334627 
2. Bộ trưởng Bộ Tài chính (2019), Thông tư số 15/2019/TT-BTC ngày 18/3/2019 hướng dẫn cơ chế quản lí tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
3. Chính phủ (2018), Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
4. Chính phủ (2021), Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV.
5. Quốc hội (2017), Luật Hỗ trợ DNNVV.
6. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
7. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
8. Lưu Thủy (2023), “Sợ mất vốn, quỹ bảo lãnh tài chính nhà nước ‘siết’ điều kiện cho vay”, Chuyên trang Đầu tư tài chính, Báo Sài Gòn giải phóng điện tử, tại https://dttc.sggp.org.vn/so-mat-von-quy-bao-lanh-tai-chinh-nha-nuoc-siet-dieu-kien-cho-vay-post102773.html

TS. Nguyễn Cảnh Hiệp
Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
28/09/2023 96 lượt xem
Tín dụng đầu tư của Nhà nước là tín dụng do Nhà nước thực hiện để hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế và các vùng khó khăn cần khuyến khích, nhằm thực hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội từng thời kì.
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
27/09/2023 175 lượt xem
Đổi mới sáng tạo cùng với phát triển khoa học, công nghệ đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực công nghệ mới.
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
26/09/2023 285 lượt xem
Thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, còn nhiều rào cản khiến quy mô tín dụng xanh chưa được như kì vọng.
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
21/09/2023 732 lượt xem
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi trong ngân hàng là vấn đề rất cần thiết bởi điều này góp phần đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn và lành mạnh.
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
19/09/2023 926 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN (Thông tư số 06) sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN (Thông tư số 39) quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây viết tắt là TCTD) đối với khách hàng.
Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”
Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”
15/09/2023 1.222 lượt xem
Thời gian qua, NHNN đã hoàn thiện khung khổ pháp lí về hoạt động cho vay, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, hỗ trợ hoạt động vay vốn của người dân, doanh nghiệp. NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo các tổ chức tài chính, tín dụng mở rộng, đa dạng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
07/09/2023 2.013 lượt xem
Với sự phát triển của khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đem lại, quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Tập trung nguồn lực để phát triển và nâng cao hiệu quả các kênh cung ứng vốn khác nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
Tập trung nguồn lực để phát triển và nâng cao hiệu quả các kênh cung ứng vốn khác nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
05/09/2023 2.046 lượt xem
Nguồn vốn cung ứng cho các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) rất đa dạng, thường qua các kênh chính sau: (1) Thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), nguồn vốn cấp dựa trên tài sản qua các hình thức như cho thuê tài chính, thuê mua trả góp, bao thanh toán (nguồn vốn này thường được cung cấp bởi các TCTD phi ngân hàng); (2) Thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng qua việc sử dụng các công cụ vốn; (3) Nguồn vốn trực tuyến (cho vay ngang hàng, công nghệ tài chính - fintech).
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
30/08/2023 2.564 lượt xem
Kinh tế ban đêm (night - time economy) đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có ngành du lịch phát triển, trong đó có Việt Nam. Đề án phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 1129/QĐ-TTg ngày 27/7/2020 nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng phát triển kinh tế ban đêm, tận dụng tối đa cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống của người dân.
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
04/08/2023 5.786 lượt xem
Trong những năm qua, Việt Nam liên tục đạt được những bước phát triển tích cực, luôn đứng trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển nhanh, vị thế trên trường quốc tế ngày càng cao; đời sống người dân được nâng lên, thứ tự năng lực cạnh tranh quốc tế được cải thiện, trong đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tích cực đã có nhiều đóng góp lớn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam suốt giai đoạn vừa qua.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
01/08/2023 6.201 lượt xem
Trong nửa đầu năm 2023, bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều gam màu trầm dưới tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới và những khó khăn nội tại của kinh tế trong nước. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 3,72%, là mức thấp nhất trong giai đoạn từ năm 2011 tới nay (nếu loại trừ năm 2020 do tác động của dịch Covid-19).
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay  của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
28/07/2023 4.573 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (Thông tư số 06). Thông tư số 06 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2023.
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
21/07/2023 5.084 lượt xem
Để bắt kịp xu thế của thời đại, các công ty nói chung và ngân hàng nói riêng phải tiến hành chuyển đổi số. Nếu không số hóa trong quá trình kinh doanh, không áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động đầu tư hằng ngày thì lĩnh vực ngân hàng Việt Nam có nguy cơ tụt hậu và chậm phát triển so với thế giới. Bài viết tổng hợp cách tiếp cận và kinh nghiệm về chuyển đổi số tại một số tổ chức trên thế giới, từ đó khuyến nghị về chính sách pháp lí góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
18/07/2023 4.908 lượt xem
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-NHNN ngày 30/6/2023 quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh (Thông tư số 08), áp dụng với các đối tượng gồm: Người cư trú là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam là bên đi vay nước ngoài (gọi chung là bên đi vay); TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nơi bên đi vay mở tài khoản vay, trả nợ nước ngoài (gọi chung là ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản).
Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác và một số kiến nghị hoàn thiện
Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác và một số kiến nghị hoàn thiện
10/07/2023 5.236 lượt xem
Luật Hợp tác xã năm 2012 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?