Ngành hàng lúa gạo là điểm sáng trong xuất khẩu nông sản năm 2023, trong đó có sự đóng góp lớn của dòng chảy tín dụng ngân hàng tạo động lực mới cho ngành hàng lúa gạo chất lượng cao.
Lúa gạo Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế
(Ảnh minh họa; nguồn: Internet)
Lợi thế của ngành lúa gạo
Bức tranh tổng quan về ngành lúa gạo nước ta, xuất khẩu gạo đang là mảng sáng nhất trong bức tranh xuất khẩu cả nước. Theo số liệu thống kê 11 tháng năm 2023, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 7,75 triệu tấn về sản lượng và 4,41 tỉ USD về giá trị, tăng tương ứng 16,2% và 36,3% so với cùng kì năm 2022. Giá gạo xuất khẩu bình quân 11 tháng năm 2023 đạt 568 USD/tấn, tăng 17,3% so với cùng kì năm 2022.
Lúa gạo Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Về mặt sinh thái, môi trường, kinh nghiệm truyền thống và kĩ thuật canh tác, sản xuất lớn, ứng dụng công nghệ và quản lí phù hợp, kết hợp chế biến sâu, thương hiệu hóa sản phẩm, tạo ra giá trị gia tăng gấp nhiều lần.
Đáng chú ý, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là “vựa lúa” lớn, đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước và đóng góp 90% vào xuất khẩu gạo. Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL mở ra kì vọng mới về nâng cao giá trị lúa gạo, tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa. Ngành hàng lúa gạo chất lượng cao là một trong những dự án nằm trong quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng ĐBSCL thời kì 2021 - 2030. Theo đó, có 12 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL tham gia Đề án, gồm: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hậu Giang, Cà Mau, Tiền Giang và Vĩnh Long, chia thành 2 giai đoạn. Trong đó, giai đoạn 1 (2024 - 2025), tập trung củng cố các diện tích đã có của Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT) là 180.000 ha, bao gồm: Công tác tập huấn, xây dựng kế hoạch, xây dựng hệ thống đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV), kiểm đếm và thí điểm cấp tín chỉ carbon cho những vùng lúa đạt chuẩn, củng cố các hợp tác xã (HTX), duy tu, bảo dưỡng một số công trình và chuẩn bị kế hoạch cho giai đoạn 2026 - 2030.
Giai đoạn 2 (2026 - 2030), xác định cụ thể khu vực trọng tâm để lập dự án đầu tư phát triển vùng lúa chuyên canh chất lượng cao, giảm phát thải mới ngoài vùng Dự án VnSAT và sẽ mở rộng thêm 820.000 ha. Giai đoạn này sẽ tập trung vào các hoạt động chủ yếu như đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho những vùng diện tích mới, tổ chức lại sản xuất, xây dựng chuỗi giá trị, hoàn thiện hệ thống MRV, đồng thời duy trì sản xuất bền vững ở những vùng đề án trong giai đoạn 2024 - 2025, nếu tổ chức thực hiện tốt theo quy hoạch, xây dựng và vận hành dự án theo tư duy kinh tế ngành thì chắc chắn sẽ tạo ra sự đột phá có tính bước ngoặt cho nền kinh tế lúa gạo. Từ đó, góp phần quan trọng vào an ninh lương thực, đời sống người nông dân trồng lúa ngày càng được nâng cao, nông thôn ngày càng văn minh và đáng sống hơn. Đặc biệt hơn, dự án lúa gạo chất lượng cao còn góp phần đáng kể vào chương trình trung hòa khí thải mà Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra cam kết tại hội nghị COP26.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã hình thành được các vùng chuyên canh, chất lượng cao như lúa ở huyện Thới Lai, Cờ Ðỏ và Vĩnh Thạnh. Với ưu thế của vùng sản xuất lúa lớn, huyện Cờ Đỏ phát triển mạnh mẽ diện tích “Cánh đồng lớn” có bao tiêu đến nay gần 32.840 ha, đạt 101,04% kế hoạch năm. Các mô hình “Cánh đồng lớn” trên địa bàn huyện thời gian qua có sự tham gia liên kết, bao tiêu của nhiều doanh nghiệp, HTX và thương lái như Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, Công ty TNHH Thương mại Tân Thành, Doanh nghiệp tư nhân Ngọc Ngân, HTX Hiệp Mỹ Phát, HTX Tiến Dũng…
Còn tại An Giang, Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời (Tập đoàn Lộc Trời) là doanh nghiệp tiên phong xây dựng mô hình “Cánh đồng lớn” ở An Giang (khi còn mang tên gọi Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang), sau nhân rộng ra nhiều tỉnh ĐBSCL. Trong hành trình 30 năm qua, nhờ kiên trì với sứ mệnh “Cùng nông dân phát triển bền vững”, Lộc Trời đã nỗ lực trở thành tập đoàn dịch vụ nông nghiệp hàng đầu Việt Nam.
Không chỉ mở rộng vùng nguyên liệu liên kết “Cánh đồng lớn”, tham gia thành lập nhiều HTX kiểu mới, Tập đoàn Lộc Trời còn không ngừng hoàn thiện hệ sinh thái nông nghiệp khi cho ra đời các thành viên chủ chốt như: Viện Nghiên cứu nông nghiệp Lộc Trời (LTI), Công ty Cổ phần Giống cây trồng Lộc Trời (LTS), Lộc Trời - Vật tư nông nghiệp (LTV), Công ty TNHH Dịch vụ nông nghiệp Lộc Trời (LTF), Công ty Cổ phần Nông sản Lộc Trời (LTA). Những thành viên này đang kết nối chặt chẽ với nhau, cùng phối hợp với các đối tác, nông dân, HTX, tạo nên chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp bền vững. Trong hệ sinh thái lúa gạo, tất cả các bên tham gia, từ nông dân, HTX, tổ khuyến nông cộng đồng cho đến thương lái, doanh nghiệp liên kết, doanh nghiệp xuất khẩu, ngân hàng… đều được hưởng lợi và gắn kết chặt chẽ với nhau. Quyền lợi và nghĩa vụ đan xen giúp hệ sinh thái lúa gạo thêm phong phú, đa dạng, xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo bền vững hơn. Trong hệ sinh thái lúa gạo, các ngân hàng đóng vai trò quan trọng, tiếp vốn vào các thành phần tham gia, từ sản xuất đến thu mua, chế biến, xuất khẩu theo quy trình tín dụng khép kín, cấp vốn và thu hồi vốn qua tài khoản.
Nhìn tổng quan ngành hàng lúa gạo Việt Nam nói chung, vùng ĐBSCL nói riêng, có sự đóng góp lớn của ngành Ngân hàng với vai trò cung ứng vốn cho sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu.
Dòng chảy tín dụng - động lực phát triển...
Dòng chảy tín dụng cung ứng vốn cho ngành hàng lúa gạo của các ngân hàng vùng ĐBSCL đã góp phần đẩy mạnh sản xuất, chế biến và xuất khẩu đạt hiệu quả tích cực. Kết quả cho vay của các ngân hàng vùng ĐBSCL ở lĩnh vực lúa gạo đến cuối tháng 11/2023, đạt 111.635 đồng, tăng trưởng 9,35%; tỉnh Long An có tỉ trọng tăng trưởng cao nhất vùng đạt 21.717 tỉ đồng, kế đó là thành phố Cần Thơ đạt 16.790 tỉ đồng, đứng thứ ba là An Giang đạt 16.180 tỉ đồng.
Đáng chú ý, hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn vùng ĐBSCL đã bám sát chương trình kinh tế - xã hội tại địa phương và thế mạnh ngành hàng của từng tỉnh, thành phố trong vùng để tập trung cho vay phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế tại địa bàn.
Một số vấn đề đặt ra và giải pháp
Một là, giảm thất thoát gạo và tối ưu các chi phí trong quá trình chế biến lúa gạo bằng cách sử dụng công nghệ hiện đại giữ được chất lượng gạo, đồng thời đảm bảo an toàn thực phẩm,
Hai là, kiểm soát toàn chuỗi sản xuất từ cánh đồng tới bàn ăn theo tiêu chuẩn và thực hành nông nghiệp tốt, ứng dụng công nghệ AI để kiểm soát được quy trình sản xuất lúa gạo đang là giải pháp được quan tâm hiện nay.
Ba là, xây dựng bộ dữ liệu cho sản xuất lúa gạo ĐBSCL để đảm bảo thông tin, dữ liệu cung - cầu lúa gạo; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
Bốn là, tiếp tục hiện đại hóa chuỗi giá trị hạt gạo, bao gồm đổi mới thể chế, cải tiến công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, hướng đến sản xuất bền vững hơn, với môi trường, chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn.
Năm là, đẩy mạnh các chuỗi giá trị liên kết chặt chẽ các chủ thể tham gia quy trình trong mối quan hệ gắn bó công nghệ, thị trường, lợi ích.
Để thị trường lúa gạo phát triển bền vững trong thời gian tới, ngành lúa gạo ĐBSCL cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần theo dõi sát diễn biến thị trường lúa gạo toàn cầu, dự báo cung - cầu lúa gạo thế giới, đảm bảo cân đối cung - cầu lúa gạo trong nước và xuất khẩu gạo để tiếp tục đẩy mạnh vốn tín dụng cho lĩnh vực sản xuất lúa, chế biến và xuất khẩu gạo.
Thứ hai, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước xem xét xây dựng các chương trình tín dụng xanh cho nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng; hỗ trợ, ưu đãi cho các doanh nghiệp phát triển bền vững, thân thiện môi trường.
Thứ ba, các bộ, ngành đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các địa phương cần có quy hoạch tổng thể, rõ ràng về các vùng trồng, có cơ chế, biện pháp kiểm soát tổng cung, sản lượng của toàn vùng về lúa gạo để kiểm soát giá cả đầu ra và đảm bảo giá cho nông dân. Các địa phương cần quan tâm hỗ trợ, hướng dẫn pháp lí cho doanh nghiệp, hộ dân để đủ tài sản thế chấp, đảm bảo cho các khoản vay ngân hàng.
Thứ tư, doanh nghiệp hoạt động minh bạch, rõ ràng, để tạo niềm tin tốt, thực hiện tốt các cam kết với ngân hàng, đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng ngân hàng đang có tỉ lệ cấp tín dụng tín chấp cho khách hàng khá cao. Do đó, rất cần doanh nghiệp hoạt động rõ ràng, minh bạch để ngân hàng có niềm tin đẩy mạnh tín dụng, doanh nghiệp tập trung đầu tư vào các hoạt động kinh doanh cốt lõi, không đầu tư vào các lĩnh vực khác ngoài ngành để đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả, an toàn.
Thứ năm, các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để có điều kiện giảm lãi suất đối với cả các khoản vay mới và khoản vay cũ cho khách hàng, cả lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ. Quan tâm chương trình đồng tài trợ vốn vay giữa các ngân hàng đối với các dự án lớn. Tăng cường liên kết cho vay theo chuỗi giá trị, theo từng tác nhân trong chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo. Vấn đề tài sản đảm bảo thực hiện theo thẩm quyền của các ngân hàng thương mại, song phải lưu ý tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Thứ sáu, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành vùng ĐBSCL tiếp tục đóng vai trò đầu mối kết nối, nắm bắt kịp thời khó khăn thực tế để đồng hành cùng các ngân hàng thương mại trên địa bàn hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, cơ cấu lại sản xuất, kinh doanh, thị trường. Ðồng thời, tăng cường nguồn lực, minh bạch tài chính, dòng tiền, chia sẻ gắn bó với ngân hàng, chủ động trao đổi khó khăn để đề xuất giải pháp cùng nhau tháo gỡ.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo hoạt động ngân hàng (2022; tháng 11/2023) của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh 13 tỉnh/thành phố vùng ĐBSCL.
2. Báo cáo thường niên các năm 2020, 2021, 2022 của Ngân hàng Nhà nước.
3. Quyết định số 1490/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”.
ThS. Trần Trọng Triết