Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mỗi quốc gia, trong đó, doanh nghiệp là chủ thể trung tâm của hệ thống này. Để hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia hoạt động hiệu quả, góp phần phát triển nền kinh tế số của Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), doanh nghiệp cần nỗ lực nâng cao vai trò trung tâm của mình trong điều kiện tạo thuận lợi của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước. Bài viết phân tích tình hình hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam và chỉ ra một số hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống này.
Từ khóa: Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, doanh nghiệp, trung tâm.
Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia tọa lạc tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc đã được khởi công xây dựng ngày 09/01/2021
1. Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (National Innovation System) là hệ thống liên kết giữa khu vực hàn lâm (chủ thể tạo ra tri thức - đại diện là các trường đại học, viện nghiên cứu) với khu vực công nghiệp (các ngành sản xuất, hoạt động sản xuất), trong đó, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, kết nối, tạo môi trường chính sách, thể chế thúc đẩy mối quan hệ và hoạt động tương tác giữa khu vực hàn lâm và công nghiệp để tạo ra, ứng dụng và chuyển hóa tri thức thành các giá trị gia tăng phục vụ nền kinh tế và đời sống xã hội.
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia chú trọng đến việc thiết lập cơ chế kết nối, tăng cường tương tác giữa các thực thể, phát triển những thể chế góp phần xây dựng môi trường thân thiện cho đổi mới sáng tạo, tăng khả năng ứng phó, đáp ứng của hệ thống trước những cơ hội mới. Doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Theo cách tiếp cận này, ngoài khoa học và công nghệ, hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn có các thể chế xã hội, điều hành kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính, cơ sở hạ tầng giáo dục và truyền thông, các điều kiện thị trường.
Mặc dù trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, nhưng về tổng thể có thể khái quát hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia bao gồm các thiết chế, các hệ thống tổ chức ở tầm quốc gia nhằm gắn bó hữu cơ các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các trường đại học với doanh nghiệp, thúc đẩy việc tạo ra và ứng dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu sáng tạo để đổi mới sản xuất, phát triển kinh tế. Nó như một mạng lưới bao gồm tất cả các cơ sở nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ (KH&CN), doanh nghiệp, tổ chức quy hoạch chiến lược và các cơ quan quản lý KH&CN với sự phối hợp ngang, dọc, trên phạm vi quốc gia. (Hình 1)
Thực chất của sự phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia là liên kết toàn hệ thống, lấy các công ty, các hãng, các doanh nghiệp làm chủ thể chính và là trung tâm liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới như Chính phủ, cơ cấu tổ chức ngành tài chính, hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&PT), tổ chức NC&PT, các trường đại học nghiên cứu. Đó không phải là một hành động tách biệt, cũng không phải diễn ra theo đường thẳng. Hệ thống chứa đựng nhiều yếu tố của quá trình đổi mới sáng tạo. Những yếu tố này không tách rời mà tương tác với nhau nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo công nghệ của quốc gia.
Các thành phần chính trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam
Các cơ quan hoạch định chính sách: Bao gồm các cơ quan của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Trong đó, Bộ KH&CN là cơ quan Nhà nước có chức năng giúp Chính phủ trong việc hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách trong lĩnh vực KH&CN, bộ phận cơ bản nhất cấu thành hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Bên cạnh đó là sự tham gia của các bộ, ngành và chính quyền địa phương.
Các tổ chức NC&PT và các trường đại học: Đây là thành phần chính thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo nhân lực KH&CN, sáng tạo tri thức và công nghệ. Hiện nay, nước ta có khoảng 700 tổ chức nghiên cứu KH&CN và 235 trường đại học (không kể các tổ chức thuộc khối an ninh, quốc phòng).
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố, vấn đề then chốt đối với đổi mới sáng tạo. Năng lực sáng tạo quốc gia phụ thuộc phần lớn vào chất lượng giáo dục và đào tạo các nhà khoa học, kỹ thuật và các nhà chuyên môn khác, cũng như mức độ bao phủ của hệ thống giáo dục.
Các doanh nghiệp: Bao gồm các nhóm doanh nghiệp: (1) Doanh nghiệp quy mô lớn đi đầu, dẫn dắt những doanh nghiệp vệ tinh, doanh nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây cũng là nhóm doanh nghiệp có đầu tư cao cho KH&CN như VinGroup, Viettel, FPT, CMC, Trường Hải...; (2) Doanh nghiệp nhỏ và vừa có các hoạt động nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, ứng dụng và đổi mới công nghệ; (3) Doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp công nghệ cao; (4) Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, có tiềm năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ.
Các tổ chức trung gian hỗ trợ: Gồm có các tổ chức tài chính (các ngân hàng, quỹ, công ty đầu tư mạo hiểm... đầu tư, hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các hoạt động đổi mới sáng tạo); các cơ quan về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường chất lượng và kiểm định; các khu công nghệ cao, các cơ sở ươm tạo, các tổ chức thúc đẩy kinh doanh, các trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các tổ chức trung gian tư vấn, môi giới, sàn giao dịch về công nghệ...
Một số kết quả phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện hội nhập quốc tế. Việt Nam đã xây dựng và ban hành một số khung pháp lý tương đối đồng bộ và đầy đủ cho các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo bao gồm các luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật nhằm khuyến khích đầu tư cho KH&CN, thúc đẩy việc ứng dụng và đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Điển hình như Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Sở hữu trí tuệ...
Một số nỗ lực lớn khác gần đây hướng tới đổi mới sáng tạo như việc thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) nhằm thực hiện hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng phát triển KH&CN; Trung tâm hỗ trợ Khởi nghiệp sáng tạo Quốc gia (NSSC) được thành lập ngày 04/3/2019 với sứ mệnh kết nối các mạng lưới và cung cấp dịch vụ hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; Trung tâm Đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật (IoT Innovation Hub) cũng được ra mắt ngày 10/4/2019 nhằm hỗ trợ nền tảng đổi mới sáng tạo cho các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ NC&PT. Đây là trung tâm đầu tiên ở Việt Nam kết nối các trường đại học, doanh nghiệp để phát triển nghiên cứu và thử nghiệm các ứng dụng IoT trong phát triển các sản phẩm công nghệ mới.
Robot trí tuệ nhân tạo đầu tiên của Việt Nam tại Triển lãm quốc tế đổi mới sáng tạo Việt Nam 2021
2. Doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Nhu cầu đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
Nằm ở trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh và đầy biến động. Các doanh nghiệp vì vậy, luôn đứng trước nhu cầu phải đổi mới và liên tục đổi mới sản phẩm trên thị trường để tồn tại và phát triển. Sản phẩm mới, độc đáo, chất lượng cao, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng là yếu tố sống còn của một doanh nghiệp trên thị trường. Thực tế cho thấy, những ý tưởng mới có thể xuất hiện từ rất nhiều nguồn và ở bất kỳ giai đoạn trong nghiên cứu, triển khai, tiếp thị và phổ biến công nghệ mới. Đây là cơ sở của mô hình đổi mới mang tính liên kết và hệ thống nhưng lấy doanh nghiệp làm trung tâm liên kết trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Bản chất của mô hình là liên kết toàn hệ thống, lấy các hãng làm chủ thể chính và là trung tâm liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
Trong quá trình đổi mới công nghệ hoặc sản phẩm, các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng kết quả nghiên cứu, sáng chế, hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm để thực thi các ý tưởng đổi mới sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp mình. Đồng thời, chính bản thân các đối tác cũng thường xuyên tập trung phục vụ nhu cầu đổi mới của doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. Tất cả tạo thành một hệ thống bao gồm các tác nhân và các mối liên kết lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Các hoạt động NC&PT được gắn với các nhu cầu sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp.
Đặc điểm chủ yếu của mô hình này là tính liên kết cao, không có hoạt động nào, yếu tố nào, tổ chức nào, tác nhân nào, khâu nào trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia lại được thực hiện độc lập với doanh nghiệp. Như vậy, thay vì chú trọng đến các yếu tố nguồn lực và tổ chức, cách tiếp cận hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia chú trọng các mối liên kết giữa các nguồn lực, các nhân tố của hệ thống, các sản phẩm được đổi mới ở đầu ra hơn là các nguồn lực được cung cấp ở đầu vào, chú trọng nhu cầu của người tiêu dùng, lấy doanh nghiệp chứ không phải là các tổ chức NC&PT làm trung tâm của hệ thống.
Trong những năm qua, Chính phủ luôn xác định doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới sáng tạo, chú trọng đổi mới công nghệ để tăng năng suất, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, quốc gia. Các chính sách, pháp luật về KH&CN đã tập trung thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, quy trình quản lý.
Doanh nghiệp là trung tâm của những thay đổi trong hệ thống pháp luật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo
Để tiếp tục phát huy vai trò của KH&CN trong phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra một số định hướng quan trọng, cụ thể như sau: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, trong đó xác định “Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp là trung tâm, trường đại học và viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh”.
Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định nhiều nhiệm vụ, giải pháp để phát triển toàn diện KH&CN trong giai đoạn tới. Cụ thể: Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính và doanh nghiệp, bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật về KH&CN; Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế, phương thức quản lý tổ chức, hoạt động KH&CN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; Đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu chủ yếu, là yếu tố “lõi” của hệ thống khoa học quốc gia.
Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 cũng đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp để doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Thể chế hóa các chỉ đạo, định hướng của Đảng, hành lang pháp lý về KH&CN tiếp tục được hoàn thiện theo hướng gắn kết và phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp KH&CN, đặc biệt là các ưu đãi đối với doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN có nhiều quy định nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đăng ký công nhận doanh nghiệp KH&CN, chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm trong việc đánh giá hồ sơ đăng ký, cụ thể hóa quy trình, thủ tục tiếp cận chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đăng ký công nhận doanh nghiệp KH&CN.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhận được nhiều sự hỗ trợ về cơ chế, tài chính, đầu tư... thông qua hàng loạt văn bản luật và dưới luật. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP với quy định nổi bật là ưu đãi miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp KH&CN. Cụ thể, thu nhập của doanh nghiệp KH&CN từ hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Như vậy, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có thể được hưởng rất nhiều ưu đãi khi đăng ký là doanh nghiệp KH&CN.
Để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp tại các trường đại học; thành lập sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
Nghiên cứu, xây dựng thể chế cho các ngành, lĩnh vực kinh doanh trên nền tảng công nghệ mới, đã xuất hiện hoặc có tiềm năng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp công nghệ. Ở các ngành có tiềm năng nhưng có mức độ ảnh hưởng cao tới kinh tế, xã hội như tài chính, ngân hàng, nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm (regulatory sandbox) để doanh nghiệp có thể phát triển và thí điểm sản phẩm, dịch vụ mới.
Quyết định số 18/2019/QĐ-TTg ngày 19/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng đưa ra nhiều nhóm giải pháp mới nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chính là kiểm soát chặt việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ và tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, trực tiếp tháo gỡ rất nhiều vướng mắc, khó khăn của các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc thiết bị để phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Để tạo môi trường hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp hoạt động sáng tạo và xây dựng không gian liên kết giữa doanh nghiệp và các nhân tố trong hệ thống đổi mới sáng tạo, Chính phủ đã quyết định thành lập NIC với tầm nhìn trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực, làm cầu nối giữa các nhà đầu tư trong, ngoài nước và các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam, từ đó góp phần thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các cơ chế, chính sách ưu tiên của NIC như ưu đãi thuế, tài chính, pháp lý và đặc biệt là tiếp cận với mạng lưới các nhân tài, các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo… hướng đến nhóm đối tượng hưởng lợi chủ yếu là các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Với vai trò là một trung tâm quốc gia, NIC sẽ kết nối, hỗ trợ và hợp tác với các cơ sở hỗ trợ đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ hiện tại, tạo thành hệ thống đổi mới sáng tạo trên khắp cả nước, qua đó, góp phần phát triển và nâng cấp năng lực công nghệ của nền kinh tế. NIC được xây dựng là nơi thử nghiệm các chính sách, thể chế vượt trội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, hấp dẫn đủ sức cạnh tranh trong khu vực để thu hút nhân tài, thu hút đầu tư đổi mới sáng tạo, khuyến khích và hỗ trợ nghiên cứu phát triển và khởi nghiệp sáng tạo đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0.
Bên cạnh các hoạt động tạo cơ chế, chính sách thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, Việt Nam còn thực hiện một loạt chương trình quốc gia về KH&CN như: Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, các chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia, Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020, Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025, Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016 - 2020, Chương trình quốc gia nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020, Đề án Hệ tri thức Việt số hóa, Chương trình trọng điểm cấp quốc gia: “Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0”... Quan điểm lấy doanh nghiệp làm trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia đã được thể hiện rõ nét trong các hoạt động chỉ đạo, điều hành của Bộ KH&CN.
Chi phí cho nghiên cứu, đổi mới sáng tạo
Trong những năm qua, ngân sách Nhà nước đầu tư cho hoạt động KH&CN duy trì vào khoảng 2% tổng chi hằng năm, xấp xỉ bằng 0,5% GDP (gồm cả chi quốc phòng, an ninh và chi dự phòng). Ngân sách Nhà nước chi cho KH&CN bao gồm kinh phí sự nghiệp KH&CN và kinh phí đầu tư phát triển KH&CN, trong đó, kinh phí hoạt động sự nghiệp thường chiếm khoảng 60% và kinh phí đầu tư phát triển chiếm khoảng 40% tổng chi. (Bảng 1)
Tổng chi quốc gia cho NC&PT (GERD) là một chỉ tiêu chính được sử dụng để đánh giá cường độ NC&PT của một quốc gia. Hình 2 cho thấy, tổng chi quốc gia cho NC&PT của Việt Nam năm 2017 là 26.368 tỷ đồng, bằng 0,52% GDP. Tỷ lệ chi cho NC&PT/GDP đã liên tục tăng ổn định từ mức 0,19% năm 2011 lên 0,52% năm 2017, nhờ có sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư của khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô lớn.
Trong Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2020 được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới của Liên hợp quốc (WIPO) công bố ngày 20/9/2020, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ 42 trong bảng xếp hạng, đứng thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế (Bảng 2)
Trong bộ Chỉ số GII, chỉ số chi NC&PT do doanh nghiệp trang trải (% tổng chi cho NC&PT), tăng xếp hạng từ 64 năm 2012 lên hạng 13 năm 2018 và hạng 8 năm 2019. Trong ASEAN, chỉ số này năm 2019 của Việt Nam chỉ xếp sau Thái Lan (hạng 4).
Trong những năm qua, khu vực doanh nghiệp có xu hướng gia tăng các hoạt động NC&PT, tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp quy mô lớn, giúp tỷ trọng tổng chi quốc gia cho NC&PT/GDP liên tục tăng ấn tượng.
Việc gia tăng thứ hạng thể hiện rất rõ ở các chỉ số liên quan đến đầu vào và đầu ra của đổi mới sáng tạo. Các chỉ số tăng mạnh là tổng chi cho NC&PT, sản phẩm dựa trên tri thức và công nghệ. Minh chứng cho thấy, từ năm 2018 đến nay ghi nhận sự chuyển đổi mạnh mẽ của các tập đoàn lớn đầu tư phát triển KH&CN chi cho NC&PT tăng mạnh như: VinGroup, CMC, Trường Hải, Phennika, Dầu khí Việt Nam...
Như vậy, Việt Nam đã hình thành những điều kiện khung có lợi cho việc phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia như các chính sách về đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, chống cạnh tranh không lành mạnh, đổi mới hoạt động KH&CN, đơn giản hóa thủ tục hành chính, phát triển các quỹ hỗ trợ và phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh và đào tạo... Các chính sách về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho NC&PT, tổ chức KH&CN, thực hiện cơ chế tự chủ, phát triển thị trường KH&CN, doanh nghiệp KH&CN, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo... tiếp tục được hoàn thiện.
Một số hạn chế của doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong thời gian qua, nhưng vai trò của doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam vẫn còn một số vấn đề cần hoàn thiện, điển hình như:
Thực tế, số doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo ở Việt Nam vẫn còn ít. Nguyên nhân bởi nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ gặp khó khăn khi đổi mới công nghệ do nguồn lực tài chính hạn chế. Ngoài ra, một số bất cập trong chính sách cũng ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.
Mặc dù doanh nghiệp là chủ thể chiếm tỷ lệ lớn trong phần chi do doanh nghiệp thực hiện và trang trải nhưng mức chi chung cho NC&PT còn thấp. Tỷ lệ chi cho KH&CN của Việt Nam, cả khu vực Nhà nước và tư nhân chỉ khoảng 0,44% GDP, mức thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới là 2,23% GDP. Việt Nam đang chậm hơn về mức độ sẵn sàng công nghệ, về đổi mới sáng tạo và về năng suất lao động so với một số nước ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và Singapore.
Tỷ lệ chi NC&PT/GDP của Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với Trung Quốc (2,2% năm 2019), Đài Loan (3,5% năm 2019) và các nước ASEAN như Singapore, Malaysia, Ấn Độ đều có tỷ lệ hơn 2%.
Nhân lực cho đổi mới sáng tạo chưa đáp ứng được yêu cầu. Theo Báo cáo Chỉ số GII của Việt Nam năm 2020, bình quân số nhà nghiên cứu (FTE) trên 1 vạn dân ở Việt Nam (chỉ đạt khoảng 7 người/vạn dân), thấp hơn nhiều so với Singapore (66), Malaysia (22), Thái Lan (12). Đào tạo nguồn nhân lực cấp đại học của Việt Nam chưa tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, chỉ số xếp hạng GII về giáo dục đại học của Việt Nam đứng thứ 81/129 nền kinh tế. Chất lượng nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn kém, thể hiện qua chỉ số “Lao động có kiến thức” của doanh nghiệp đứng thứ 102/129 nền kinh tế.
Nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp ít về số lượng và yếu về chất lượng. Số cán bộ NC&PT trong doanh nghiệp chỉ chiếm 24,06% và số lượng tiến sỹ, thạc sỹ chỉ chiếm khoảng 3% tổng số của cả nước. Để doanh nghiệp thực sự là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì nguồn nhân lực NC&PT, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp phải lớn mạnh hơn nữa cả về số lượng và chất lượng.
Mặc dù Việt Nam có quy mô nhân lực đông, có sức khỏe nhưng còn thiếu kỹ năng và năng lực đổi mới sáng tạo. Đây là điểm bất lợi của lao động Việt Nam để hội nhập với lao động thế giới. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2019, kỹ năng kỹ thuật số của người Việt Nam được đánh giá ở mức điểm 3,8 trên thang điểm 7 (xếp hạng 97/141), kỹ năng phản biện trong giảng dạy chỉ ở mức 3 điểm trên thang điểm 7 (xếp hạng 106/141 nền kinh tế).
Mối liên kết giữa các thành phần trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và các tổ chức trung gian hỗ trợ đổi mới sáng tạo chưa thực sự hiệu quả, phản ánh qua chỉ số “Liên kết đổi mới sáng tạo” trong GII 2019 của Việt Nam đứng thứ 86/129 nền kinh tế. Khoảng 80% doanh nghiệp cho biết họ không có hợp tác với đơn vị/tổ chức khác để thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo. Chỉ số liên kết đổi mới sáng tạo “Hợp tác viện - trường - doanh nghiệp” trong GII của Việt Nam giảm nhiều về thứ hạng trong các năm từ 2012 đến 2015, sau đó bắt đầu có xu hướng cải thiện lại dần dần, năm 2020 chỉ số này tăng 10 bậc (từ vị trí 75 lên 65). Việc doanh nghiệp thiếu thông tin về các hình thức hỗ trợ của Nhà nước là rào cản chính khiến các doanh nghiệp không tận dụng được các hình thức hỗ trợ của Nhà nước. Các yếu tố khác như thị trường KH&CN, tài chính, sở hữu trí tuệ, thông tin, cơ sở hạ tầng... chưa phát huy được hiệu quả cao nhất trong thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.
3. Giải pháp nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Theo bản chất của cách tiếp cận hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì chính doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn là trung tâm của đổi mới chứ không phải các viện nghiên cứu hay các tổ chức nghiên cứu. Do đó, nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp sẽ làm hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển bền vững và hiệu quả.
Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia từ việc lựa chọn mục tiêu, hoạch định và điều phối chính sách cũng như việc tạo lập những nhân tố tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách mới về đổi mới sáng tạo như phát triển thị trường công nghệ, cơ sở hạ tầng hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực và khởi nghiệp sáng tạo.
Để nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp, các cơ quan quản lý Nhà nước đã bước đầu có những đổi mới tư duy trong quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh, khơi thông các nguồn lực, tăng cường huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, các giải pháp của Chính phủ đã tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ; phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị; hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; tiến hành rà soát, tái cơ cấu các chương trình KH&CN quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh hoạt động tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển, khai thác tài sản trí tuệ...
Việc tái cấu trúc các chương trình KH&CN quốc gia, không chỉ là để tăng nội hàm đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp tham gia nhiều hơn, mà còn theo định hướng tạo ra cầu nối chính sách để các nhà khoa học đến với doanh nghiệp và cùng giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp. Đây cũng là cách để các doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội triển khai các hoạt động đổi mới công nghệ của mình. Những điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc tập trung nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần lấy đổi mới công nghệ và chất lượng quản lý làm phương pháp then chốt để khắc phục khó khăn và phát triển; phấn đấu làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể chính của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Để tồn tại và lớn mạnh, các doanh nghiệp cần phải hướng vào thị trường, đẩy mạnh hoạt động NC&PT, tích cực chuyển hóa và ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng lợi ích kinh tế bằng cách dựa vào tiến bộ công nghệ và nâng cấp công nghệ. Việt Nam cần đầu tư đáng kể về kết cấu hạ tầng tương ứng để đảm bảo tính bền vững của cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển và đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức trung gian hỗ trợ NC&PT và đổi mới sáng tạo, các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ, trung tâm hỗ trợ và thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các sàn giao dịch công nghệ của quốc gia, vùng và địa phương, có chính sách ưu đãi mạnh mẽ hơn nữa để thu hút các doanh nghiệp lớn của nước ngoài chuyển giao công nghệ và xây dựng các trung tâm NC&PT của họ ở Việt Nam; tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu, đào tạo và doanh nghiệp trong nước cùng liên kết để phát triển nhanh các lĩnh vực công nghệ then chốt của CMCN 4.0, nâng cao năng lực công nghệ trong nước.
Bên cạnh những nỗ lực của chính các doanh nghiệp, Chính phủ và các cơ quan liên quan cũng cần tăng cường hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn, hiệu quả hơn cho các doanh nghiệp.
Tài chính cho NC&PT và đổi mới sáng tạo
Đầu tư cho NC&PT của doanh nghiệp Việt Nam hiện chiếm khoảng 64% tổng đầu tư cho NC&PT quốc gia, dù đã tăng nhiều so với những năm trước nhưng để doanh nghiệp thực sự là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì tỷ lệ phải đạt từ 75 - 80%.
Thực hiện các chính sách và nỗ lực đầu tư để thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp, cùng với việc ban hành các chương trình quốc gia với trọng tâm thúc đẩy nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp thông qua các hoạt động đổi mới quy trình và đổi mới sản phẩm công nghệ. Đồng thời, cần nỗ lực đưa các kênh hỗ trợ tài chính theo hình thức quỹ đi vào thực chất và hiệu quả, như quỹ phát triển KH&CN quốc gia và địa phương, quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp,... Đối với các doanh nghiệp coi trọng đầu tư đổi mới công nghệ nên được hưởng các ưu đãi lớn hơn về thuế, phí, lệ phi, có thể miễn hoặc giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thể hiện sự quan tâm, ưu đãi đối với các doanh nghiệp tích cực đổi mới công nghệ.
Nhu cầu vốn cho hoạt động đổi mới sáng tạo công nghệ ngày càng lớn, hầu như các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng vốn tự có của doanh nghiệp cho các hoạt động đổi mới sáng tạo về sản phẩm, quy trình và NC&PT (trên 90% số doanh nghiệp). Tiếp đến là nguồn vốn vay, doanh nghiệp huy động vốn vay nhiều nhất để thực hiện đổi mới sáng tạo cho sản phẩm (gần 50% số doanh nghiệp). Hầu như các doanh nghiệp chưa tích cực huy động vốn hỗ trợ từ Nhà nước và các nguồn khác. Đây là điểm cần lưu ý vì các doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận tới nguồn vốn hỗ trợ từ Nhà nước. Do vậy, cần loại bỏ những rào cản để doanh nghiệp có thể tiếp cận tới nguồn vốn hỗ trợ này. Việc đầu tư cho hoạt động KH&CN nên được đổi mới theo hướng tập trung xây dựng một số viện nghiên cứu, trường đại học, các phòng thí nghiệm trọng điểm gắn liền với các doanh nghiệp. Một số viện nghiên cứu, trường đại học là cơ sở nghiên cứu mạnh sẽ là những đầu tàu trong NC&PT và liên kết đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp.
Cần thực hiện thêm các biện pháp bổ sung nhằm thu hút đầu tư nước ngoài có hàm lượng tri thức cao và tạo điều kiện phát huy tác động lan tỏa từ doanh nghiệp nước ngoài sang doanh nghiệp trong nước. Nên thực hiện một chương trình thí điểm đối tác công tư về NC&PT và đổi mới sáng tạo nhằm tập trung và tận dụng nguồn lực và tăng cường hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu nhà nước và doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước ngoài.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là giải pháp quan trọng vì con người luôn là yếu tố trung tâm của quá trình đổi mới sáng tạo. Con người sáng tạo ra các ý tưởng, đồng thời biến ý tưởng đó thành hiện thực, tức là tạo ra các công nghệ, sản phẩm và dịch vụ mới. Hiện trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam còn khá thấp cả về số lượng và chất lượng. Do đó, cần đào tạo và phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong các doanh nghiệp và tại các viện nghiên cứu, trường đại học. Nhất là trong xu hướng hiện nay coi doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và các trường đại học là những cơ sở nghiên cứu mạnh. Để doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia thì cần có nhiều chính sách khuyến khích hơn nữa khu vực này trong đào tạo nhân lực, trong đó cần tập trung phối hợp đào tạo nhân lực NC&PT giữa doanh nghiệp - viện - trường.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần tạo ra môi trường học tập, nghiên cứu hiện đại, chú trọng học tập, cập nhật các thành tựu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của các nước trên thế giới, đặc biệt, cần có chính sách sử dụng hợp lý thể hiện ở chế độ lương, chính sách đãi ngộ... Đồng thời, cần có chính sách thu hút nhân tài khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt phải chuyển từ tiêu chuẩn “thâm niên” sang “vị trí công việc”, “kết quả”. Doanh nghiệp có thể mở rộng nguồn tài trợ cho các trường đại học, không chỉ bao gồm học phí và các khoản hỗ trợ của Nhà nước mà còn bao gồm hợp đồng nghiên cứu và đóng góp của khu vực tư nhân.
Phát triển mối liên kết giữa viện - trường và doanh nghiệp
Điều tra của Bộ KH&CN cho thấy, khoảng 80% doanh nghiệp cho biết họ không hợp tác với đơn vị/tổ chức khác để thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo. Do vậy, trong thời gian tới, cần nghiên cứu thêm các cơ chế, chính sách để tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp với các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu công lập hay các nhà tư vấn, phòng thí nghiệm, hoặc tổ chức NC&PT ngoài Nhà nước. Đồng thời, cần nhanh chóng phát triển các tổ chức trung gian thúc đẩy đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nói riêng và thị trường KH&CN nói chung. Cần phát triển mạnh các loại hình tổ chức trung gian của thị trường KH&CN bao gồm: Cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN; Trung tâm, sàn giao dịch công nghệ, chợ công nghệ - thiết bị; Tổ chức dịch vụ đánh giá, định giá, giám định, tư vấn chuyển giao công nghệ; Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ; Các tổ chức dịch vụ KH&CN khác liên quan.
Mối liên kết viện - trường - doanh nghiệp được thúc đẩy phát triển thông qua việc xây dựng và phát triển NIC, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối cần tăng cường vận động, thu hút các doanh nhân và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, các công ty công nghệ, công ty hỗ trợ đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài,… hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cho NIC, thu hút nhân tài, kết nối hệ thống cơ sở hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước. Duy trì, thúc đẩy sự phát triển mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam, gắn kết với hoạt động của NIC, phát huy, khai thác sức mạnh khoa học công nghệ của người Việt và các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học công nghệ trong và ngoài nước. Tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược cho NIC để làm điểm tựa phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại NIC.
Tài liệu tham khảo:
1. Đánh giá đổi mới sáng tạo doanh nghiệp: Những kết quả bước đầu, Báo Khoa học và Phát triển, 13/09/2018.
2. Đổi mới sáng tạo: Nhìn từ cuộc điều tra thí điểm đầu tiên tại Việt Nam, Báo Khoa học và Phát triển, 05/04/2019.
3. Sách Khoa học công nghệ Việt Nam 2019, 2018, Cục Thông tin Khoa học Công nghệ, Bộ KH&CN.
4. Nguyễn Đức Khương (2020), Kinh tế sáng tạo và sự vươn lên của các quốc gia, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập.
5. UNCTAD (2019), Creative Economy Outlook: Trends in international trade in creative industries.
6. UNCTAD (2008), Creative Economy Report: The challenge of assessing the Creative economy towards informed policy - making.
7. World Bank (2014), Đánh giá Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.
8. World Bank (2020), Vietnam: Doing business 2020, Challenges and Solutions.