Cho vay ngang hàng, kinh nghiệm Trung Quốc, Indonesia và khuyến nghị đối với Việt Nam
11/05/2020 5.692 lượt xem
Thời gian qua, sự bùng nổ ứng dụng thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực công nghệ tài chính (fintech) trên thế giới và tại Việt Nam đã thúc đẩy nhiều sản phẩm, dịch vụ, hoạt động mới sáng tạo cao trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, trong đó có hoạt động cho vay ngang hàng (P2P Lending).
 
P2P Lending được xây dựng trên nền tảng công nghệ chuỗi khối (block chain), kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay (nhà đầu tư) thông qua nền tảng giao dịch trực tuyến (P2P Lending Platform) mà không thông qua trung gian tài chính. Toàn bộ hoạt động vay, trả nợ (gốc, lãi) giữa người đi vay và người cho vay được nền tảng giao dịch trực tuyến ghi nhận và lưu trữ bằng các bản ghi điện tử, số hóa. Bên cạnh chức năng kết nối trung gian thông tin nêu trên, một số công ty P2P Lending có thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ người đi vay và cho vay: định danh khách hàng (e-KYC), chấm điểm tín nhiệm, định giá khoản vay và tài sản đảm bảo, mua/bán lại khoản vay, thu hồi nợ...

P2P Lending gia tăng khả năng tiếp cận vốn trong xã hội nhất là cá nhân, tổ chức có thu nhập thấp hoặc không có khả năng, điều kiện chứng minh năng lực tài chính, năng lực trả nợ với ngân hàng, các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (SMEs) chưa hoặc không tiếp cận được tín dụng chính thống từ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, P2P Lending tiềm ẩn rủi ro có thể tác động bất lợi đến an ninh kinh tế và ổn định xã hội.
 
Sự phát triển mạnh mẽ của P2P Lending tạo thách thức đáng kể đối với các nhà quản lý trên phạm vi toàn cầu. Quan điểm nên hay không nên xây dựng quy định pháp luật mới quản lý P2P Lending là chưa rõ ràng, nên đã dẫn tới khoảng cách chính sách giữa các ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ và các fintech phát triển nhanh nhưng thiếu khung pháp lý. Một số quốc gia (Đức, Mỹ, Hà Lan, Úc…) ủng hộ quản lý P2P Lending dựa trên quy định sẵn có hoặc điều chỉnh các quy định sẵn có, trong khi nhiều quốc gia (Indonesia, Malaysia, Trung Quốc...) tiếp cận chủ động hơn khi xây dựng các quy định riêng cho lĩnh vực này. Bên cạnh xu hướng ủng hộ, cũng có quan điểm bảo thủ đối với lĩnh vực này, mặc dù đây không phải là xu thế chính. Bài viết này tổng hợp bài học quản lý nhà nước trong lĩnh vực P2P Lending của các nước có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng như Việt Nam, qua đó rộng đường dư luận trong việc xây dựng khung pháp lý tại Việt Nam đối với hoạt động này.
 
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 
 
Hoạt động Fintech tại Trung Quốc phát triển mạnh mẽ ở ba lĩnh vực, gồm thanh toán trực tuyến, P2P Lending và đầu tư. Trung Quốc là thị trường lớn nhất thế giới về thanh toán số, chiếm gần 50% toàn cầu. Trung Quốc cũng thống lĩnh mảng cho vay trực tuyến, chiếm tới 3/4 thị trường thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh các ngân hàng sở hữu nhà nước tập trung cho vay doanh nghiệp nhà nước; hạn chế cho vay cá nhân nên tạo điều kiện cho P2P Lending phát triển.
 
P2P Lending tại Trung Quốc tăng trưởng nhanh và có quy mô lớn nhất trên thế giới. Số nhà cung cấp dịch vụ đã tăng gấp nhiều lần so với thời điểm năm 2006 khi nền tảng P2P Lending đầu tiên của Trung Quốc (Creditease) thành lập và tập trung chủ yếu vào 04 khu vực kinh tế phát triển của Trung Quốc là Quảng Đông, Bắc Kinh, Thượng Hải và Chiết Giang (chiếm 63% thị phần). Cuối năm 2011, số lượng công ty P2P Lending tăng lên 214 và liên tục tăng trưởng mạnh mẽ, với hơn 6.000 nền tảng được mở (theo Online Lending House). Theo Bloomberg:[1] P2P Lending ở Trung Quốc có khoảng 50 triệu người đăng ký và tổng giá trị giao dịch đạt hơn 190 tỷ USD, trở thành quốc gia phát triển nhanh và lớn nhất trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, giai đoạn đầu, nhà quản lý hoàn toàn không giám sát lĩnh vực này, dẫn đến hoạt động của một số công ty (được gọi là ngân hàng ngầm - shadow banking) mang đến nhiều hệ lụy cho nền kinh tế: khoảng 6.000 công ty được hình thành, đến nay một số hoạt động tốt nhưng có trên 2.000 công ty hoạt động theo mô hình xác sống (ponzi) với nhiều dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tiền của cả người cho vay lẫn người đi vay (tại các công ty ngoài cung cấp sàn giao dịch thì thực hiện cả chức năng trung gian thanh toán cho nhà đầu tư và người đi vay), tính đến tháng 2/2018, chỉ còn chưa đến 2.000 công ty còn tồn tại và hoạt động trong lĩnh vực này. Theo ông Maurizio - Giám đốc công ty Finetiq Ltd,2 hơn 95% nền tảng P2P lending ở Trung Quốc là giả mạo. Chính điều đó đã thúc đẩy Trung Quốc có chính sách siết chặt quản lý loại hình này. 

 
Trong xu thế hội nhập chung toàn cầu cần khuyến khích doanh nghiệp áp dụng đổi mới, 
sáng tạo công nghệ số trong hoạt động tài chính, đảm bảo phù hợp với môi trường pháp lý 
 
1.1. Mô hình vận hành P2P Lending
 
Trung Quốc phát triển cả ba mô hình vận hành phổ biến trên thế giới, gồm: mô hình P2P Lending truyền thống, mô hình P2P Lending hợp tác với ngân hàng và mô hình P2P Lending cam kết lợi nhuận. Đặc biệt, mô hình P2P Lending cam kết lợi nhuận phát triển mạnh mẽ trong thời gian đầu Trung Quốc chưa áp dụng các biện pháp kiểm soát.
 
1.2. Cơ chế quản lý
 
1.2.1. Cơ quan quản lý
 
Chính phủ Trung Quốc đã ban hành, triển khai nhiều chính sách, biện pháp để quản lý, hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động P2P Lending. Năm 2016, Trung Quốc thành lập cơ quan quản lý chuyên trách là Hiệp hội Internet Trung Quốc phối hợp với Ủy ban giám sát và quản lý ngân hàng Trung Quốc (CBRC), Bộ Công nghiệp thông tin, Bộ Công an để quản lý hoạt động P2P Lending. 
 
1.2.2. Mục tiêu và quan điểm quản lý
 
P2P Lending giúp người dân và doanh nghiệp SMEs có thêm một kênh vay vốn, qua đó thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện. Vì vậy, thời gian đầu, Chính phủ Trung Quốc hoàn toàn không kiểm soát P2P Lending, tạo điều kiện cho P2P Lending phát triển. Tuy nhiên, việc thiếu giám sát đã tạo điều kiện cho nhiều nền tảng P2P Lending gian lận, tạo quỹ bất hợp pháp, quảng cáo sai sự thật; nhiều nền tảng phá sản, làm mất tiền của nhà đầu tư. Trước những hệ lụy xấu mà các công ty P2P Lending mang lại cho nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã chuyển từ quan điểm không quản lý sang siết chặt quản lý, giám sát hoạt động này. Thậm chí, cơ quan chức năng Trung Quốc phát thông điệp cảnh báo người cho vay nên chuẩn bị tinh thần mất trắng số tiền đầu tư vào các sản phẩm lợi suất cao. 
 
1.2.3. Khung pháp lý quản lý P2P Lending
 
Trung Quốc không chỉ quy định việc vận hành nền tảng P2P Lending mà còn quy định cả việc cho vay và đi vay của nhà đầu tư và người đi vay. Cụ thể như sau:
 
- Ngày 24/8/2016, CBRC công bố “Các biện pháp tạm thời về quản lý thông tin P2P Lending giữa các bên trung gian”, nêu rõ 12 “ranh giới đỏ” mà các công ty P2P Lending không được làm. Sau thời gian chuyển tiếp 12 tháng, tất cả các nền tảng P2P Lending không được phép gửi tiền, cho vay, quảng cáo ngoại tuyến và quản lý các sản phẩm tài chính.  “Các biện pháp tạm thời về quản lý thông tin P2P Lending giữa các bên trung gian” là công cụ đầu tiên được ban hành cho thị trường này, thiết lập chế độ điều tiết toàn diện, có hệ thống; gồm 47 điều khoản, chia thành năm phần, điều chỉnh tất cả các vấn đề của ngành cho vay trực tuyến. Không tuân thủ quy định này có thể bị phạt hành chính hoặc hình sự.
 
- Đầu năm 2018, Chính phủ Trung Quốc yêu cầu địa phương tổng điều tra, tiến hành đăng ký, cấp phép đối với toàn bộ các nền tảng, đồng thời đưa ra 10 biện pháp giảm thiểu rủi ro từ hoạt động này, gồm: Chính quyền địa phương phải thiết lập kênh đối thoại để phản hồi yêu cầu của nhà đầu tư, kiểm tra các nền tảng này. Chính quyền địa phương không được cấp phép cho bất kì nền tảng mới nào. Những người vay tiền chây ì trả nợ sẽ bị đưa vào danh sách đen trong hệ thống xếp hạng tín dụng. Hoạt động tuyên truyền cũng được đẩy mạnh để nâng cao nhận thức rộng rãi về mức độ rủi ro của hoạt động P2P Lending. Bộ Giáo dục Trung Quốc phối hợp với CBRC ban hành “Thông báo về công tác hướng dẫn tăng cường giáo dục và phòng ngừa rủi ro từ mô hình P2P Lending”, “Biện pháp thi hành tạm thời hoạt động quản lý nghiệp vụ với hoạt động P2P Lending” để định hướng cho các cơ quan thông tin, truyền thông về chủ trương của Chính phủ đối với hoạt động P2P Lending.
 
 1.2.4. Kết quả sau siết chặt quản lý
 
Số doanh nghiệp P2P lending giảm nhanh chóng, từ khoảng 3.500 doanh nghiệp năm 2015 xuống còn 2.500 doanh nghiệp năm 2016, 2.000 doanh nghiệp năm 2017 và hiện nay, còn khoảng 1.500 doanh nghiệp. Theo Yingcan Group có trụ sở tại Thượng Hải, từ đầu tháng 7/2017 đến 20/7/2018, ít nhất 118 nền tảng đã sụp đổ. Vì vậy, hiện nay, nhiều nền tảng của Trung Quốc có xu hướng thay đổi, dịch chuyển ra nước ngoài, đặc biệt là sang khu vực ASEAN. 
 
2. Kinh nghiệm của Indonesia
 
So với các quốc gia khác, Fintech ở Indonesia mới phát triển gần đây nhưng tăng trưởng đáng kể. Số lượng công ty Fintech tăng liên tục, từ 50 năm 2016 lên 262 năm 2017, tập trung chủ yếu vào thanh toán (38%), cho vay (31%), huy động vốn (4%), Blockchain (2%), quản lý tài chính cá nhân (8%)… Mô hình P2P Lending xuất hiện ở Indonesia từ năm 2016, với công ty Investree, Modalku, Koin Works, Amathar, Mekar và Crowdo. Đến tháng 6/2018, có 64 công ty đăng kí hoạt động với Cơ quan Dịch vụ tài chính Indonesia (OJK).
 
2.1. Mô hình P2P Lending 
 
Đối tượng vay vốn từ các nền tảng P2P Lending ở Indonesia gồm cá nhân, doanh nghiệp SMEs. Nền tảng P2P Lending ở Indonesia tập trung vào 02 mô hình chủ yếu sau: 
 
- Mô hình P2P Lending truyền thống: Các nền tảng đóng vai trò trung gian kết nối người đi vay và người cho vay; người cho vay tự quyết định cho vay và chịu mọi rủi ro. Tuy nhiên, ngoài đóng vai trò trung gian kết nối, nền tảng P2P Lending còn vận hành hệ thống quản lý rủi ro, đánh giá tín dụng và ấn định lãi suất cho vay. 
 
- Mô hình P2P Lending hợp tác với ngân hàng: Ngân hàng đóng vai trò là bên cho vay, nền tảng P2P Lending là trung gian kết nối ngân hàng và khách hàng vay, thường chỉ khách hàng đáp ứng yêu cầu từ hệ thống đánh giá rủi ro của nền tảng P2P Lending thì mới được gửi đến ngân hàng. 
 
2.2. Cơ chế quản lý
 
2.2.1. Cơ quan quản lý 
 
Hoạt động Fintech ở Indonesia chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung ương Indonesia (BI) và OJK. BI ban hành chính sách liên quan đến hoạt động thanh toán và khung pháp lý thử nghiệm (sandbox) cho các công ty Fintech trong lĩnh vực thanh toán. OJK giám sát, điều tiết khu vực dịch vụ tài chính kể cả hoạt động P2P Lending, huy động vốn từ cộng đồng (crowdfunding), ngân hàng số (digital banking), công nghệ bảo hiểm (Insurtech), hoạt động Fintech thị trường vốn, tài trợ trực tuyến, an ninh dữ liệu và bảo vệ người tiêu dùng. 
 
2.2.2. Mục tiêu quản lý
 
Đối với OJK, sự đa dạng của dịch vụ Fintech là cơ hội để thúc đẩy tài chính toàn diện. Fintech là cầu nối mở rộng việc tiếp cận dịch vụ tài chính cho tất cả các đối tượng trong xã hội Indonesia. Vì vậy, Fintech phải được phát triển để Indonesia đạt mục tiêu tài chính toàn diện.
 
2.2.3. Quan điểm quản lý [3]
 
Nếu thiết lập quy tắc quá chặt chẽ, Fintech khó phát triển. Tuy nhiên, kiểm soát lỏng lẻo sẽ gây rủi ro cho khách hàng. Vì vậy, OJK xây dựng khung quản lý cho phép Fintech tăng trưởng bền vững, đạt mục tiêu tài chính toàn diện, bảo vệ được khách hàng.
 
Một là, OJK ban hành quy tắc khi dịch vụ hoặc sản phẩm tài chính đã phát triển trên thị trường, nhưng không có quy định chi phối. Hai là, các quy định được ban hành nhằm mục đích hỗ trợ thị trường, hoặc để phát triển ngành công nghiệp và thị trường trong tương lai. Quy tắc được OJK tuân thủ khi ban hành Quy định số 77/ POJK.01 /2016 (POJK 77) về dịch vụ cho vay dựa trên nền tảng công nghệ thông tin. OJK yêu cầu tất cả các công ty P2P Lending phải đăng ký (trạng thái đăng ký thường chỉ có hiệu lực trong một năm). Để có giấy phép hoạt động P2P Lending, công ty Fintech phải đáp ứng 11 thủ tục vận hành chuẩn (SOP); nếu không thể đáp ứng các yêu cầu, trạng thái đăng ký của công ty sẽ bị hủy. 
 
2.2.4. Khung pháp lý [4]
 
POJK77 đặt ra một số yêu cầu đối với nền tảng, người đi vay, người cho vay và các quy định quản lý rủi ro; cụ thể:
 
(i) Đối với nền tảng: Để được cung ứng hoạt động P2P Lending, các nền tảng phải tuân thủ các quy định: 
 
- Đăng ký với OJK và trong vòng 1 năm sau khi đăng ký họ có thể có được giấy phép P2P Lending nếu đáp ứng các yêu cầu về mặt cấp phép.
- Hạn chế sở hữu nước ngoài trong các công ty P2P Lending (tỷ lệ sở hữu tối đa là 85%, bao gồm cả sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp).
- Có số vốn tối thiểu là 1 tỷ IDR - Rupiah khi đăng ký và tối thiểu là 2,5 tỷ IDR khi đăng ký giấy phép P2P Lending.
- Đặt máy chủ ở Indonesia; duy trì một hệ thống điện tử an toàn và đáng tin, đảm bảo an toàn thông tin và bảo vệ dữ liệu khách hàng.
- Nộp báo cáo định kỳ cho OJK (hàng tháng và hàng năm).
- Thành phần ban lãnh đạo công ty cần có ít nhất 1 Giám đốc và 1 ủy viên có kinh nghiệm ít nhất 1 năm trong ngành/lĩnh vực dịch vụ tài chính.
- Sử dụng nguồn nhân lực có chuyên môn và/hoặc có nền tảng về công nghệ thông tin.
- Các công ty P2P phải ký quỹ và có tài khoản định danh tại ngân hàng trong thời gian hoạt động; có quy trình vận hành chuẩn đối với chứng từ điện tử.
- Thực hiện các nguyên tắc cơ bản về bảo vệ người dùng, đảm bảo tính minh bạch, công bằng, bảo mật dữ liệu và an ninh mạng cũng như thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản, dễ dàng.
- Thực hiện chương trình phòng chống rửa tiền và chống khủng bố; cung cấp thông tin về khoản vay cho người cho vay và người đi vay.
- Sử dụng các thuật ngữ, cụm từ và/hoặc ngôn ngữ Indonesia, đảm bảo dễ đọc, dễ hiểu trong các chứng từ điện tử.
- Phải đăng ký làm thành viên của hiệp hội theo chỉ định của OJK.
- Nghiêm cấm công ty P2P Lending cung cấp bất kỳ sự bảo đảm nào (mặc dù OJK cho phép người bảo lãnh trong mô hình P2P Lending cung cấp bảo lãnh); đồng thời, quy định cũng yêu cầu công ty P2P Lending phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất nào do lỗi hoặc sơ suất của giám đốc hoặc nhân viên của công ty mình; tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác ngoài các hoạt động trong phạm vi kinh doanh của mình; hoạt động như người cho vay hoặc người đi vay; phát hành các phiếu ghi nợ; giới thiệu người cho vay hoặc người đi vay; quảng cáo sai sự thật hoặc cung cấp thông tin sai lệch; thu phí từ người cho vay và người đi vay khi họ nộp đơn khiếu nại.
- Khi mua lại một công ty P2P Lending, POJK77 yêu cầu phải có sự đồng ý trước từ OJK cho bất kỳ thay đổi nào trong cổ phần của công ty P2P Lending.
- OJK đưa ra các biện pháp trừng phạt hành chính, từ các lá thư cảnh báo đến thu hồi giấy phép kinh doanh P2P Lending đối với các trường hợp vi phạm.
 
(ii) Đối với người đi vay (khách hàng):
 
POJK77 quy định chỉ những công dân Indonesia cư trú ở Indonesia mới đủ điều kiện là người đi vay. Số tiền vay tối đa cho mỗi người đi vay là mức 2 tỷ IDR (hoặc khoảng 160.000 USD). Bên cạnh đó, POJK77 yêu cầu hai thỏa thuận riêng biệt phải được ký kết giữa các bên: (1) thỏa thuận giữa bên cho vay và công ty P2P Lending; và (2) thỏa thuận giữa bên cho vay và bên đi vay. Cả hai thỏa thuận phải được thực hiện theo quy định trong POJK77, trong đó có các thông tin về số tiền vay (bao gồm số tiền phạt trong trường hợp chậm thanh toán), lãi suất, quyền và nghĩa vụ của các bên và cơ chế giải quyết tranh chấp; hình thức của các thỏa thuận là thỏa thuận điện tử và chữ ký điện tử.
 
2.2.5. Kể từ khi POJK77 được ban hành, hoạt động cho vay thông qua mô hình P2P Lending có xu hướng tăng lên. Tính tới tháng 6/2018, có 64 công ty đăng kí hoạt động với OJK. Tuy nhiên, có tới 227 nhà cung cấp chưa có giấy phép kinh doanh và ít nhất một nửa trong số đó có nguồn gốc từ Trung Quốc và tới đầu tháng 9/2018, số lượng các công ty P2P Lending hoạt động trái phép đã lên tới 407 công ty. Hiện nay, có khoảng 600.000 nhà đầu tư thông qua mô hình P2P Lending. Con số này tương đương với các nhà đầu tư trong thị trường vốn. 
 
Sau khi ban hành Quy định số 77 /POJK.01/2016, OJK hiện nay đang soạn thảo một quy tắc bao trùm cho toàn ngành công nghiệp Fintech. Ngược lại, với POJK 77, quy định về hoạt động P2P Lending, dự thảo này bao gồm ba giai đoạn phát triển Fintech. Giai đoạn đầu yêu cầu các công ty Fintech đăng ký để OJK theo dõi phát triển kinh doanh. Các yêu cầu đăng ký rất đơn giản; công ty Fintech chỉ cần cung cấp dữ liệu. Giai đoạn tiếp theo là thử nghiệm quy trình kinh doanh trong sandbox. Sau khi xem xét quá trình và quy mô kinh doanh của các công ty đăng ký, OJK chọn công ty có tiềm năng tăng trưởng cho phép các công ty này hoạt động trong môi trường sandbox đó. Với việc thiết lập môi trường sandbox, OJK giám sát và nuôi dưỡng các công ty Fintech trong phạm vi rộng hơn, yêu cầu các công ty Fintech đáp ứng quy định để có thể phát triển bền vững và cuối cùng là cấp giấy phép kinh doanh chính thức. Thủ tục này tương tự như POJK 77, yêu cầu một công ty Fintech phải được đăng ký trước. Khi yêu cầu về vốn được đáp ứng, công ty P2P Lending có giấy phép từ OJK.
 
2.2.6. Phối hợp của các cơ quan quản lý
 
OJK phối hợp cung cấp dữ liệu đầu vào khi BI ban hành Quy định về Fintech. Khi OJK soạn thảo quy tắc chi phối ngành công nghiệp Fintech, thì OJK cũng yêu cầu dữ liệu đầu vào từ BI. Đối với các vấn đề về công nghệ, OJK phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông. Đối với các vấn đề liên quan đến kinh doanh, OJK phối hợp với BI, Bộ Tài chính và Bộ Hợp tác Kinh tế. Sự hợp tác giữa các cơ quan chính phủ được cải thiện vì ngành công nghiệp Fintech có nhiều nghiệp vụ đan xen của nhiều cơ quan chính phủ. Mặc dù vậy, trong thực tế tại Indonesia chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan chính phủ trong quá trình thúc đẩy Fintech phát triển. Chính vì vậy, OJK dự định thành lập và khởi động một trung tâm Fintech để các nhà tổ chức kinh doanh Fintech, các viện nghiên cứu, hiệp hội, nhà đầu tư, khách hàng và các nhà quản lý tập hợp, tìm kiếm thông tin, thảo luận và tham vấn lẫn nhau. Từ đó, các bên liên quan phối hợp, đề xuất điều chỉnh các quy định về Fintech của BI và OJK. 
 
3. Bài học và khuyến nghị chung
 
Trung Quốc và Indonesia đều trải qua quan điểm từ không quản lý sang quản lý, cấp phép chặt chẽ đối với P2P Lending. Các quy định quản lý tại các quốc gia này nhìn chung đều tập trung vào 3 vấn đề chính: Quy định về tiêu chuẩn cấp phép; quy định về giới hạn đầu tư/cho vay của nhà đầu tư; quy định hoạt động và giám sát đối với tổ chức cung cấp nền tảng và hoạt động giám sát công bố thông tin. Qua đó cho thấy, mức độ cấp phép của các quốc gia là rất đa dạng và khác nhau; phụ thuộc vào cả hình thức và dịch vụ mà nền tảng đó cung cấp. Ngoài ra, cơ quan quản lý, cấp phép tại các quốc gia cũng rất khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm pháp lý tại từng quốc gia. Mặc dù có sự khác biệt, nhưng đến nay, Trung Quốc và Indonesia cũng như các quốc gia khác trên thế giới đều xem P2P Lending là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện và phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép. 
 
Tương tự Trung Quốc, Indonesia và các quốc gia khác đã và đang trải qua, Việt Nam cũng cùng xu thế hội nhập chung toàn cầu và trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của Fintech nên cần có sự chuẩn bị và nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường, kinh nghiệm quốc tế để giảm thiểu những hạn chế, bất lợi phát sinh từ P2P Lending; khai thác, tận dụng có hiệu quả, lợi ích từ lĩnh vực này nhằm hỗ trợ phát triển tài chính toàn diện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Theo đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần triển khai một số giải pháp nhằm khuyến khích đổi mới, sáng tạo, đảm bảo phù hợp với môi trường pháp lý và yêu cầu quản lý; cụ thể:
 
(1) Lựa chọn mục tiêu quản lý P2P Lending và mô hình hoạt động P2P Lending phù hợp với điều kiện Việt Nam. Trên cơ sở đó, xác định cụ thể cơ quan quản lý, cách thức vận hành, các biện pháp quản lý cả ở tầm vi mô lẫn vĩ mô để đảm bảo vận hành hoạt động P2P Lending hiệu quả, an toàn, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới.
 
(2) Rà soát, đánh giá khuôn khổ pháp lý hiện hành để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới chính sách điều chỉnh hoạt động P2P Lending như một hoạt động kinh doanh có điều kiện.
 
[1] http://cafef.vn/dich-vu-cho-vay-ngang-hang-p2p-tiem-an-qua-nhieu-rui-ro-20180723065637491.chn
[2] http://cafef.vn/cho-vay-ngang-hang-nhan-dien-tiem-nang-rui-ro-20180926102324834.chn
[3] http://www.wplaws.com/news/glimpse-fintechp2p-regulations-indonesia
[4] http://www.wplaws.com/news/glimpse-fintechp2p-regulations-indonesia
 
Tài liệu tham khảo:
1. ADB and OJK Publication (2017) Fintech Report, Chapter XI: OJK’s role in FinTech Development in Indonesia. 
2. Daniel Adriana (2018) Regulating P2P Lending Indonesia: Lessons Learned from the case of China and India. 
3. Deer, L., Mi, J., & Yuxin, Y. (2015). The rise of peer-to-peer lending in China: An overview and survey case study. 
4. PWC (2017) Global Fintech Survey China Sumary.
5. PBOC (People’s Bank of China) (2015a), Guiding Opinions on Promoting the Healthy Development of Internet Finance. 
6. http://www.wplaws.com/news/glimpse-fintechp2p-regulations-indonesia
7.http://cafef.vn/dich-vu-cho-vay-ngang-hang-p2p-tiem-an-qua-nhieu-rui-ro-20180723065637491.chn
8. http://cafef.vn/cho-vay-ngang-hang-nhan-dien-tiem-nang-rui-ro-20180926102324834.chn

Bùi Thúy Hằng

(Nguồn: TCNH số 13/2019)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
08/07/2024 1.312 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, trình bày những khó khăn và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
03/07/2024 1.846 lượt xem
Mục tiêu của bài viết nhằm xem xét cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống thông qua những quy định hiện hành tại một số quốc gia; qua đó, đưa ra các hàm ý đối với Việt Nam.
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
19/06/2024 2.475 lượt xem
Dựa trên dữ liệu được thu thập từ các báo cáo về tài chính toàn diện của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ tài chính số tại 19 quốc gia châu Á từ phía chủ thể cung cấp và chủ thể tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
06/06/2024 3.335 lượt xem
Trong kỉ nguyên của công nghệ số, sự xuất hiện của một hình thức tiền tệ số hay tiền mã hóa là hoàn toàn cần thiết để đáp ứng sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ (Milutinovic, 2018). Tiền mã hóa sử dụng công nghệ mã hóa và chuỗi khối (Blockchain) để bảo đảm tính an toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính.
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
24/05/2024 4.206 lượt xem
Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) là những định chế tài chính phát triển lớn, thành công trên thế giới...
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
20/05/2024 4.298 lượt xem
Đi đôi với phát triển kinh tế, Trung Quốc dần hình thành và triển khai chiến lược bài bản xây dựng và củng cố sức mạnh tài chính - tiền tệ với trọng tâm là phát triển CNY trở thành đồng tiền quốc tế...
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
16/05/2024 5.885 lượt xem
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
08/05/2024 4.942 lượt xem
Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây rất nhiều khó khăn, tổn thất về người, kinh tế cho các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, công bố các chỉ tiêu ESG (Enviromental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong nhiều năm qua luôn thu hút được sự đồng hành của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 5.729 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 7.409 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 9.051 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 27.748 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 10.158 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 14.770 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 10.289 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?