Chính sách tiền tệ năm 2018 với những hiệu quả đạt được
27/08/2019 10:28 31.537 lượt xem
Bài viết này tập trung đánh giá tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có tác động đến việc thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) trong việc thực hiện các mục tiêu đạt ra trong năm 2018 về kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế để thấy được đâu là vấn đề cốt lõi quyết định tính hiệu quả của CSTT.
 

 
Năm 2018 tăng trưởng tín dụng thấp, nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn cao, phản ánh tính hiệu quả của dòng vốn tín dụng và sự phát triển cân đối, hợp lý hơn của thị trường tài chính

Mục tiêu điều hành Chính sách tiền tệ năm 2018 được đặt ra là kiểm soát lạm phát ở mức Quốc hội phê duyệt là 4%, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý; đảm bảo thanh khoản cho các TCTD, ổn định thị trường tiền tệ, ổn định thị trường ngoại hối. Tính tới thời điểm này có thể nói, chính sách tiền tệ đã đạt được mục tiêu trong bối cảnh kinh tế, tiền tệ thế giới diễn biến không mấy thuận chiều.
 
1. Kiểm soát lạm phát
 
Trong năm 2018, yếu tố bất lợi nhất trong điều hành CSTT thực hiện mục tiêu kiểm soát, đó là những diễn biến phức tạp của giá cả thế giới. Do chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và bất ổn chính trị ở Trung Đông, khiến mặt hàng lương thực thực phẩm, giá dầu lúc tăng cao, lúc giảm sâu. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng đáng kể trong 9 tháng, đạt đỉnh trong tháng 4 với 91,71 điểm, sau đó liên tục giảm cho tới thời điểm kết thúc quý 3/2018 và tiếp tục đà giảm nhẹ trong tháng 9 đạt mức 84,77 điểm. Giá dầu sau khi giảm trong 2 tháng đầu năm, tăng mạnh trở lại bắt đầu từ tháng 3/2018; giảm nhẹ trong tháng 8, dao động ở mức 73USD/thùng; và bật tăng vào ngày 25/9 lên mức 81,20 USD/thùng, mức cao nhất kể từ năm 2014. Đặc biệt là trong 2 tháng gần đây, giá dầu thế giới chứng kiến sự biến động mạnh. Tính đến hết ngày 29/11/2018, giá dầu Brent và WTI tăng lần lượt 33% và 30% so với mức trung bình năm 2017. Giá dầu năm 2018 có xu hướng tăng dần và đạt đỉnh vào ngày 03/10/2018 – mức cao nhất trong vòng 4 năm, tăng lần lượt 30% và 27% so với hồi đầu năm, song ngay lập tức sụt giảm dần, xuống còn mức thấp nhất từ đầu năm đến nay vào ngày 28/11/2018, giảm 32% và 34% chỉ trong vòng 8 tuần. Tính đến hết ngày 29/11/2018, giá dầu Brent và WTI đã giảm lần lượt 11% và 17% so với hồi đầu năm. Áp lực lạm phát đối với Việt Nam là không thể phủ nhận, tuy nhiên, NHNN đã kiểm soát được lạm phát ổn định trong năm, không có những cú sốc về giá cả, chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm  khoảng 3,5% đạt mức lạm phát mục tiêu do Quốc hội phê chuẩn.
 
 
Kiểm soát được lạm phát ổn định ở mức này, xét từ góc độ của CSTT có thể thấy, NHNN đã kiểm soát tốt cung tiền, chủ động trong việc điều chỉnh lượng cung tiền tác động đến lạm phát, điều này được phản ảnh bởi diễn biến lạm phát cơ bản được kiểm soát tương đối hợp lý, hài hòa với mức độ tăng/giảm giá hàng hóa do tác động bới các yều tố phi tiền tệ, đảm bảo kiểm soát được lạm phát ở mức mục tiêu. Hỗ trợ tích cực cho kiểm soát lạm phát ngoài việc điều tiết cung tiền hợp lý, thì việc kiểm soát nợ xấu, nâng cao hiệu quả sử dụng dòng tiền ( vốn tín dụng) cũng có tác động tốt đến kiểm soát lạm phát.(đồ thị 1)
 
2. Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
 
Tăng trưởng kinh tế thế giới có sự phục hồi nhưng không mấy thuận lợi cho Việt Nam.  Mặc dù tăng trưởng kinh tế thế giới 6 tháng cuối năm có dấu hiệu chậm lại so với đầu năm, nhưng cả năm vẫn đạt mức tăng 3,9% (IMF dự báo). Tuy nhiên, mức độ phục hồi kinh tế của các nền kinh tế chủ chốt là không giống nhau: kinh tế Mỹ vẫn tiếp tục đà tăng trưởng vững chắc cao hơn năm 2017, đạt mức khoảng 3,1%, tỷ lệ thất nghiệp đạt  mức thấp nhất trong nhiều năm nay (3,7%); Kinh tế Trung Quốc không có nhiều dấu hiệu khởi sắc, mà đang có dấu hiệu “hạ nhiệt” giữa bối cảnh Mỹ áp đặt các mức thuế thương mại mới đối với hàng hóa Trung Quốc, sản xuất công nghiệp vẫn duy trì ở mức thấp, nhu cầu nội địa yếu đi, niềm tin vào kinh doanh giảm sút, biểu hiện ở doanh số bán lẻ chững lại. IMF dự báo tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc năm 2018 chỉ đạt mức 6,6%; Kinh tế khu vực châu Âu, mặc dù có những biến động về chính trị và sự kiện brexits, song vẫn cho thấy triển vọng khả quan, dự kiến tăng trưởng ở mức 2,2%. Tuy nhiên, áp lực về giá cả và việc làm ở khu vực nay vẫn cao; Kinh tế Nhật Bản do ảnh hưởng của thiên tai và suy giảm xuất khẩu nên tăng trưởng GDP trong quý 3 giảm so với quý trước và giảm đáng kể so với cùng kỳ (1,2%). Diễn biến kinh tế thế giới như vậy cũng ảnh hưởng bất lợi đến việc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn đạt kết quả khả quan. Theo thông báo của Tổng cục Thống kê cho thấy, GDP năm 2018 tăng 7,08% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất cùng kỳ kể từ năm 2008 trở về đây, trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp 42,7%; Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2012 - 2018, khẳng định xu thế chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, mặt khác, giá bán sản phẩm ổn định cùng với thị trường xuất khẩu được mở rộng là động lực chính thúc đẩy sản xuất của khu vực này; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 12,81%. Cán cân thương mại thặng dư ở mức kỷ lục 7,2 tỷ USD). Đáng chú ý, nhập siêu hàng hóa từ Hàn Quốc và Trung Quốc của Việt Nam sau 11 tháng đều giảm và xuất siêu sang Hoa Kỳ và EU đều tăng so cùng kỳ năm 2017; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2018 ước tính đạt 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2017. Trong năm 2018, còn có 6.496 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 9,89 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó có 1.113 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 4,25 tỷ USD và 5.383 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 5,64 tỷ USD.
 
Đạt được kết quả này không thể không có sự đóng góp tích cực của CSTT. Năm 2018, mặc dù tăng trưởng tín dụng được kiểm soát chặt chẽ dưới 15%, nhưng dòng vốn được ưu tiên tập trung vào các ngành sản xuất, chế biến chế tạo, nông nghiệp nông thôn góp phần đáng kể vào việc cải thiện cơ cấu kinh tế. Đặc biệt, việc kiểm soát lạm phát, giữ vững sự ổn định tiền tệ, tỷ giá trong bối cảnh đồng USD lên giá là động lực quan trọng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển sản xuất kinh doanh. Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho rằng “Ổn định tài chính, duy trì huyết mạch của nền kinh tế là điều kiện then chốt cho ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững”.
 
3. Ổn định thị trường tiền tệ
 
Năm 2018 phản ánh bức tranh "một thị trường tài chính tiền tệ ổn định" trong bối cảnh thị trường tài chính quốc tế cũng không ít những biến động khó lường, do CSTT của các nước trên thế giới điều hành có sự khác biệt, trái chiều giữa các nền kinh tế chủ chốt: Ngân hàng trung ương Mỹ (Fed) tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt, trong năm 2018, Fed 6 lần tăng lãi suất chỉ đạo, Fed tiếp tục chỉ đạo tăng lãi suất, cùng với chính sách giảm thuế mới  khiến dòng vốn FDI có xu hướng dịch chuyển về Mỹ, đồng USD tiếp tục tăng giá trong những tháng cuối năm, chỉ số DXY từ mức 89,91 những ngày đầu tháng 2/2018 đã đạt mức 96,14 điểm ngày 18/12/2018; Chính sách tiền tệ của Trung Quốc thực hiện theo xu hướng nới lỏng hơn, mặc dù lãi suất chủ đạo không tăng, song PBOC có xu hướng bơm ròng tiền ra với kỳ hạn dài cho các NHTM để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, trong 5 tháng đầu năm đồng CNY có xu hướng mất giá đáng kể so với USD, PBOC đã thiết lập cơ chế mới quản lý tỷ giá hối đoái, hình thành giá trị trung điểm giao dịch hàng này và biên độ giao dịch không vượt quá 2%, theo đó, đến tháng 8/2018, CNY đã chấm dứt xu hướng mất giá trong 5 tháng liên tiếp trước đó và giữ ổn định dao động ở mức 1 USD = 6,8 CNY cho đến hết năm 2018; Xu hướng phục hồi dần theo hướng giảm sự nới lỏng CSTT của NHTW châu Âu chưa rõ nét, cung tiền vẫn có xu hướng tăng do ECB tiếp tục mua thêm tài sản, đồng thời vẫn giữ nguyên các mức lãi suất thấp kỷ lục (lãi suất tái cấp vốn, lãi cận biên cho vay, lãi suất tiền gửi lần lượt ở mức 0%, 0,25% và -0,4% không đổi cho ít nhất đến giữa năm 2019); NHTW Nhật Bản tiếp tục thực hiện CSTT nới lỏng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng này cũng tuyên bố sẽ giữ các mức lãi suất rất thấp này trong một thời gian dài để đạt được lạm phát mục tiêu 2% đặt ra, lãi suất ngắn hạn ở mức -0,1% và lãi suất mục tiêu của TPCP 10 năm quanh ngưỡng 0%.
 
Mặc dù vậy, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn giữ được ổn định. Lãi suất và tỷ giá như một hạn thị biểu phản ánh cung cầu vốn trên thị trường, cũng như phản ảnh tình hình ổn định của thị trường, một thị trường để xảy ra nhiều “cú sốc” về sự lên xuống thất thường của lãi suất và tỷ giá cho thấy một thị trường đang có sự bất ổn do sự kém điều hành của NHTW, sự yếu kém của các định chế tài chính trên thị trường. Trên thị trường tiền tệ Việt Nam năm 2018, lãi suất và tỷ giá đã giữ được ổn định, mặc dù Fed tăng lãi suất, nhưng tỷ giá VND về cơ bản giữ được ổn định, sự biến động của tỷ giá theo chiều hướng tăng phù hợp với sự tăng giá của đồng USD trên thị trường thế giới. Chỉ số đô la Mỹ, do sức mạnh đồng bạc xanh với các ngoại tệ chính đã tăng từ mức xấp xỉ 90 điểm những ngày đầu năm 2018 lên mức xấp xỉ 96 điểm những ngày cuối năm 2018, do trong năm 2018 Fed liên tục tăng lãi suất, tăng trưởng kinh tế Mỹ phục hồi. Tỷ giá VND trong năm tăng khoảng 2,4% nằm trong mục tiêu điều hành là tỷ giá dao động tăng từ mức 2-3% trong năm 2018; lãi suất VND nhìn chung ổn định, có xu hướng tăng nhẹ vào những tháng cuối năm, tính chung cả năm lãi suất tiền gửi bình quân tăng từ 5,11% năm 2017 lên 5,25% năm. Lãi suất cho vay bình quân từ mức 8,86% năm 2017 lên khoảng 8,91%. Mặt bằng lãi suất huy động đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,6%-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3%-5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3%-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; Kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5%-7,3%/năm. Lãi suất cho vay đồng Việt Nam phổ biến khoảng 6%-9%/năm đối với ngắn hạn và 9%-11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với lãi suất trái phiếu thường cao hơn lãi suất tiết kiệm, do thời hạn dài, đối tượng chọn lọc, có mục tiêu cụ thể… Nguyên nhân tăng lãi suất chủ yếu do lạm phát kỳ vọng tăng và các TCTD cơ cấu lại nguốn vốn để đáp ứng lộ trình thực hiện các tỷ lệ an toàn trong năm 2019 như tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm xuống 40% và chuẩn bị tăng vốn cấp 2 theo Basel II. (Đồ thị 2)

 
Bên cạnh đó, dòng vốn luân chuyển trên thị trường tiền tệ thông suốt, hiệu quả:  Theo báo cáo thường niên của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, tốc độ tăng cung tiền M2 và tín dụng đều giữ xu hướng giảm. Tỷ lệ M2/GDP đến cuối năm 2018 ước khoảng 168%, tăng thấp hơn so với bình quân giai đoạn 2012-2016. Tín dụng năm 2018 ước tăng 14-15%, thấp hơn 3-4 điểm phần trăm so với năm 2017. Đây cũng là mức thấp nhất từ năm 2015 đến nay. Tỷ lệ tín dụng/GDP khoảng 134%, tăng 1,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2017, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2015. Cung tiền, tín dụng đang dần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo mục tiêu ổn định vĩ mô.
 
Vấn đề tăng trưởng tín dụng thấp, mà tăng trưởng kinh tế vẫn đạt mục tiêu, được đánh giá là điểm tích cực trong diễn biến thị trường tiền tệ năm nay. Nếu như những năm trước đây, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì đều dựa vào tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng cao thường đi kèm với rủi ro tín dụng, đó là nợ xấu tăng cao, hậu quả là dẫn đến lạm phát cao vì dòng tiền bơm ra không tạo hiệu quả trong việc tạo ra giá trị sản phẩm mới, lạm phát cao dẫn đến bất ổn vĩ mô. Năm 2018 tăng trưởng tín dụng thấp, nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn cao, nó phản ánh tính hiệu quả của dòng vốn tín dụng và sự phát triển cân đối, hợp lý hơn của thị trường tài chính. Điều này sẽ càng thu hút các nhà đầu tư vào Việt Nam; Tốc độ tăng TPTTT chủ yếu không phải tác động từ yếu tố tín dụng, mà do việc tài sản có ngoại tệ, đồng nghĩa với việc NHNN mua được nhiều ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối, yếu tố này cũng tác động hạn chế đến lạm phát.
 
Thanh khoản của thị trường được đảm bảo: Hệ số LDR năm nay là 87,5 % thấp hơn một chút so với năm 2017 (87,8), với mức này thị trường luôn đảm bảo được khả năng thanh khoản. Điều này cho thấy, các TCTD đã nâng cao được khả năng quản trị nguồn vốn của mình cùng với việc hiệu quả điều tiết tiền tệ của NHNN, dòng vốn không bị để tồn đọng cao cho việc bảo đảm thanh khoản. Mặc dù những tháng cuối năm nhiều NHTM tăng lãi suất huy động vốn để huy động vốn, nó không phản ánh tính thanh khoản kém dồi dào, nó cho thấy tính chủ động của các TCTD trong việc cân đối nguồn vốn của mình sát với cung cầu vốn thị trường. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng phản ánh tương đối chính xác cung, cầu vốn trên thị trường. Năm 2018, trên thị trường liên ngân hàng lãi suất qua đêm VND tăng từ mức bình quân khoảng 1,53% trong đầu năm lên khoảng 3% trong nửa cuối năm 2018. Điều này cũng phản ánh tính thời vụ của thị trường tiền tệ trong năm.
 
Điều đáng nói ở đây, đó là CSTT đã hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu hệ thống các NHTM, như tái cơ cấu nguồn vốn, nâng cao chất lượng sử dụng nguồn vốn do các biện pháp thắt chặt tăng trưởng tín dụng và các yêu cầu về tăng tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động, cũng như các biện pháp hỗ trợ thanh khoản kịp thời cho các TCTD, theo đó, tạo điều kiện cho các TCTD tăng huy động vốn dài hạn, giảm tỷ trọng huy động vốn ngắn hạn, mở rộng đầu tư dài hạn hỗ trợ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
 
Thêm vào đó, kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá là điều kiện quan trọng để NHNN tăng được lượng dự trữ ngoại hối đạt được mức tích lũy cao ở mức kỷ lục trong năm 2018, điều này  cho thấy lòng tin vào chính sách của Chính phủ và NHNN đã và đang được củng cố, hỗ trợ cho các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao khả năng chống chọi với các cú sốc của nền kinh tế.
 
Như vậy, có thể thấy, vấn đề cốt lõi đảm bảo cho CSTT đạt được mục tiêu đặt ra, đó là: (i) việc lựa chọn đúng mục tiêu điều hành cần hướng tới trên cơ sở dự báo chính xác nhân tố chính tác động đến mục tiêu của CSTT; (ii) cách thức điều hành cẩn trọng, linh hoạt, phối hợp tốt với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác đưa ra những giải pháp hữu hiệu điều tiết cung tiền, chất lượng dòng vốn hướng tới mục tiêu: Kiểm soát ở mức sát với mục tiêu đặt ra; ổn định được thị trường tiền tệ, ngoại hối, lãi suất duy trì ở mức thấp, tỷ giá và thị trường vàng được duy trì ổn định, mặc dù đồng đô la lên giá nhưng tỷ giá vẫn kiểm soát trong phạm vi cho phép; giúp tháo gỡ các khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tăng dự trữ ngoại tệ, tạo lòng tin đối với các nhà đấu tư trong và ngoài nước…
 
Trong năm 2019, tình hình kinh tế - chính trị  thế giới vẫn tiếp tục có những diễn biến khó lường, bất ổn, xu hướng điều  hành CSTT của các nền kinh tế lớn cũng khó dự đoán. Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực sẽ tạo ra sức ép không nhỏ đối với ngành ngân hàng, khi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia sâu, rộng hơn và cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng trong nước, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Đặc biệt, việc điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá có thể sẽ gặp nhiều thách thức và chịu ảnh hưởng từ các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới, sẽ có nhiều yếu tố khó lường khi chiến tranh thương mại leo thang, chính sách thắt chặt tiền tệ của Fed và nhiều Ngân hàng Trung ương lớn trên thế giới...; điều đó đòi hỏi NHNN tiếp tục nâng cao năng lực phân tích dự báo, tiếp tục cách thức điều hành chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với CSTK và các chính sách kinh tế vĩ mô khác giải quyết các vấn đề mang tính cốt lõi và có tính lan tỏa của CSTT đến mục tiêu cần đạt được; kiểm soát chặt chẽ dòng vốn đảm bảo tính hiệu quả, thông qua các giải pháp đảm bảo chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động của các TCTD; đảm bảo ổn định tỷ giá, kiểm soát tốt lạm phát là điều kiện quyết định thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh những giải pháp chính sách thông thoáng, thu hút đầu tư nước ngoài của các bộ ngành, chính quyền địa phương các cấp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế để tăng cường nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế nhằm cải thiện tốt hơn kênh truyền tải của CSTT, qua đó đạt được hiệu quả cao trong điều hành CSTT.
 
Tài liệu tham khảo
- Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế xã hội năm 2018 của TCTK.
- Báo cáo Kinh tế vĩ mô 11 tháng năm 2018 của Trung tâm nghiên cứu BIDV.
- Báo cáo thường niên năm 2018 của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia.
 

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh

Nguồn: TCNH số 2+3/2019

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
23/10/2024 08:25 77 lượt xem
Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành tăng trưởng tín dụng linh hoạt, hiệu quả, kịp thời, đáp ứng vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bảo hiểm nông nghiệp: Lá chắn tài chính trước rủi ro thiên tai
Bảo hiểm nông nghiệp: "Lá chắn" tài chính trước rủi ro thiên tai
24/09/2024 10:11 1.795 lượt xem
Nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù Việt Nam là một quốc gia dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, nhưng khái niệm bảo hiểm nông nghiệp vẫn còn khá xa lạ đối với người dân.
An ninh tài chính, tiền tệ của Việt Nam đến năm 2030 và khuyến nghị chính sách*
An ninh tài chính, tiền tệ của Việt Nam đến năm 2030 và khuyến nghị chính sách*
19/09/2024 08:36 2.317 lượt xem
An ninh tài chính, tiền tệ có vị trí, vai trò ngày càng quan trọng với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và căng thẳng như hiện nay, bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ không chỉ góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô mà còn góp phần bảo đảm an ninh về chính trị, quân sự.
Đề xuất sửa 7 luật, tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn trong lĩnh vực tài chính
Đề xuất sửa 7 luật, tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn trong lĩnh vực tài chính
23/08/2024 11:11 2.870 lượt xem
Ngày 22/8/2024, Bộ Tư pháp tổ chức phiên họp Hội đồng thẩm định đề nghị xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Dự trữ quốc gia. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng chủ trì phiên họp.
Khuôn khổ pháp lý triển khai ESG tại Agribank - Thực trạng và giải pháp
Khuôn khổ pháp lý triển khai ESG tại Agribank - Thực trạng và giải pháp
15/08/2024 07:00 3.638 lượt xem
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm áp dụng các tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong tổ chức hoạt động kinh doanh đang là xu hướng của nhiều nước trên thế giới, góp phần thực hiện các mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs)...
Sự tương thích trong quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 về Hội đồng quản trị với thông lệ quản trị ngân hàng trên thế giới
Sự tương thích trong quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 về Hội đồng quản trị với thông lệ quản trị ngân hàng trên thế giới
13/08/2024 08:02 3.452 lượt xem
Trong những năm gần đây, vấn đề quản trị công ty trong lĩnh vực ngân hàng đang trở thành một trong những trọng tâm nghiên cứu của những người làm chính sách, các học giả nghiên cứu cũng như các ngân hàng nhằm duy trì sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng và thúc đẩy niềm tin của công chúng.
Xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn
Xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn
07/08/2024 11:02 3.738 lượt xem
Bài viết tập trung phân tích vấn đề xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ của TCTD trong phạm vi hợp đồng thế chấp cho nghĩa vụ vay tại ngân hàng nhằm đưa ra một số đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật.
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
09/07/2024 14:31 3.256 lượt xem
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
01/07/2024 14:47 6.043 lượt xem
Năm 2024, chống hoạt động IUU được xem là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa lâu dài đối với phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam. Các quy định IUU được thiết lập thống nhất trên toàn EU để ngăn chặn và loại bỏ việc nhập khẩu các sản phẩm thủy sản bị đánh giá là có hoạt động IUU vào thị trường EU nhằm hướng tới ngành ngư nghiệp, ngành kinh tế thủy sản minh bạch, trách nhiệm, bền vững.
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
20/06/2024 14:47 2.603 lượt xem
Chính sách tiền tệ (CSTT) xanh của ngân hàng trung ương (NHTW) trong việc cho vay đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) là một công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Nâng cao vai trò của Ủy ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ  trong công ty cổ phần
Nâng cao vai trò của Ủy ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ trong công ty cổ phần
18/06/2024 09:03 3.360 lượt xem
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán giữ vai trò quan trọng đối với sự lành mạnh về thông tin công bố trên thị trường tài chính nói chung và doanh nghiệp nói riêng.
Thành công bước đầu trong mục tiêu thu hẹp chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước
Thành công bước đầu trong mục tiêu thu hẹp chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước
06/06/2024 06:35 1.915 lượt xem
Đến sáng 05/6/2024, khoảng cách giữa giá vàng miếng SJC trong nước quy đổi so với giá vàng thế giới được thu hẹp đáng kể - đây là thành công bước đầu trong giải pháp mà NHNN mới đưa ra.
Quyết liệt triển khai các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Quyết liệt triển khai các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
31/05/2024 11:04 2.219 lượt xem
Kết thúc năm 2023, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực: Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đồng tiền Việt Nam cơ bản ổn định; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách trong tầm kiểm soát...
Chính sách tiền tệ góp phần hạn chế sự hình thành các doanh nghiệp zombie tại Việt Nam
Chính sách tiền tệ góp phần hạn chế sự hình thành các doanh nghiệp zombie tại Việt Nam
31/05/2024 07:54 1.587 lượt xem
“Doanh nghiệp zombie” lần đầu tiên được đề xuất như một thuật ngữ kinh tế bởi Kane (1987) và được nhắc đến nhiều nhất vào những năm 1990 trong thời kì khủng hoảng kinh tế kéo dài khoảng 10 năm (1991 - 2001) sau sự sụp đổ của bong bóng giá tài sản tại Nhật Bản.
Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm ổn định lạm phát tại Việt Nam
Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm ổn định lạm phát tại Việt Nam
13/05/2024 08:22 5.338 lượt xem
Ổn định lạm phát luôn được coi là một biến số kinh tế vĩ mô trọng tâm tại Việt Nam. Trong giai đoạn lạm phát phi mã từ năm 1986 đến năm 1990, chính sách tiền tệ đóng vai trò chủ đạo với giải pháp nâng lãi suất để hút tiền khỏi quá trình lưu thông. Đến giai đoạn lạm phát cao từ năm 2007 đến năm 2012, chính sách tiền tệ và tài khóa cùng thắt chặt để giảm lượng vốn đầu tư, thể hiện trực tiếp cho lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

Vàng SJC 5c

82.000

84.020

Vàng nhẫn 9999

81.600

83.000

Vàng nữ trang 9999

81.550

82.700


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,550 24,920 26,604 28,064 31,668 33,015 163.07 172.56
BIDV 24,580 24,920 26,828 28,045 32,079 33,022 165.6 172.99
VietinBank 24,578 24,918 26,859 28,059 32,139 33,149 165.46 173.21
Agribank 24,570 24,930 26,777 28,005 31,882 33,001 164.72 173.02
Eximbank 24,520 24,980 26,795 27,806 31,943 33,105 166.07 172.35
ACB 24,560 24,920 26,840 27,772 32,108 33,091 165.78 172.4
Sacombank 24,580 24,920 26,852 27,824 32,039 33,191 166.17 173.18
Techcombank 24,560 24,951 26,679 28,031 31,738 33,083 162.54 175.04
LPBank 24,365 25,090 26,732 28,383 32,170 33,181 164.34 176.25
DongA Bank 24,600 24,910 26,830 27,720 32,030 33,010 164.10 171.70
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết

(Cập nhật trong ngày)

Ngân hàng

KKH

1 tuần

2 tuần

3 tuần

1 tháng

2 tháng

3 tháng

6 tháng

9 tháng

12 tháng

24 tháng

Vietcombank

0,10

0,20

0,20

-

1,60

1,60

1,90

2,90

2,90

4,60

4,70

BIDV

0,10

-

-

-

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,70

VietinBank

0,10

0,20

0,20

0,20

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,80

ACB

0,01

0,50

0,50

0,50

2,30

2,50

2,70

3,50

3,70

4,40

4,50

Sacombank

-

0,50

0,50

0,50

2,80

2,90

3,20

4,20

4,30

4,90

5,00

Techcombank

0,05

-

-

-

3,10

3,10

3,30

4,40

4,40

4,80

4,80

LPBank

0.20

0,20

0,20

0,20

3,00

3,00

3,20

4,20

4,20

5,30

5,60

DongA Bank

0,50

0,50

0,50

0,50

3,90

3,90

4,10

5,55

5,70

5,80

6,10

Agribank

0,20

-

-

-

1,70

1,70

2,00

3,00

3,00

4,70

4,80

Eximbank

0,10

0,50

0,50

0,50

3,10

3,30

3,40

4,70

4,30

5,00

5,80


Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?