Phát huy vai trò huy động vốn của thị trường tài chính đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
24/09/2019 13.184 lượt xem
Trong những năm vừa qua, lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp 48% vào GDP cả nước và tạo ra 50% số lượng việc làm của toàn nền kinh tế.
 
Lời mở đầu 
 
Trong những năm vừa qua, lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp 48% vào GDP cả nước và tạo ra 50% số lượng việc làm của toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các DNNVV vẫn còn một số hạn chế nhất định như: trình độ công nghệ lạc hậu, mô hình quản trị doanh nghiệp còn yếu, năng suất lao động thấp, kém minh bạch về thông tin,... Những nhược điểm này phần nào đã hạn chế khả năng tiếp cận những nguồn vốn trên thị trường tài chính của các DNNVV như: phát hành chứng khoán, tìm kiếm nguồn vốn từ đối tác chiến lược, thu hút vốn từ các quỹ đầu tư... Theo số liệu thống kê, kênh tín dụng ngân hàng hiện vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu đầu tư mở rộng kinh doanh của các DNNVV. Điều này, một mặt, sẽ gây cản trở cho quá trình phát triển bền vững của các DNNVV, mặt khác, cũng gây ra những áp lực về thanh khoản cho hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Vì vậy, trong bài viết này, tác giả tiến hành nghiên cứu thực trạng các kênh huy động vốn tại Việt Nam trong thời gian qua để từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác trên thị trường tài chính cho DNNVV thời gian sắp tới.
 
1. Thực trạng các kênh huy động vốn cho DNNVV tại Việt Nam
 
Một cách khái quát, vốn cung ứng cho các DNNVV thường được huy động thông qua hai kênh chủ yếu, đó là (1) thông qua hệ thống các các TCTD và (2) thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng. Tại các nền kinh tế phát triển, hệ thống TCTD sẽ đảm nhận vai trò cung ứng vốn ngắn hạn, trong khi đó, thị trường tài chính sẽ đảm nhận vai trò chủ đạo trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê, hiện nay, tại Việt Nam, vai trò huy động vốn cho nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào hệ thống các TCTD là chính.
 
Số liệu từ Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia (biểu đồ 1) cho thấy, mặc dù tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế thông qua kênh thị trường tài chính đã tăng từ 21,6% trong năm 2012 lên mức 36,9% vào cuối năm 2018, tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn thấp nếu so với tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế từ các TCTD. Cụ thể, đến hết năm 2018, tỷ lệ cung ứng vốn từ các TCTD đạt mức 63,1%, và số liệu này phản ánh thực trạng lệ thuộc vào nguồn vốn vay TCTD của phần lớn các doanh nghiệp (DN) nói chung và DNNVV nói riêng. 

Nguồn số liệu: Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia
 
Biểu đồ 2 thể hiện tổng dư nợ cấp tín dụng của toàn bộ hệ thống TCTD, tổng giá trị chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tại cả ba sàn giao dịch chứng khoán HOSE, HNX và UPCoM. Qua biểu đồ 2 ta có thể thấy, trong giai đoạn 2012 - 2016, mặc dù tổng giá trị chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch đã tăng từ 360.861 tỷ VND đến 1.241.063 tỷ VND, tuy nhiên, giá trị này cũng chỉ tương đương 1/6 giá trị tổng dư nợ cấp tín dụng của toàn hệ thống TCTD Việt Nam vào cuối năm 2018 (7.211.175 tỷ VND). Những dữ liệu trong biểu đồ 1 và 2 là bằng chứng cho thấy hệ thống các TCTD hiện nay vẫn đóng vai trò trung tâm trong việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế Việt Nam.

 
Biểu đồ 3 so sánh mức độ đóng góp nguồn vốn vào quá trình tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2012 – 2018. Trong giai đoạn này, dư nợ tín dụng từ hệ thống các TCTD đã đóng góp tích cực nhất vào sự tăng trưởng GDP của Việt Nam xét cả trên khía cạnh giá trị tuyệt đối lẫn tỷ lệ % so với GDP. Vào năm 2012, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP chỉ tương đương mức 95% nhưng tỷ lệ này đều tăng qua các năm và đạt mức 130% GDP vào năm 2018. Trong khi đó, giá trị chứng khoán niêm yết và giá trị vốn hoá thị trường cho đến cuối năm 2018 cũng chỉ lần lượt chiếm 22% GDP và 72% GDP. 

 
Với những số liệu phân tích như trên, hoàn toàn có cơ sở để kết luận rằng, các DN Việt Nam nói chung vẫn còn lệ thuộc vào sự tăng trưởng tín dụng hàng năm của hệ thống TCTD để phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, sự lệ thuộc này cũng có những mặt trái nhất định đối với nền kinh tế như: (1) gây áp lực thanh khoản cho hệ thống TCTD do hệ thống TCTD phải gánh vác trọng trách cung ứng vốn vay trung và dài hạn thay cho thị trường chứng khoán; (2) gây áp lực lạm phát khi sự phát triển kinh tế phải dựa nhiều vào tăng trưởng dư nợ tín dụng của các TCTD. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của các kênh huy động vốn khác cho DNNVV nhằm san sẽ bớt gánh nặng cho hệ thống TCTD là việc làm cần thiết, khách quan để hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. 
 
2. Nguyên nhân hạn chế khả năng tiếp cận các kênh huy động vốn từ thị trường tài chính của DNNVV 
 
2.1. Những yếu tố thuộc về nội tại của DNNVV
 
Thứ nhất, đó là mức độ minh bạch thông tin của DNNVV là không đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư trên thị trường tài chính. Một trong những điều kiện cần thiết, quan trọng nhất đối với DNNVV để những DN này có thể tiếp cận các kênh huy động vốn, kể cả vay TCTD cũng như phát hành chứng khoán huy động vốn, chính là mức độ minh bạch thông tin của DN. Hiện nay không phải cứ là DNNVV là khó vay vốn ngân hàng thương mại (NHTM). Trên thực tế, những DNNVV mà chứng minh được năng lực tài chính, có phương án kinh doanh hiệu quả khả thi, minh bạch thông tin đều có thể dễ dàng vay vốn tại các TCTD. Ngược lại, những DNNVV chưa tạo được niềm tin nơi các TCTD mới gặp khó khăn khi vay vốn, bởi lẽ các TCTD cũng có những chuẩn mực cho vay riêng nhằm thực hiện công tác quản trị rủi trong hoạt động cho vay của mình.  Do đó, các DNNVV Việt Nam cần phải nhanh chóng thay đổi mô hình quản trị theo hướng minh bạch hoá, tự nguyện công bố thông tin doanh nghiệp, tự nguyện kiểm toán báo cáo tài chính định kỳ để nâng cao uy tín của mình với các TCTD, với các nhà đầu tư trên thị trường tài chính, từ đó có thể tiến hành nhiều hình thức huy động vốn khác nhau cho hoạt động SXKD của DNNVV.
 
Thứ hai, tuy các DNNVV đã có những bước phát triển mạnh trong thời gian vừa qua, nhưng nhìn chung, trình độ phát triển của các DNNVV là còn thấp. Do hạn chế về quy mô và nguồn vốn, nhiều DNNVV vẫn còn áp dụng công nghệ lạc hậu, trình độ quản trị kém, năng suất lao động thấp, chưa chú trọng đến công tác xây dựng thương hiệu, không quan tâm đến công tác truyền thông và quan hệ với các nhà đầu tư chứng khoán, chưa chú trọng đến công tác đa dạng hoá các nguồn vốn kinh doanh... Những yếu tố trên đã cộng hưởng và làm hạn chế cho năng lực cạnh tranh, khiến các DNNVV ít nhận được sự quan tâm đầu tư của các nhà đầu tư chứng khoán.
 
2.2. Những yếu tố thuộc về cấu trúc và trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam
 
Thứ nhất, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển. Thị trường Nợ của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là kênh tín dụng ngân hàng truyền thống, trong khi đó, một thị trường nợ quan trọng khác, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, là chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Từ năm 2015 đến 2018, số lượng trái phiếu DN được phát hành và niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) TP. Hồ Chí Minh chỉ tăng khiêm tốn từ 6 đến 26 loại trái phiếu DN và chủ yếu chỉ tập trung được phát hành bởi các DN lớn đang niêm yết. Nếu tính theo giá trị niêm yết, tính đến hết 2018, giá trị trái phiếu DN niêm yết chỉ đạt mức 32.671 tỷ VND, tức chỉ tương đương 0,45% tổng dư nợ cấp tín dụng toàn hệ thống TCTD (biểu đồ 4). Điều này cho thấy hầu như các DNNVV không thể tiếp cận được nguồn vốn trung dài hạn thông qua việc phát hành trái phiếu DN. Một số lý do có thể giải thích cho sự kém phát triển của thị trường trái phiếu DN có thể kể đến như sau: (1) vấn đề về minh bạch thông tin của DNNVV như đã phân tích; (2) các DNNVV Việt Nam chưa đáp ứng được những điều kiện về phát hành và niêm yết trái phiếu theo quy định pháp luật và (3) sự thiếu vắng của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trên thị trường tài chính Việt Nam.
Thứ hai, sự kém phát triển của các định chế tài chính trung gian phi ngân hàng. Kinh nghiệm tại các thị trường phát triển trên thế giới cho thấy, để phát huy tối đa vai trò huy động vốn của thị trường tài chính thì hệ thống các định chế tài chính phải hoàn thiện và phát triển đa dạng để làm cầu nối giữa bên cung vốn - những nhà đầu tư có vốn nhà rỗi và bên cầu vốn - tức các doanh nghiệp cần vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Một hệ thống các định chế tài chính phát triển hoàn thiện phải bao gồm: hệ thống các NHTM, hệ thống các định chế tài chính phi ngân hàng như: Ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán, các loại hình quỹ hưu trí, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư khởi nghiệp,... Liên hệ thực tế tại Việt Nam thì hiện chỉ có hệ thống các TCTD là đang làm tốt vai trò huy động vốn của mình. Trong khi đó, các loại hình định chế tài chính trung gian khác còn phát triển chậm, phạm vi và quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ và chủ yếu chỉ tập trung vào các DN lớn đang niêm yết. Điều này phần nào cũng ảnh hưởng đến khả năng đa dạng hoá các kênh huy động vốn của phần lớn các DNNVV.
 
Thứ ba, sự đa dạng và quy mô vốn của các nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam là còn thấp. Các nhà đầu tư tổ chức, mà cụ thể là những loại hình quỹ đầu tư, thường phát triển rất mạnh, kể cả về chủng loại và quy mô vốn, tại các quốc gia phát triển. Đây là lực lượng rất quan trọng góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ, các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, và từ nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội. Quá trình này sẽ tạo vốn cho các quỹ đầu tư, những nhà đầu tư chuyên nghiệp, tiến hành hoạt đầu tư cho các DNNVV - nơi có dư địa tăng trưởng rất cao trong nền kinh tế tại các quốc gia. Tuy nhiên, dữ liệu tại Việt Nam cho thấy số lượng, chủng loại và quy mô vốn hoạt động của các quỹ đầu tư hiện vẫn còn rất khiêm tốn. Tính đến cuối tháng 2/2019, hiện cả thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ có 41 quỹ đầu tư đang hoạt động với quy mô giá trị tài sản ròng NAV là 24.399 tỷ đồng, một con số khá kiêm tốn so với mức vốn hoá của thị trường chứng khoán Việt Nam và so với tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống TCTD (Bảng 1).
 
3. Một số hàm ý chính sách nhằm đa dạng hoá các kênh huy động vốn cho DNNVV
 
Vốn là một yếu tố sản xuất quan trọng hàng đầu, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của DNNVV nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, để giải quyết bài toán về vốn cho DNNVV hiện nay, cần phải có sự chung tay vào cuộc của nhiều bên để đạt được mục tiêu hỗ trợ cho các DNNVV. Cụ thể:
 
Đối với bản thân các DNNVV
 
Thứ nhất, các DNNVV cần phải khắc phục tình trạng kém minh bạch thông tin của mình để xây dựng niềm tin với không chỉ các TCTD mà còn với các nhà đầu tư tài chính, các quỹ đầu tư chứng khoán và các định chế tài chính trung gian khác. Khi các nhà đầu tư trên thị trường tài chính có đầy đủ thông tin phục vụ cho việc quản trị rủi ro, họ sẽ mạnh dạn đầu tư vào các chứng khoán do DNNVV phát hành, qua đó tạo vốn cho các DNNVV, giúp các DNNVV từng bước đa dạng hoá được các nguồn vốn phục vục cho quá trình phát triển của mình.
 
Thứ hai, các DNNVV cần tích cực thay đổi tư duy quản lý, thay đổi mô hình hoạt động, không ngừng nâng cao kiến thức về quản trị kinh doanh, kiến thức về pháp luật, về công nghệ thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh để từng bước tiếp cận và khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi khác trên thị trường tài chính.
 
Đối với Hiệp hội DNNVV
 
Thứ nhất, cần tích cực tuyên truyền và nâng cao nhận thức về việc minh bạch thông tin cho các DNNVV. Hiệp hội DNNVV Việt Nam cần thường xuyên thực hiện các giải pháp nhằm khuyến khích DNNVV từng bước công bố thông tin, áp dụng mô hình quản trị của các công ty đại chúng. Vấn đề minh bạch thông tin được cải thiện sẽ là tiền đề quan trọng giúp các DNNVV từng bước tiếp cận với thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong tương lai. 
 
Thứ hai, thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các lớp đào tạo chuyên môn về thị trường tài chính để giới thiệu về vai trò, lợi ích, cách thức khai thác các kênh huy động vốn khác trên thị trường tài chính, qua đó giúp các DNNVV giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay của các TCTD.
 
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
 
Thứ nhất, tiếp tục phát huy những thành quả mà hệ thống TCTD đã đạt được trong lĩnh vực cung ứng vốn cho các DNNVV trong giai đoạn vừa qua. Khuyến khích các TCTD không ngừng phát triển những sản phẩm tín dụng mới phù hợp với đặc điểm kinh doanh của các DNNVV như cho vay theo chuỗi cung ứng, cho vay dựa vào động sản là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh, cho vay dựa vào dòng tiền,... để hỗ trợ vốn cho các DNNVV.
 
Thứ hai, cần nghiên cứu và tạo điều kiện cho sự phát triển của những loại hình định chế tài chính trung gian mới như: Ngân hàng đầu tư, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ đầu tư DNNVV. Kinh nghiệm cho thấy, tại các thị trường tài chính phát triển, các loại hình định chế tài chính trung gian phi ngân hàng phát triển rất mạnh, và là nơi thu xếp vốn chủ yếu cho các Starup và những DNNVV mới thành lập trong những lĩnh vực sáng tạo cao, đột phá. Bằng cách phát triển các loại hình định chế tài chính trung gian nêu trên, chúng ta sẽ tạo điều kiện kết nối trực tiếp những ý tưởng kinh doanh mới của các DN khởi nghiệp với các nhà đầu tư trên thị trường tài chính từ đó giải quyết bài toán vốn cho các DNNVV. 
 
Thứ ba, phát huy hơn nữa vai trò huy động vốn của thị trường chứng khoán trong việc cung ứng vốn trung dài hạn cho các DNNVV. Đặc biệt, cần đẩy mạnh quá trình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bởi lẽ hiện nay có rất ít DN đang khai thác kênh vốn này và vì vậy dư địa phát triển của thị trường trái phiếu DN là còn rất lớn nếu chúng ta biết khai thác đúng cách. Cụ thể, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể nghiên cứu xem xét: 
 
(1) Phối hợp với Trung tâm Thông tin tín dụng để thành lập các tổ định mức tín nhiệm doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin cho quá trình đánh giá và đầu tư trái phiếu của các DNNVV phát hành;
 
(2) Có chính sách thu hút các nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp bằng cách miễn thuế thu nhập đối với hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp;
 
(3) Trong giai đoạn đầu áp dụng, có chính sách ưu đãi thuế thu nhập DN đối với các DN sử dụng nợ bằng cách phát hành và niêm yết trái phiếu trên sở giao dịch (tương tự như trong giai đoạn đầu hỗ trợ đối với các công ty niêm yết cổ phiếu khi mới thành lập sở giao dịch chứng khoán).
 
Tài liệu tham khảo:
 
Allen, F. and Gale, D. (1999). Diversity of opinion and financing of new technologies, Journal of Financial Intermediation 8, 1-22.
Asli Demirguc-Kunt and Ross Levine (1999), Bank-based and market-based financial systems: cross-country comparisons, Policy research working papers
Barth, J.R. et al (2001a). Banking systems around the world: Do regulation and ownership affect performance and stability? in “Prudential Supervision: What Works and What Doesn’t,” (F. Mishkin, Ed.), pp. 31-88. NBER Press, Cambridge, MA:
Gertler, Mark. “Financial Structure and Aggregate Economic Activity: An Overview,” Journal of Money, Credit, and Banking, August 1988, 20(3, Pt. 2), pp. 559-88.
Levine, Ross. “Financial Development and Economic Growth: Views and Agenda,” Journal of Economic Literature, June 1997, 35(2), pp. 688-726.
The World Bank
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.
Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia.
Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.
Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội.

PGS., TS. Trần Hoàng Ngân
ThS. Dương Tấn Khoa


Nguồn: TCNH chuyên đề đặc biệt 2019
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hạn chế rủi ro tín dụng và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hạn chế rủi ro tín dụng và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
14/04/2023 4.174 lượt xem
Hoạt động tín dụng là hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu trong các hoạt động truyền thống của ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy nhiên, hoạt động này cũng tạo ra nhiều rủi ro, trong đó, rủi ro tín dụng tác động lớn đến hiệu quả kinh doanh và sự ổn định của ngân hàng.
Sửa đổi chính sách pháp lí để sớm nâng hạng thị trường chứng khoán
Sửa đổi chính sách pháp lí để sớm nâng hạng thị trường chứng khoán
10/04/2023 2.357 lượt xem
Nâng hạng thị trường là một quá trình tương đối dài, đòi hỏi nhiều nỗ lực để tạo ra những thay đổi về nội lực cũng như chính sách pháp lí, theo ông Vũ Chí Dũng – Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
28/02/2023 4.867 lượt xem
Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, được quản lí và hoạt động hiệu quả là định hướng lớn được Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra nhằm thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình thể chế hóa định hướng và chủ trương của Đảng đã tạo ra một nền tảng pháp lí ngày càng hoàn thiện cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: Thực tiễn năm 2022 và triển vọng năm 2023
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: Thực tiễn năm 2022 và triển vọng năm 2023
08/02/2023 10.194 lượt xem
Theo Báo cáo Nhà ở và thị trường bất động sản của Bộ Xây dựng, tính đến ngày 31/12/2022, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản đạt khoảng 800.000 tỉ đồng. Trong đó, dư nợ tín dụng đối với các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, dự án phát triển nhà ở chiếm tỉ lệ 22,8%; cho vay xây dựng, sửa chữa nhà để bán, cho thuê chiếm 18,16%; cho vay mua quyền sử dụng đất chiếm tỉ lệ 10,7%; cho vay các dự án khu du lịch, sinh thái, nghỉ dưỡng chiếm tỉ lệ 4,1% tổng dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản.
Cải cách quyết liệt, hiệu quả các TTHC lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
Cải cách quyết liệt, hiệu quả các TTHC lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
07/02/2023 4.392 lượt xem
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC) năm 2023. Theo đó, cải cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các quy định TTHC trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, đặc biệt là những TTHC liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp.
Động lực đầu năm của thị trường chứng khoán
Động lực đầu năm của thị trường chứng khoán
09/01/2023 4.818 lượt xem
Sau 2 năm thăng hoa (2020-2021), thị trường chứng khoán năm 2022 sụt giảm mạnh. Theo đó, chỉ số VN-Index lao dốc mạnh từ mức đỉnh 1.528,6 thiết lập hồi tháng 4/2022 xuống mức đáy 911,9 điểm vào tháng 11/2022, tương đương mất hơn 40%. Các đợt sụt giảm mạnh này đã khiến hơn 90% cổ phiếu ghi nhận giảm giá, trong đó nhiều mã giảm đến 60-70% giá trị và liên tục xác lập mức đáy mới của năm. Tính chung năm 2022, VN-Index giảm gần 33% và là một trong những chỉ số giảm mạnh nhất trên thế giới.
Ảnh hưởng của công bố thông tin chi trả cổ tức bằng tiền mặt đến giá cổ phiếu của các công ty Việt Nam niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Ảnh hưởng của công bố thông tin chi trả cổ tức bằng tiền mặt đến giá cổ phiếu của các công ty Việt Nam niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
28/12/2022 8.297 lượt xem
Các nhà đầu tư khi lựa chọn cổ phiếu của công ty cũng luôn cân nhắc đến khả năng chi trả cổ tức của các công ty, đặc biệt là chi trả cổ tức bằng tiền mặt. Vì vậy, việc nghiên cứu ảnh hưởng của thông báo chi trả cổ tức bằng tiền mặt đến giá cổ phiếu càng có ý nghĩa thực tiễn đối với nhiều thành phần tham gia thị trường.
Khơi thông dòng vốn trái phiếu doanh nghiệp cho sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam
Khơi thông dòng vốn trái phiếu doanh nghiệp cho sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam
13/12/2022 6.523 lượt xem
Thị trường tài chính gồm ba cấu phần dẫn vốn vô cùng quan trọng cho nền kinh tế là tín dụng ngân hàng, thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu. Nếu nguồn vốn của hệ thống tài chính chỉ chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng như vốn có thì thị trường tài chính sẽ khó phát triển cân đối và hài hòa.
Sử dụng mô hình nhị thức để định giá trái phiếu có kèm các quyền chọn
Sử dụng mô hình nhị thức để định giá trái phiếu có kèm các quyền chọn
05/12/2022 5.783 lượt xem
Ngày 28/02/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 242/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”, theo đó vạch rõ 8 giải pháp cơ cấu lại thị trường chứng khoán, trong đó đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu, phát hành các sản phẩm trái phiếu mới (trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có gốc, lãi được giao dịch tách biệt, trái phiếu gắn với chỉ số lạm phát, cơ cấu lại danh mục nợ trái phiếu Chính phủ thông qua các nghiệp vụ mua lại, hoán đổi…) là một trong các giải pháp quan trọng.
Mấu chốt hiện nay là tháo ngòi nổ trái phiếu
Mấu chốt hiện nay là tháo 'ngòi nổ' trái phiếu
29/11/2022 5.541 lượt xem
TS. Võ Trí Thành, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, dòng tiền đang bị tắc nghẽn, do đó cần phải tháo gỡ các nút thắt để doanh nghiệp tiếp cận được vốn với chi phí hợp lý. Trong đó, mấu chốt là tháo ngòi nổ trái phiếu doanh nghiệp.
Các đơn vị phát hành trái phiếu phải đối thoại, giữ uy tín, xây dựng lòng tin
Các đơn vị phát hành trái phiếu phải đối thoại, giữ uy tín, xây dựng lòng tin
24/11/2022 5.500 lượt xem
Trước diễn biến của thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp thời gian qua, ngày 23/11, Bộ Tài Chính tổ chức cuộc họp bàn, thu thập các ý kiến góp ý để tìm giải pháp tháo gỡ cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Hồ Đức Phớc.
Cần lắm khôi phục niềm tin cho thị trường chứng khoán
Cần lắm khôi phục niềm tin cho thị trường chứng khoán
08/11/2022 6.016 lượt xem
Vào thời điểm này, việc khôi phục niềm tin và hy vọng có ý nghĩa lớn lao vô cùng cho sự phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam. Đây cũng được xem là "liều thuốc" quý cho thị trường này.
Nhà đầu tư cần bình tĩnh trước rủi ro và cơ hội trên TTCK
Nhà đầu tư cần bình tĩnh trước rủi ro và cơ hội trên TTCK
10/10/2022 6.634 lượt xem
Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan đã và sẽ triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để bảo đảm sự vận hành và phát triển ổn định của thị trường chứng khoán (TTCK); đồng thời, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư có liên quan. Vì thế, nhà đầu tư cần bình tĩnh, phân tích cụ thể rủi ro và tiềm năng cơ hội trên TTCK để ra quyết định đầu tư hiệu quả.
Chu kỳ thanh toán chứng khoán chính thức rút ngắn xuống T+2
Chu kỳ thanh toán chứng khoán chính thức rút ngắn xuống T+2
30/08/2022 7.244 lượt xem
Trước đây, khi mua chứng khoán bao gồm cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, chứng quyền, vào ngày T+0 thì nhà đầu tư phải đợi đến T+3 (tức 3 ngày sau) mới bán được. Nhưng kể từ ngày 29/8, điều này có thể thực hiện ngay trong ngày T+2.
Ứng dụng mô hình ARCH, GARCH phân tích độ biến động của hợp đồng tương lai VN30F1M trên thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
Ứng dụng mô hình ARCH, GARCH phân tích độ biến động của hợp đồng tương lai VN30F1M trên thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
28/07/2022 9.709 lượt xem
Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính mà giá trị của chúng phụ thuộc vào giá của một tài sản cơ sở. Tài sản cơ sở của chứng khoán phái sinh có thể là hàng hóa như nông sản, vàng, dầu,… hay các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu,... Hợp đồng tương lai là một loại chứng khoán phái sinh quan trọng, không thể thiếu trên TTCK, thị trường tài chính thế giới.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.450

67.050

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.450

67.050

Vàng SJC 5c

66.450

67.070

Vàng nhẫn 9999

55.600

56.550

Vàng nữ trang 9999

55.600

56.650


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23,290 23,660 24,463 25,833 28,475 29,689 164.04 173.66
BIDV 23,345 23,645 24,640 25,823 28,589 29,852 164.82 173.61
VietinBank 23,232 23,652 24,706 25,841 28,825 29,835 165.1 173.05
Agribank 23,285 23,645 24,701 25,701 28,715 29,544 166.24 173.05
Eximbank 23,270 23,650 24,760 25,434 28,812 29,596 166.31 170.84
ACB 23,200 23,700 24,766 25,391 28,946 29,558 165.95 170.31
Sacombank 23,280 23,683 24,902 25,415 29,011 29,518 166.42 171.98
Techcombank 23,312 23,656 24,501 25,826 28,441 29,726 161.77 174.06
LPBank 23,290 23,890 24,739 26,073 28,836 29,778 163.78 175.23
DongA Bank 23,350 23,680 24,750 25,440 28,810 29,600 163.9 171.2
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
0,50
0,50
0,50
4,60
4,70
4,80
6,40
6,60
6,80
6,90
Sacombank
-
-
-
-
5,30
5,40
5,50
7,30
7,40
7,60
7,90
Techcombank
0,10
-
-
-
5,40
5,40
5,40
7,10
7,10
7,10
7,10
LPBank
-
0,20
0,20
0,20
5,00
5,00
5,00
7,30
7,30
7,70
8,00
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,30
-
-
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,00
Eximbank
0,20
0,50
0,50
0,50
5,50
5,50
5,50
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?