Như một quy luật tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội, sự chuyển biến xu hướng sản xuất, tiêu dùng từ “nâu” sang “xanh” không chỉ là sự thể hiện bước tiến của xã hội trong bối cảnh nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, môi trường suy giảm nghiêm trọng mà còn thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong thúc đẩy mô hình tăng trưởng kinh tế từ nâu sang xanh.
1. Đặt vấn đề
Như một quy luật tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội, sự chuyển biến xu hướng sản xuất, tiêu dùng từ “nâu” sang “xanh” không chỉ là sự thể hiện bước tiến của xã hội trong bối cảnh nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, môi trường suy giảm nghiêm trọng mà còn thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong thúc đẩy mô hình tăng trưởng kinh tế từ nâu sang xanh. Khác với mô hình tăng trưởng nâu, mô hình tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững, là mô hình tăng trưởng phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế.[1] Các trụ cột của tăng trưởng xanh là: i) khoa học và công nghệ hiện đại; ii) sử dụng năng lượng tái tạo thân thiện với môi trường; iii) tiêu dùng hàng hóa, sản phẩm dịch vụ ít gây tổn hại nhất đối với môi trường. Nói cách khác, mô hình tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng có trách nhiệm không chỉ với hiện tại mà còn cả tương lai cũng như với “Mẹ thiên nhiên” là trái đất nơi con người sinh sống. Mục tiêu của tăng trưởng xanh đã được xác định là tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội với ba nhiệm vụ chiến lược là: 1. Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; 2. Xanh hóa sản xuất; 3. Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Để thực hiện được các mục tiêu của phát triển kinh tế xanh, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh ban hành kèm theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/09/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra giải pháp ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh theo tiêu chí tăng trưởng xanh thông qua việc sử dụng hệ thống các công cụ tài chính, tín dụng, thị trường để khuyến khích và hỗ trợ phát triển kinh tế xanh, sản phẩm xanh để từng bước tiến đến xây dựng hệ thống quản lý, giao dịch phát thải khí nhà kính, thuế, phí các-bon. Từ các định hướng mang tính chiến lược cho việc chuyển đổi mô hình kinh tế Việt Nam theo tiêu chí tăng trưởng xanh cho thấy, nguồn tài chính đóng vai trò quan trọng cho việc đạt được các mục tiêu tăng trưởng xanh. Nguồn tài chính cho tăng trưởng xanh bao gồm tài chính của các doanh nghiệp, của các trung gian tài chính.[2] Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam trong các giai đoạn phát triển vừa qua, nguồn vốn tín dụng vẫn chiếm ưu thế hơn so với các nguồn tài chính khác trong việc đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế, trong đó có mục tiêu phát triển kinh tế xanh.
2. Nguồn tài chính cho tăng trưởng xanh: Vốn tín dụng đóng vai trò quan trọng và chủ yếu
Nguồn tài chính cho phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam rất đa dạng. Luật Ngân sách nhà nước quy định chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương (Điểm I, Khoản 3, Điều 36, Luật Ngân sách nhà nước 2015) và ngân sách địa phương (Điểm h, Khoản 2, Điều 38, Luật Ngân sách nhà nước 2015). Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định chi đầu tư phát triển bảo vệ môi trường gồm chi cho các dự án xây dựng, cải tạo công trình xử lý chất thải, xây dựng và trang bị trạm quan trắc và phân tích môi trường do Nhà nước quản lý; đầu tư phương tiện, trang thiết bị phòng ngừa, ứng phó, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo tồn đa dạng sinh học; cải tạo nguồn nước bị ô nhiễm, trồng và chăm sóc cây xanh tại nơi công cộng, khu vực công ích (Khoản 2 Điều 147). Bên cạnh nguồn tài chính trên còn có nguồn tài chính hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua chính sách ưu đãi thuế, đất đai đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ thân thiện với môi trường. Nguồn tài chính hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ thân thiện với môi trường giúp cho các doanh nghiệp này giảm thiểu nguồn tài chính phải nộp cho ngân sách Nhà nước từ đó doanh nghiệp có thêm nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam trong các giai đoạn phát triển vừa qua, nguồn vốn tín dụng vẫn chiếm ưu thế hơn so với các nguồn tài chính khác trong việc đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế, trong đó có mục tiêu phát triển kinh tế xanh.
Nguồn tài chính doanh nghiệp phục vụ cho mục tiêu phát triển xanh đang được tập trung vào việc thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ thân thiện với môi trường. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế đã ý thức được vị trí, tầm quan trọng của việc cung cấp các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, có lợi cho sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là tín hiệu đáng mừng cho việc xây dựng nền kinh tế xanh tại Việt Nam, song, trở ngại lớn nhất là nguồn tài chính doanh nghiệp không thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư cho các dự án sản xuất kinh doanh theo tiêu chí tăng trưởng xanh. Do vậy, nguồn vốn tín dụng tín dụng đóng vai trò quan trọng cho việc khắc phục nhược điểm này. Nguồn vốn tín dụng được cung cấp thông qua hai hình thức: nguồn vốn tín dụng nhà nước thông qua các chương trình hỗ trợ, ưu đãi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường và nguồn vốn tín dụng được thực hiện thông qua nghiệp vụ kinh doanh của tổ chức tín dụng. Ở giai đoạn đầu khi chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, nguồn vốn tín dụng thông qua các chương trình ưu đãi của Nhà nước chiếm ưu thế. Khi nền kinh tế đã phát triển theo tiêu chí tăng trưởng xanh, nguồn vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chiếm ưu thế. Trong giai đoạn này, bảo đảm các tiêu chuẩn môi trường là một trong những tiêu chí để được cấp tín dụng. Pháp luật về cấp tín dụng hiện hành dành quyền chủ động cho tổ chức tín dụng trong việc lựa chọn khách hàng, dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định cấp tín dụng.
3. Khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng xanh: hai bất cập lớn
Hoạt động cung ứng nguồn vốn cho thị trường của tổ chức tín dụng được thực hiện thông qua nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác (Khoản 14 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010). Có hai nhược điểm lớn trong khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng xanh ở Việt Nam có thể nhận thấy là:
Thứ nhất, tiêu chí xanh chưa được đề cập đầy đủ trong khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng. Cụ thể là:
- Pháp luật về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hiện hành chưa có quy định về hoạt động cho vay đối với dự án đầu tư, kinh doanh đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xanh mà chỉ quy định một nguyên tắc cho vay là “Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được thực hiện theo thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, phù hợp với quy định tại Thông tư về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và các quy định của pháp luật có liên quan bao gồm cả pháp luật về bảo vệ môi trường” [3] nên có thể suy luận, tổ chức tín dụng có thể cho bất kỳ khách hàng nào có nhu cầu vay vốn nếu không rơi vào những nhu cầu vốn không được cho vay. Mặt khác, khái niệm “pháp luật về bảo vệ môi trường” cũng rất rộng, vì Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường.[4]
- Thông tư 07/2015/TT-NHNN ngày 25/6/2015 của Ngân hàng Nhà nước quy định về bảo lãnh ngân hàng cũng chỉ dừng lại ở việc quy định về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.[5] Yêu cầu về bảo lãnh ngân hàng phục vụ cho phát triển kinh tế xanh không được đê cập trong điều kiện để được cấp bảo lãnh.[6]
- Đối với hoạt động cho thuê tài chính được xác định là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và cũng chỉ đề cập đến điều kiện để được thực hiện hoạt động cho thuê tài chính.[7]
- Đối với nghiệp vụ bao thanh toán; nghiệp vụ chiết khấu công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác, Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng và Thông tư 04/2013/TT-NHNN ngày 01/03/2013 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác không có quy định ưu tiên hoặc đáp ứng điều kiện về môi trường để được tổ chức tín dụng bao thanh toán khi khách hàng có nhu cầu.
Việc không quy định về phát triển kinh tế xanh trong pháp luật cấp tín dụng hiện hành sẽ dẫn tới hệ quả là tổ chức tín dụng có thể nói không đối với các dự án đầu tư kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xanh. Bởi lẽ, các dự án đầu tư kinh doanh theo yêu cầu tăng trưởng xanh đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm kinh tế xanh cao hơn… Do vậy, trong thực tiễn kinh doanh, các tổ chức tín dụng vẫn chú trọng vào việc tìm kiếm dự án đầu tư kinh doanh có thời gian quay vòng vốn nhanh, khả năng thu hồi vốn được bảo đảm.
Thứ hai, pháp luật cấp tín dụng hiện hành chưa có quy định đầy đủ về sản phẩm tín dụng cho tăng trưởng xanh. Tăng trưởng tín dụng xanh mới chỉ dừng lại ở các biện pháp mang tính khuyến nghị chủ động triển khai xây dựng chương trình, chính sách tín dụng xanh nhằm tăng dần tỷ trọng tín dụng xanh trong cơ cấu danh mục đầu tư tín dụng của tổ chức tín dụng như: i) Xây dựng và triển khai thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh nhằm khuyến khích hoạt động kinh doanh thân thiện với môi trường và xã hội: nghiên cứu và phát triển sản phẩm tín dụng xanh, triển khai các chương trình tín dụng có các chính sách khuyến khích đối với các dự án, phương án sản xuất kinh doanh có mục tiêu tăng trưởng xanh; ii) Cải thiện chất lượng dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng trưởng tín dụng xanh, quan tâm tài trợ các dự án, phương án sản xuất kinh doanh thực hiện tăng trưởng xanh; iii) Tập trung ưu tiên cấp tín dụng xanh cho các ngành kinh tế thực hiện bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sử dụng công nghệ, thiết bị thân thiện với môi trường, sản xuất những sản phẩm thân thiện với môi trường. Do đó, các tổ chức tín dụng chưa đầu tư phát triển sản phẩm tín dụng xanh đáp ứng yêu cầu cần tăng trưởng xanh ở nước ta hiện nay. Việc không quy định về sản phẩm tín dụng xanh là rào cản rất lớn đối với tổ chức, cá nhân có nhu cầu vốn phục vụ cho tăng trưởng xanh.
4. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng xanh ở Việt Nam
4.1. Những khởi động ban đầu cho việc tạo lập chính sách tín dụng xanh
Một trong những nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước được quy định Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20-3-2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020 là: Hoàn thiện thể chế và tăng cường năng lực hoạt động tài chính - tín dụng của các ngân hàng thương mại phục vụ tăng trưởng xanh với ba giải pháp được xác định là:
- Rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế về tài chính và tín dụng cho phù hợp với những mục tiêu tăng trưởng xanh.
- Tổ chức đào tạo, tập huấn nhằm tăng cường năng lực cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trong hoạt động tài chính - tín dụng xanh.
- Xây dựng và phát triển các dịch vụ tài chính - ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tăng trưởng xanh.
Thực tiễn cho thấy, khi yêu cầu phát triển tín dụng xanh được quy định trong các văn bản pháp luật, lúc đó, việc cấp tín dụng cho các dự án sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế xanh phải là trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng, là biện pháp để thực hiện trách nhiệm xã hội trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Nói cách khác, định hướng nguồn vốn tín dụng phục vụ cho phát triển kinh tế xanh chưa được nhìn nhận như một định hướng chiến lược, một kế hoạch dài hạn với nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện. Dưới góc độ định hướng chính sách và hoạt động quản lý, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số văn bản để thực hiện Quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; Quyết định 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020 trong ngành Ngân hàng như:
- Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 06/08/2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020.
- Quyết định số 1604/QĐ-NHNN, ngày 07/8/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
- Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về việc thúc đẩy tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng.
Đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, các tổ chức tín dụng mới chỉ tập trung phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất lượng cao và mạng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời, tiếp cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính, ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ cao theo yêu cầu tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Sản phẩm tín dụng xanh chưa được các tổ chức tín dụng quan tâm xây dựng.
Từ thực trạng trên cho thấy, xây dựng chính sách cho tín dụng xanh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm đề cập như một giải pháp quan trọng cho việc thiết lập cơ sở chính sách cho phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng các văn bản pháp luật để cụ thể hóa các định hướng phát triển tín dụng xanh là bước tiếp theo để hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng xanh đã được xác định đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050.
4.2. Một số vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chính sách tín dụng xanh ở Việt Nam hiện nay
Một là, khuyến khích mọi loại hình tổ chức tín dụng cung cấp tín dụng cho hoạt động phát triển kinh tế xanh, bao gồm hoạt động sản xuất xanh và tiêu dùng xanh. Khi xây dựng khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng xanh cần lưu ý đến đặc thù của từng tổ chức tín dụng để bảo đảm sự tham gia nhiều nhất của các tổ chức tín dụng vào việc cấp tín dụng xanh. Cụ thể:
- Đối với quỹ tín dụng nhân dân,8 tổ chức tài chính vi mô9 xuất phát từ đặc thù về hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nên đặt trọng tâm chính sách tín dụng xanh phục vụ cho cả hoạt động tiêu dùng cũng như hoạt động sản xuất của các thành viên.
- Đối với các tổ chức tín khác thì được cấp tín dụng xanh đối với mọi khách hàng có nhu cầu, nhất là ngân hàng thương mại - được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Hai là, làm rõ nội hàm khái niệm tín dụng xanh. Hiện nay, trong hoạt động ngân hàng thuật ngữ được sử dụng phổ biến là ngân hàng xanh được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp từ đó đưa ra mô hình ngân hàng xanh với năm cấp độ10. Theo chúng tôi, cần tiếp cận từng bước theo hướng xây dựng ngân hàng xanh theo nghĩa hẹp, nghĩa là xác định cụ thể những ngành nghề lĩnh vực được ưu tiên cấp tín dụng nhằm hình thành mảng tín dụng xanh trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng. Khi tín dụng xanh đã được định hình sẽ tiến hành xây dựng ngân hàng xanh theo nghĩa rộng, tức là xây dựng ngân hàng phát triển bền vững trong đó làm rõ và thể hiện nội dung nguyên tắc bảo vệ môi trường trong hoạt động cấp tín dụng là vấn đề quan trọng nhất cần được quan tâm.
Ba là, cụ thể hóa chính sách “Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường”11 để tổ chức tín dụng tham gia được tham gia như một chủ thể cung ứng nguồn vốn tín dụng phục vụ cho phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam. Với quy định này, tổ chức tín dụng chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh góp phần thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang mô hình tăng trưởng hay phát triển kinh tế xanh. Đồng thời với giải pháp trên, pháp luật về cấp tín dụng dụng cần có quy định rõ ràng hơn quy định về quyền từ chối cấp tín dụng đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh là những hành vi bị cấm theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2014.12 Ngoài giải pháp trên cần nghiên cứu thành lập Quỹ tín dụng xanh cấp quốc gia với mục đích huy động nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển tín dụng xanh như hỗ trợ vốn để các tổ chức tín dụng cho vay đối với các dự án xanh; bảo lãnh cho các dự án xanh tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng... Quy định tỷ lệ trích các nguồn thu từ phí thuế bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên, lệ phí bảo vệ môi trường để bổ sung cho nguồn vốn hoạt động của quỹ tín dụng xanh quốc gia.
Bốn là, nghiên cứu xây dựng chính sách lãi suất phù hợp khi thực hiện cấp tín dụng xanh theo hướng ưu tiên hỗ trợ về lãi suất và các điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng đối với các dự án đầu tư thân thiện với môi trường như cấp tín dụng ưu đãi cho dự án giảm CO2, sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, sản phẩm sạch; các dự án tiết kiệm năng lượng, nước, nhiên liệu; để giảm chất thải hoặc ô nhiễm; để xây dựng và khai thác các cơ sở năng lượng tái tạo (địa nhiệt, năng lượng sinh học, thủy điện, năng lượng gió, năng lượng mặt trời…
Năm là, quy định về phòng ngừa rủi ro trong các dự án cấp tín dụng xanh. Hầu hết các dự án kinh tế xanh cần nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, đồng thời, các dự án này cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro. Do đó, nghiên cứu bổ sung các quy định về dự phòng rủi ro khi các tổ chức tín dụng cấp tín dụng cho các dự án đầu tư kinh doanh xanh, thân thiện với môi trường.
Sáu là, về các nghiệp vụ cấp tín dụng nên tập trung vào nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính. Ngoài ra, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp giữa các tổ chức tín dụng trong cấp tín dụng xanh để bảo đảm cung ứng đủ nguồn vốn cho các dự án phát triển kinh tế xanh quy mô lớn, đồng thời giúp giảm thiểu rủi ro cho hoạt động cấp tín dụng xanh.
-----------
[1] Xem thêm:
- Trần Ngọc Ngoạn, Chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
- Kim Ngọc, Nguyễn Thị Kim Thu, Xu hướng phát triển kinh tế xanh trên thế giới, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 5(90)-2015, tr.9-17.
[2] Xem:
- Viên Thế Giang, Tài chính cho phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam: Khuôn khổ chính sách, pháp luật và thực tiễn thực thi, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ (Đại học quốc gia TP.HCM), tập 20, Q.2, 2017, tr.55-69.
- The Inquiry, UNEP, Green Finance for Devloping coutries: Needs, Concerns and Innovations, May, 2016.
[3] Khoản 1 Điều 4 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
[4] Điều 1 Luật Bảo vệ môi trường 2014.
[5] Thông tư số 13/2017/TT-NHNN ngày 29/09/2017 của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25 tháng 6 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng cũng không có quy định nào thể hiện nội dung TCTD bảo lãnh cho tổ chức, cá nhân phát triển kinh tế xanh được vay vốn ngân hàng để thực hiện các dự án đầu tư kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xanh.
[6] Theo quy định tại Điều 10 Thông tư 07/2015/TT-NHNN ngày 25/6/2015 của Ngân hàng Nhà nước quy định về bảo lãnh ngân hàng thì Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, quyết định cấp bảo lãnh, bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh cho khách hàng khi khách hàng có đủ các điều kiện
sau đây:
(1) Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
(2) Nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ tài chính hợp pháp.
(3) Được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp bảo lãnh đánh giá có khả năng hoàn trả lại số tiền mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải trả thay khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
[7] Điều 113 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định một trong những điều kiện để được cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính là:
(1) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;
(2) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại thời điểm mua lại;
(3) Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó;
(4) Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
[8] Theo quy định Khoản 6 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 thì Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
[9] Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010: Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
[10] Nguyễn Thị Minh Huệ, Trần Thị Thanh Tú trong nghiên cứu “Vai trò và các sản phẩm của ngành ngân hàng hướng tới phát triển và đầu tư xanh (ngân hàng xanh)” cho rằng: Theo nghĩa rộng ngân hàng xanh là ngân hàng bền vững, trong đó, các quyết định đầu tư cần nhìn vào bức tranh lớn và hành động một cách có lợi cho người tiêu dùng, kinh tế, xã hội và môi trường. Ngân hàng chỉ có thể phát triển bền vững nếu đặt các lợi ích của ngân hàng gắn liền với các lợi ích của xã hội, môi trường. Theo nghĩa hẹp, “Ngân hàng xanh” chỉ các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm phát thải cacbon. Nói cách khác, Ngân hàng xanh là ngân hàng khi cung cấp các dịch vụ có gắn với các cam kết về môi trường hoặc đầu tư cho vay sản xuất xanh, sạch.
Mô hình Ngân hàng xanh 5 cấp độ, cụ thể là: Cấp độ 1: Thực hiện các hoạt động phụ, bằng cách tài trợ cho các sự kiện “xanh” và tham gia các hoạt động công cộng (hầu hết các ngân hàng đều đang ở cấp độ này); Cấp độ 2: Tách bạch phát triển dự án và hoạt động kinh doanh, trong đó, ngân hàng phát triển thêm các sản phẩm và dịch vụ xanh riêng biệt (chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ) bổ sung vào danh mục các sản phẩm ngân hàng truyền thống; Cấp độ 3: Hoạt động kinh doanh có hệ thống, trong đó, hầu hết các quy trình, sản phẩm của ngân hàng đều tuân thủ nguyên tắc “xanh”, cơ cấu tổ chức của ngân hàng được thiết kế để hỗ trợ tác động “xanh” ở trên 4 giác độ: con người, quy trình, nguyên tắc và mục đích; Cấp độ 4: Sáng kiến cân bằng hệ sinh thái tầm chiến lược, hoạt động ngân hàng xanh không chỉ giới hạn ở phạm vi các nghiệp vụ đơn lẻ mà được mở rộng thành mạng lưới, liên minh, đối thoại cộng đồng, hay toàn hệ sinh thái nhằm đạt được tính bền vững của các yếu tố xã hội - môi trường và tài chính và Cấp độ 5: Sáng kiến cân bằng hệ 4 sinh thái chủ động, trong đó, các hoạt động ngân hàng xanh tương tự như cấp độ 4 song được thực hiện một cách chủ động, có mục đích, chứ không phải là hoạt động ứng phó sự thay đổi bên ngoài như sáng kiến tầm chiến lược ở cấp độ 4.
Nguồn:http://gdprte.ueb.edu.vn/Fuploads/Vai%20tro%20cua%20Ngan%20hang%20xanh%20huong%20toi%20phat%20trien%20va%20dau%20tu%20xanh.pdf
[11] Khoản 5 Điều 5 Luật Bảo vệ môi trường 2014.
[12] Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường 2014, các hành vi bị cấm bao gồm:
- Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ, phương pháp hủy diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật.
- Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí.
- Đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật.
- Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
- Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
- Nhập khẩu, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.
- Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
TS. Viên Thế Giang
ThS. Võ Thị Mỹ Hương
TCNH số 23/2019