Chính sách tiền tệ năm 2018 với những hiệu quả đạt được
27/08/2019 30.582 lượt xem
Bài viết này tập trung đánh giá tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có tác động đến việc thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) trong việc thực hiện các mục tiêu đạt ra trong năm 2018 về kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế để thấy được đâu là vấn đề cốt lõi quyết định tính hiệu quả của CSTT.
 

 
Năm 2018 tăng trưởng tín dụng thấp, nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn cao, phản ánh tính hiệu quả của dòng vốn tín dụng và sự phát triển cân đối, hợp lý hơn của thị trường tài chính

Mục tiêu điều hành Chính sách tiền tệ năm 2018 được đặt ra là kiểm soát lạm phát ở mức Quốc hội phê duyệt là 4%, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý; đảm bảo thanh khoản cho các TCTD, ổn định thị trường tiền tệ, ổn định thị trường ngoại hối. Tính tới thời điểm này có thể nói, chính sách tiền tệ đã đạt được mục tiêu trong bối cảnh kinh tế, tiền tệ thế giới diễn biến không mấy thuận chiều.
 
1. Kiểm soát lạm phát
 
Trong năm 2018, yếu tố bất lợi nhất trong điều hành CSTT thực hiện mục tiêu kiểm soát, đó là những diễn biến phức tạp của giá cả thế giới. Do chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và bất ổn chính trị ở Trung Đông, khiến mặt hàng lương thực thực phẩm, giá dầu lúc tăng cao, lúc giảm sâu. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng đáng kể trong 9 tháng, đạt đỉnh trong tháng 4 với 91,71 điểm, sau đó liên tục giảm cho tới thời điểm kết thúc quý 3/2018 và tiếp tục đà giảm nhẹ trong tháng 9 đạt mức 84,77 điểm. Giá dầu sau khi giảm trong 2 tháng đầu năm, tăng mạnh trở lại bắt đầu từ tháng 3/2018; giảm nhẹ trong tháng 8, dao động ở mức 73USD/thùng; và bật tăng vào ngày 25/9 lên mức 81,20 USD/thùng, mức cao nhất kể từ năm 2014. Đặc biệt là trong 2 tháng gần đây, giá dầu thế giới chứng kiến sự biến động mạnh. Tính đến hết ngày 29/11/2018, giá dầu Brent và WTI tăng lần lượt 33% và 30% so với mức trung bình năm 2017. Giá dầu năm 2018 có xu hướng tăng dần và đạt đỉnh vào ngày 03/10/2018 – mức cao nhất trong vòng 4 năm, tăng lần lượt 30% và 27% so với hồi đầu năm, song ngay lập tức sụt giảm dần, xuống còn mức thấp nhất từ đầu năm đến nay vào ngày 28/11/2018, giảm 32% và 34% chỉ trong vòng 8 tuần. Tính đến hết ngày 29/11/2018, giá dầu Brent và WTI đã giảm lần lượt 11% và 17% so với hồi đầu năm. Áp lực lạm phát đối với Việt Nam là không thể phủ nhận, tuy nhiên, NHNN đã kiểm soát được lạm phát ổn định trong năm, không có những cú sốc về giá cả, chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm  khoảng 3,5% đạt mức lạm phát mục tiêu do Quốc hội phê chuẩn.
 
 
Kiểm soát được lạm phát ổn định ở mức này, xét từ góc độ của CSTT có thể thấy, NHNN đã kiểm soát tốt cung tiền, chủ động trong việc điều chỉnh lượng cung tiền tác động đến lạm phát, điều này được phản ảnh bởi diễn biến lạm phát cơ bản được kiểm soát tương đối hợp lý, hài hòa với mức độ tăng/giảm giá hàng hóa do tác động bới các yều tố phi tiền tệ, đảm bảo kiểm soát được lạm phát ở mức mục tiêu. Hỗ trợ tích cực cho kiểm soát lạm phát ngoài việc điều tiết cung tiền hợp lý, thì việc kiểm soát nợ xấu, nâng cao hiệu quả sử dụng dòng tiền ( vốn tín dụng) cũng có tác động tốt đến kiểm soát lạm phát.(đồ thị 1)
 
2. Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
 
Tăng trưởng kinh tế thế giới có sự phục hồi nhưng không mấy thuận lợi cho Việt Nam.  Mặc dù tăng trưởng kinh tế thế giới 6 tháng cuối năm có dấu hiệu chậm lại so với đầu năm, nhưng cả năm vẫn đạt mức tăng 3,9% (IMF dự báo). Tuy nhiên, mức độ phục hồi kinh tế của các nền kinh tế chủ chốt là không giống nhau: kinh tế Mỹ vẫn tiếp tục đà tăng trưởng vững chắc cao hơn năm 2017, đạt mức khoảng 3,1%, tỷ lệ thất nghiệp đạt  mức thấp nhất trong nhiều năm nay (3,7%); Kinh tế Trung Quốc không có nhiều dấu hiệu khởi sắc, mà đang có dấu hiệu “hạ nhiệt” giữa bối cảnh Mỹ áp đặt các mức thuế thương mại mới đối với hàng hóa Trung Quốc, sản xuất công nghiệp vẫn duy trì ở mức thấp, nhu cầu nội địa yếu đi, niềm tin vào kinh doanh giảm sút, biểu hiện ở doanh số bán lẻ chững lại. IMF dự báo tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc năm 2018 chỉ đạt mức 6,6%; Kinh tế khu vực châu Âu, mặc dù có những biến động về chính trị và sự kiện brexits, song vẫn cho thấy triển vọng khả quan, dự kiến tăng trưởng ở mức 2,2%. Tuy nhiên, áp lực về giá cả và việc làm ở khu vực nay vẫn cao; Kinh tế Nhật Bản do ảnh hưởng của thiên tai và suy giảm xuất khẩu nên tăng trưởng GDP trong quý 3 giảm so với quý trước và giảm đáng kể so với cùng kỳ (1,2%). Diễn biến kinh tế thế giới như vậy cũng ảnh hưởng bất lợi đến việc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn đạt kết quả khả quan. Theo thông báo của Tổng cục Thống kê cho thấy, GDP năm 2018 tăng 7,08% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất cùng kỳ kể từ năm 2008 trở về đây, trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp 42,7%; Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2012 - 2018, khẳng định xu thế chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, mặt khác, giá bán sản phẩm ổn định cùng với thị trường xuất khẩu được mở rộng là động lực chính thúc đẩy sản xuất của khu vực này; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 12,81%. Cán cân thương mại thặng dư ở mức kỷ lục 7,2 tỷ USD). Đáng chú ý, nhập siêu hàng hóa từ Hàn Quốc và Trung Quốc của Việt Nam sau 11 tháng đều giảm và xuất siêu sang Hoa Kỳ và EU đều tăng so cùng kỳ năm 2017; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2018 ước tính đạt 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2017. Trong năm 2018, còn có 6.496 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 9,89 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó có 1.113 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 4,25 tỷ USD và 5.383 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 5,64 tỷ USD.
 
Đạt được kết quả này không thể không có sự đóng góp tích cực của CSTT. Năm 2018, mặc dù tăng trưởng tín dụng được kiểm soát chặt chẽ dưới 15%, nhưng dòng vốn được ưu tiên tập trung vào các ngành sản xuất, chế biến chế tạo, nông nghiệp nông thôn góp phần đáng kể vào việc cải thiện cơ cấu kinh tế. Đặc biệt, việc kiểm soát lạm phát, giữ vững sự ổn định tiền tệ, tỷ giá trong bối cảnh đồng USD lên giá là động lực quan trọng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển sản xuất kinh doanh. Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho rằng “Ổn định tài chính, duy trì huyết mạch của nền kinh tế là điều kiện then chốt cho ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững”.
 
3. Ổn định thị trường tiền tệ
 
Năm 2018 phản ánh bức tranh "một thị trường tài chính tiền tệ ổn định" trong bối cảnh thị trường tài chính quốc tế cũng không ít những biến động khó lường, do CSTT của các nước trên thế giới điều hành có sự khác biệt, trái chiều giữa các nền kinh tế chủ chốt: Ngân hàng trung ương Mỹ (Fed) tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt, trong năm 2018, Fed 6 lần tăng lãi suất chỉ đạo, Fed tiếp tục chỉ đạo tăng lãi suất, cùng với chính sách giảm thuế mới  khiến dòng vốn FDI có xu hướng dịch chuyển về Mỹ, đồng USD tiếp tục tăng giá trong những tháng cuối năm, chỉ số DXY từ mức 89,91 những ngày đầu tháng 2/2018 đã đạt mức 96,14 điểm ngày 18/12/2018; Chính sách tiền tệ của Trung Quốc thực hiện theo xu hướng nới lỏng hơn, mặc dù lãi suất chủ đạo không tăng, song PBOC có xu hướng bơm ròng tiền ra với kỳ hạn dài cho các NHTM để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, trong 5 tháng đầu năm đồng CNY có xu hướng mất giá đáng kể so với USD, PBOC đã thiết lập cơ chế mới quản lý tỷ giá hối đoái, hình thành giá trị trung điểm giao dịch hàng này và biên độ giao dịch không vượt quá 2%, theo đó, đến tháng 8/2018, CNY đã chấm dứt xu hướng mất giá trong 5 tháng liên tiếp trước đó và giữ ổn định dao động ở mức 1 USD = 6,8 CNY cho đến hết năm 2018; Xu hướng phục hồi dần theo hướng giảm sự nới lỏng CSTT của NHTW châu Âu chưa rõ nét, cung tiền vẫn có xu hướng tăng do ECB tiếp tục mua thêm tài sản, đồng thời vẫn giữ nguyên các mức lãi suất thấp kỷ lục (lãi suất tái cấp vốn, lãi cận biên cho vay, lãi suất tiền gửi lần lượt ở mức 0%, 0,25% và -0,4% không đổi cho ít nhất đến giữa năm 2019); NHTW Nhật Bản tiếp tục thực hiện CSTT nới lỏng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng này cũng tuyên bố sẽ giữ các mức lãi suất rất thấp này trong một thời gian dài để đạt được lạm phát mục tiêu 2% đặt ra, lãi suất ngắn hạn ở mức -0,1% và lãi suất mục tiêu của TPCP 10 năm quanh ngưỡng 0%.
 
Mặc dù vậy, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn giữ được ổn định. Lãi suất và tỷ giá như một hạn thị biểu phản ánh cung cầu vốn trên thị trường, cũng như phản ảnh tình hình ổn định của thị trường, một thị trường để xảy ra nhiều “cú sốc” về sự lên xuống thất thường của lãi suất và tỷ giá cho thấy một thị trường đang có sự bất ổn do sự kém điều hành của NHTW, sự yếu kém của các định chế tài chính trên thị trường. Trên thị trường tiền tệ Việt Nam năm 2018, lãi suất và tỷ giá đã giữ được ổn định, mặc dù Fed tăng lãi suất, nhưng tỷ giá VND về cơ bản giữ được ổn định, sự biến động của tỷ giá theo chiều hướng tăng phù hợp với sự tăng giá của đồng USD trên thị trường thế giới. Chỉ số đô la Mỹ, do sức mạnh đồng bạc xanh với các ngoại tệ chính đã tăng từ mức xấp xỉ 90 điểm những ngày đầu năm 2018 lên mức xấp xỉ 96 điểm những ngày cuối năm 2018, do trong năm 2018 Fed liên tục tăng lãi suất, tăng trưởng kinh tế Mỹ phục hồi. Tỷ giá VND trong năm tăng khoảng 2,4% nằm trong mục tiêu điều hành là tỷ giá dao động tăng từ mức 2-3% trong năm 2018; lãi suất VND nhìn chung ổn định, có xu hướng tăng nhẹ vào những tháng cuối năm, tính chung cả năm lãi suất tiền gửi bình quân tăng từ 5,11% năm 2017 lên 5,25% năm. Lãi suất cho vay bình quân từ mức 8,86% năm 2017 lên khoảng 8,91%. Mặt bằng lãi suất huy động đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,6%-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3%-5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3%-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; Kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5%-7,3%/năm. Lãi suất cho vay đồng Việt Nam phổ biến khoảng 6%-9%/năm đối với ngắn hạn và 9%-11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với lãi suất trái phiếu thường cao hơn lãi suất tiết kiệm, do thời hạn dài, đối tượng chọn lọc, có mục tiêu cụ thể… Nguyên nhân tăng lãi suất chủ yếu do lạm phát kỳ vọng tăng và các TCTD cơ cấu lại nguốn vốn để đáp ứng lộ trình thực hiện các tỷ lệ an toàn trong năm 2019 như tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm xuống 40% và chuẩn bị tăng vốn cấp 2 theo Basel II. (Đồ thị 2)

 
Bên cạnh đó, dòng vốn luân chuyển trên thị trường tiền tệ thông suốt, hiệu quả:  Theo báo cáo thường niên của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, tốc độ tăng cung tiền M2 và tín dụng đều giữ xu hướng giảm. Tỷ lệ M2/GDP đến cuối năm 2018 ước khoảng 168%, tăng thấp hơn so với bình quân giai đoạn 2012-2016. Tín dụng năm 2018 ước tăng 14-15%, thấp hơn 3-4 điểm phần trăm so với năm 2017. Đây cũng là mức thấp nhất từ năm 2015 đến nay. Tỷ lệ tín dụng/GDP khoảng 134%, tăng 1,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2017, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2015. Cung tiền, tín dụng đang dần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo mục tiêu ổn định vĩ mô.
 
Vấn đề tăng trưởng tín dụng thấp, mà tăng trưởng kinh tế vẫn đạt mục tiêu, được đánh giá là điểm tích cực trong diễn biến thị trường tiền tệ năm nay. Nếu như những năm trước đây, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì đều dựa vào tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng cao thường đi kèm với rủi ro tín dụng, đó là nợ xấu tăng cao, hậu quả là dẫn đến lạm phát cao vì dòng tiền bơm ra không tạo hiệu quả trong việc tạo ra giá trị sản phẩm mới, lạm phát cao dẫn đến bất ổn vĩ mô. Năm 2018 tăng trưởng tín dụng thấp, nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn cao, nó phản ánh tính hiệu quả của dòng vốn tín dụng và sự phát triển cân đối, hợp lý hơn của thị trường tài chính. Điều này sẽ càng thu hút các nhà đầu tư vào Việt Nam; Tốc độ tăng TPTTT chủ yếu không phải tác động từ yếu tố tín dụng, mà do việc tài sản có ngoại tệ, đồng nghĩa với việc NHNN mua được nhiều ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối, yếu tố này cũng tác động hạn chế đến lạm phát.
 
Thanh khoản của thị trường được đảm bảo: Hệ số LDR năm nay là 87,5 % thấp hơn một chút so với năm 2017 (87,8), với mức này thị trường luôn đảm bảo được khả năng thanh khoản. Điều này cho thấy, các TCTD đã nâng cao được khả năng quản trị nguồn vốn của mình cùng với việc hiệu quả điều tiết tiền tệ của NHNN, dòng vốn không bị để tồn đọng cao cho việc bảo đảm thanh khoản. Mặc dù những tháng cuối năm nhiều NHTM tăng lãi suất huy động vốn để huy động vốn, nó không phản ánh tính thanh khoản kém dồi dào, nó cho thấy tính chủ động của các TCTD trong việc cân đối nguồn vốn của mình sát với cung cầu vốn thị trường. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng phản ánh tương đối chính xác cung, cầu vốn trên thị trường. Năm 2018, trên thị trường liên ngân hàng lãi suất qua đêm VND tăng từ mức bình quân khoảng 1,53% trong đầu năm lên khoảng 3% trong nửa cuối năm 2018. Điều này cũng phản ánh tính thời vụ của thị trường tiền tệ trong năm.
 
Điều đáng nói ở đây, đó là CSTT đã hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu hệ thống các NHTM, như tái cơ cấu nguồn vốn, nâng cao chất lượng sử dụng nguồn vốn do các biện pháp thắt chặt tăng trưởng tín dụng và các yêu cầu về tăng tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động, cũng như các biện pháp hỗ trợ thanh khoản kịp thời cho các TCTD, theo đó, tạo điều kiện cho các TCTD tăng huy động vốn dài hạn, giảm tỷ trọng huy động vốn ngắn hạn, mở rộng đầu tư dài hạn hỗ trợ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
 
Thêm vào đó, kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá là điều kiện quan trọng để NHNN tăng được lượng dự trữ ngoại hối đạt được mức tích lũy cao ở mức kỷ lục trong năm 2018, điều này  cho thấy lòng tin vào chính sách của Chính phủ và NHNN đã và đang được củng cố, hỗ trợ cho các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao khả năng chống chọi với các cú sốc của nền kinh tế.
 
Như vậy, có thể thấy, vấn đề cốt lõi đảm bảo cho CSTT đạt được mục tiêu đặt ra, đó là: (i) việc lựa chọn đúng mục tiêu điều hành cần hướng tới trên cơ sở dự báo chính xác nhân tố chính tác động đến mục tiêu của CSTT; (ii) cách thức điều hành cẩn trọng, linh hoạt, phối hợp tốt với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác đưa ra những giải pháp hữu hiệu điều tiết cung tiền, chất lượng dòng vốn hướng tới mục tiêu: Kiểm soát ở mức sát với mục tiêu đặt ra; ổn định được thị trường tiền tệ, ngoại hối, lãi suất duy trì ở mức thấp, tỷ giá và thị trường vàng được duy trì ổn định, mặc dù đồng đô la lên giá nhưng tỷ giá vẫn kiểm soát trong phạm vi cho phép; giúp tháo gỡ các khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tăng dự trữ ngoại tệ, tạo lòng tin đối với các nhà đấu tư trong và ngoài nước…
 
Trong năm 2019, tình hình kinh tế - chính trị  thế giới vẫn tiếp tục có những diễn biến khó lường, bất ổn, xu hướng điều  hành CSTT của các nền kinh tế lớn cũng khó dự đoán. Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực sẽ tạo ra sức ép không nhỏ đối với ngành ngân hàng, khi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia sâu, rộng hơn và cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng trong nước, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Đặc biệt, việc điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá có thể sẽ gặp nhiều thách thức và chịu ảnh hưởng từ các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới, sẽ có nhiều yếu tố khó lường khi chiến tranh thương mại leo thang, chính sách thắt chặt tiền tệ của Fed và nhiều Ngân hàng Trung ương lớn trên thế giới...; điều đó đòi hỏi NHNN tiếp tục nâng cao năng lực phân tích dự báo, tiếp tục cách thức điều hành chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với CSTK và các chính sách kinh tế vĩ mô khác giải quyết các vấn đề mang tính cốt lõi và có tính lan tỏa của CSTT đến mục tiêu cần đạt được; kiểm soát chặt chẽ dòng vốn đảm bảo tính hiệu quả, thông qua các giải pháp đảm bảo chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động của các TCTD; đảm bảo ổn định tỷ giá, kiểm soát tốt lạm phát là điều kiện quyết định thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh những giải pháp chính sách thông thoáng, thu hút đầu tư nước ngoài của các bộ ngành, chính quyền địa phương các cấp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế để tăng cường nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế nhằm cải thiện tốt hơn kênh truyền tải của CSTT, qua đó đạt được hiệu quả cao trong điều hành CSTT.
 
Tài liệu tham khảo
- Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế xã hội năm 2018 của TCTK.
- Báo cáo Kinh tế vĩ mô 11 tháng năm 2018 của Trung tâm nghiên cứu BIDV.
- Báo cáo thường niên năm 2018 của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia.
 

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh

Nguồn: TCNH số 2+3/2019

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 241 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 356 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 680 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.129 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.667 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.173 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 6.644 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.210 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.286 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 9.116 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.248 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.424 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.203 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 4.076 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.562 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?