Lựa chọn ngành sản phẩm kích cầu để đạt mục tiêu tăng trưởng tối ưu
03/03/2021 12.076 lượt xem
Dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái với tốc độ nhanh và quy mô lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933...
 


 Thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra 
 
Dịch bệnh và sự cần thiết của các biện pháp kích cầu
 
Dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái với tốc độ nhanh và quy mô lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 và lớn hơn nhiều cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới 2008 - 2009, kéo theo những ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sinh kế của người dân. Nhiều nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng đa chiều, phức tạp (khủng hoảng sức khỏe, khủng hoảng kinh tế và sụt giảm mạnh của giá cả hàng hóa). Căn cứ vào những biện pháp kiểm dịch và sự phát triển của các liệu pháp cũng như vắc-xin điều trị bệnh, các chuyên gia dịch tễ học trên thế giới dự báo dịch Covid-19 còn kéo dài đến hết năm 2021. 
 
Do dịch bệnh lan rộng, nên hoạt động sản xuất tại các nước trên thế giới cũng bị đình đốn làm cho chuỗi giá trị sản xuất bị gián đoạn, những ngành sản xuất phụ thuộc đầu vào từ các nước khác lại tiếp tục bị đình đốn. Khi doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, thất nghiệp và các rủi ro trong nền kinh tế gia tăng thì người tiêu dùng có xu hướng tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng để phòng ngừa rủi ro. Đồng thời, nhà đầu tư cũng sẽ thu hẹp đầu tư mà chuyển sang nắm giữ các tài sản an toàn. Sự sụt giảm mạnh đồng thời của tổng cầu và tổng cung sẽ gây ra suy thoái kinh tế sâu. Dự kiến tăng trưởng GDP năm 2020 của Mỹ giảm khoảng 4,3%, khu vực đồng Euro giảm 8,3%, Nhật Bản giảm tới 5,3%; các nước ASEAN-5 giảm khoảng 3,4%, Trung Quốc tăng trưởng khoảng 1,9% và cả thế giới giảm 4,4% (nguồn IMF). 
 
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Việt Nam. Tổng cầu suy giảm mạnh từ cả đầu tư, tiêu dùng nội địa và nhu cầu hàng hóa của thế giới do các biện pháp đóng cửa quốc gia, giãn cách xã hội, cách ly, phong tỏa, trong khi các chính sách chuyển hướng giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài chưa có tác động đáng kể. Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp tài khóa, tiền tệ, tín dụng và đầu tư nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp cả trong nước và trên thế giới, tác động sâu đến nền kinh tế Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020 mặc dù đạt 2,91% nhưng thấp hơn rất nhiều so với xu hướng tăng trưởng của Việt Nam trong 35 năm đổi mới.
 
Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế sau dịch Covid-19. Trong nhóm giải pháp đó, kích cầu là một trong những giải pháp quan trọng, giúp huy động nguồn lực trong nước, tạo động lực và nền tảng để khôi phục và mở rộng cầu quốc tế. Một điểm cần lưu ý, Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở cao (tỷ lệ xuất khẩu/GDP lên tới trên 200%), cầu xuất khẩu suy giảm đã ảnh hưởng mạnh tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam, từ đó làm giảm việc làm và thu nhập của các ngành hàng xuất khẩu chủ lực như nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giày, máy tính và linh phụ kiện, dẫn tới cầu đầu tư khu vực kinh tế tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tuy nhiên, các biện pháp kích cầu trong nước cũng sẽ ít tác dụng đối với kích cầu xuất khẩu khi các nước đối tác vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, dẫn tới cầu đối với các mặt hàng không thiết yếu khó tăng cao. Bên cạnh đó, nhiều ngành hàng của Việt Nam phụ thuộc lớn vào nhập khẩu cho sản xuất và tiêu dùng, do đó, nếu kích cầu vào những ngành này cũng khó mang lại hiệu quả cao vì chi phí kích cầu sẽ chạy ra bên ngoài. 
 
Khác với các cuộc khủng hoảng trước, đại dịch Covid-19 xảy ra khi các nền kinh tế và sức khỏe của doanh nghiệp vẫn trong tình trạng tốt là nền tảng quan trọng để sử dụng không gian chính sách hiện có, thực thi các giải pháp ứng phó, ít nhất là trong ngắn - trung hạn. Các giải pháp kích cầu hiện nay đang tập trung chủ yếu vào giải ngân đầu tư công và hỗ trợ theo đối tượng mà chưa có các giải pháp hỗ trợ theo ngành, lĩnh vực. Vấn đề đặt ra là cần lựa chọn các ngành, lĩnh vực nào để kích cầu mang lại hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế trong bối cảnh tất cả các ngành, lĩnh vực đều đang gặp khó khăn, dịch bệnh có thể kéo dài, nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn hẹp, không thể đầu tư dàn trải, cào bằng cho tất cả các ngành, lĩnh vực hay đối tượng bị tổn thương. Do đó, thực hiện các biện pháp kích cầu cần phải xác định được những ngành ưu tiên, trọng điểm để kích cầu một cách hiệu quả nhất: Chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả tác động lớn nhất. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề xuất một số phương án kích cầu ưu tiên, trọng điểm và tính toán chi phí kích cầu cần thiết để đạt mục tiêu tăng trưởng tích cực trong bối cảnh hiện nay.
 
Về các giải pháp kích cầu đã thực hiện
 
Về nguyên tắc, có ba nhóm giải pháp kích cầu cơ bản: (i) Nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho người dân bằng tiền; (ii) Nhà nước trợ giá, giảm thuế, giảm chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp; (iii) Nhà nước đứng ra mua các sản phẩm, dịch vụ mà các doanh nghiệp cung cấp. 
 
Đối với nhóm giải pháp thứ nhất, Chính phủ đã thực hiện gói 62 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ, tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân khá thấp1 và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn.
 
Đối với nhóm giải pháp thứ hai, Chính phủ cũng đã triển khai các chính sách ưu đãi như cắt giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ; thực hiện các chương trình ưu đãi; giãn, hoãn các khoản phải nộp của doanh nghiệp về thuế, tiền thuê đất; cắt giảm giá điện, xăng dầu, dịch vụ,... cho một số đối tượng ưu tiên;... Việc Chính phủ cân nhắc, xem xét bảo lãnh và/hoặc trợ giúp một số doanh nghiệp lớn gặp khó khăn cũng là điều có thể lý giải được, bởi các doanh nghiệp lớn là khách hàng quan trọng của nhiều doanh nghiệp nhỏ, có khả năng tạo sức lan tỏa và động lực cho các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. 
 
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay khi hầu hết các doanh nghiệp giảm mạnh doanh thu, lợi nhuận và thua lỗ, các biện pháp về giảm thuế thu nhập nhìn chung không có tác dụng lớn như kỳ vọng. Cái khó khăn và cần nhất đối với doanh nghiệp lúc này là hỗ trợ vốn cho duy trì sản xuất kinh doanh liên tục, song đến nay, ngoài các chính sách về thuế, phí và các biện pháp từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các tổ chức tín dụng (TCTD) thì Nhà nước chưa có chính sách, biện pháp hỗ trợ tài chính đủ lớn để doanh nghiệp có được nguồn vốn cần thiết nhằm không chỉ vượt qua giai đoạn khó khăn này, mà còn tạo thế, lực, tận dụng cơ hội phát triển bứt phá cho chu kỳ kinh tế mới sau khi dịch bệnh qua đi. 
 
Trong khi đó, chính sách giảm lãi suất chưa thực sự mang lại hiệu quả kích thích doanh nghiệp vay vốn cho sản xuất kinh doanh như mong muốn, bởi nhu cầu vay mới của doanh nghiệp thấp hoặc doanh nghiệp chưa đáp ứng các tiêu chuẩn vay2. Bên cạnh đó, khả năng giảm lãi suất cho các khoản nợ hiện hành cũng rất hạn chế do: (1) Chi phí huy động vốn trước đây của các ngân hàng đã cao và các nguồn vốn huy động mới với lãi suất thấp hơn vẫn còn ít, bao gồm cả nguồn tái cấp vốn của NHNN; (2) Năng lực tài chính, lợi nhuận của các ngân hàng còn hạn chế để hỗ trợ khách hàng; (3) Một số ngân hàng nhỏ, khả năng huy động vốn thấp vẫn phải cạnh tranh huy động vốn bằng lãi suất cao; (4) Tình hình tài chính, hoạt động của doanh nghiệp ngày càng khó khăn, rủi ro tín dụng đang gia tăng thì các ngân hàng khó giảm lãi suất cho vay để bù đắp rủi ro cao; (5) Các ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn hơn về tài chính, lợi nhuận giảm mạnh do chi phí dự phòng rủi ro cho các khoản nợ, tài sản giảm chất lượng tăng mạnh nên khó có điều kiện chia sẻ khó khăn cho các khách hàng vay, nếu nguồn vốn huy động của các ngân hàng không sớm được cơ cấu lại bằng các nguồn vốn có chi phí thấp, nhất là nguồn vốn hỗ trợ từ NHNN với lãi suất thấp. 
 
Trong bối cảnh đó, kích cầu cũng có thể được thực hiện thông qua giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), đem lại lợi ích trực tiếp cho khách hàng và người tiêu dùng; đồng thời, gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp giải phóng hàng hóa, tránh tình trạng tồn kho và kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều lưu ý là cần xác định thời gian áp dụng chính sách này một cách chặt chẽ, căn cứ vào diễn biến dịch bệnh và tình hình kinh tế - xã hội. Trên thực tế, trong bối cảnh Covid-19, nhiều quốc gia thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo thu nhập cho người dân và sử dụng VAT như công cụ của chính sách tài khóa. Chẳng hạn, ngày 12/6/2020, Chính phủ Đức đã quyết định phê chuẩn việc tạm thời giảm VAT nhằm khuyến khích và tăng cầu tiêu dùng của người dân3
 
Theo tính toán của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kết quả cho thấy việc giảm VAT có tác động tích cực tới các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam như tổng cầu cuối cùng, GDP và tiêu dùng. Cụ thể, trong ngắn hạn, việc giảm VAT 1% sẽ làm các yếu tố như tổng cầu cuối cùng tăng 0,42 điểm %, GDP tăng 0,13 điểm % và tiêu dùng tăng 0,23 điểm %. Nếu VAT giảm 2% sẽ có tác động tổng cầu cuối cùng tăng 0,76 điểm %, GDP tăng 0,23 điểm % và tiêu dùng tăng 0,42 điểm %. Trong trung và dài hạn, với giả thiết thuế VAT giảm từ 1% - 2% có thể làm tổng cầu cuối cùng tăng 0,32 - 0,58 điểm %, GDP tăng 0,09 - 0,15 điểm % và tiêu dùng tăng 0,1 - 0,2 điểm %. (Hình 1)
 


 
Đối với nhóm giải pháp thứ ba, Chính phủ cũng đã triển khai nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư công và kết quả cả năm 2020 giải ngân đạt hơn 91% kế hoạch cả năm, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2019, nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, đặc biệt các dự án sử dụng vốn ODA có tỷ lệ giải ngân rất thấp. Tác động của giải ngân vốn đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế được Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu (Hình 2).
 

 
Đánh giá chung, các giải pháp kích cầu nêu trên chỉ mang tính tổng thể, nếu thiếu một kế hoạch cụ thể có chọn lọc, trọng tâm thì hiệu quả sẽ không cao mà chi phí lớn. Ví dụ, việc giảm đồng loạt VAT có thể có tác dụng kích cầu nền kinh tế nhưng chi phí đối với ngân sách sẽ rất lớn, hiệu quả không cao do có rất nhiều ngành hàng việc giảm thuế không ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế như những ngành có cầu không co giãn, những ngành chủ yếu nhập khẩu, ngành bị suy giảm do lo sợ dịch bệnh (như dịch vụ ăn uống, lưu trú) chứ không phải vì cầu yếu,... Tương tự, hiệu quả của đầu tư công, chi tiêu công trong bối cảnh hiện nay sẽ cao hơn nhiều nếu vốn nhà nước được sử dụng đúng mục tiêu, đúng những lĩnh vực có tác động lớn đến nền kinh tế. Chính vì lý do này, chúng ta cần có một kế hoạch kích cầu chi tiết hơn, cụ thể hơn.
 


Bên cạnh việc kích cầu trong nước, Chính phủ quan tâm đến các giải pháp kích cầu xuất khẩu
 
  Xác định ngành mục tiêu để kích cầu
 
Nguyên tắc xác định ngành mục tiêu
 
Căn cứ vào số liệu của Bảng I-O (bảng cân đối liên ngành) cập nhật đến năm 2016 có thể tính toán các hệ số liên kết ngược4, xuôi5 cho 164 phân ngành trong nền kinh tế6, và các tỷ trọng nhập khẩu so với tiêu dùng, hệ số lan tỏa kinh tế7, tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành đó trong nền kinh tế, tỷ trọng hàng hóa đó dành cho tiêu dùng cuối cùng so với phần dành cho quá trình sản xuất.
 
Dựa trên các chỉ số này, các nguyên tắc lựa chọn ngành ưu tiên kích cầu được xác định như sau: (1) Có hệ số liên kết ngược lớn hơn mức trung bình của cả nền kinh tế; (2) Có hệ số lan tỏa kinh tế lớn. Bên cạnh đó, để hiệu quả kích cầu cao thì những ngành sau sẽ không được ưu tiên lựa chọn: Những ngành nhập khẩu quá nhiều (nhằm hướng tới mục tiêu kích cầu trong nước và xuất khẩu thay vì kích thích nhập khẩu; trong khuôn khổ bài viết này, những ngành có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trên 50% đều không được chọn); những ngành có tỷ trọng quá nhỏ so với nền kinh tế (vì khi chi phí quản lý gói kích cầu lớn hơn hiệu quả mang lại), những ngành có độ co giãn của cầu theo giá thấp (tức là giá tăng hay giảm cũng không ảnh hưởng đến lượng cầu của hàng hóa đó), hoặc những ngành mà chỉ một nhóm nhỏ người được hưởng lợi (kích cầu phải có lợi cho số đông người). Đồng thời, những ngành có số lượng lao động lớn, những ngành có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng cũng được ưu tiên xem xét lựa chọn.
 
Đề xuất các ngành ưu tiên hỗ trợ
 
Đối chiếu theo nguyên tắc lựa chọn ngành ưu tiên kích cầu ở trên, ta có bảng nhóm các ngành sản phẩm có hệ số lan tỏa tốt và hệ số liên kết ngược cao. (Bảng 1)
 

 
Các nhóm ngành này chiếm tỷ trọng khoảng 20% GDP nhưng hệ số lan tỏa bình quân đạt khoảng 4,68. Như vậy, nếu tăng chi tiêu công, đầu tư công cho các ngành này 1 đồng thì có thể làm tăng GDP lên khoảng 4,68 đồng. Như vậy, với GDP năm 2019 (theo giá so sánh năm 2010) là 3.783.546 tỷ đồng, để tăng thêm 1 điểm % GDP thì trung bình cần chi phí kích cầu khoảng 81 nghìn tỷ đồng. Để GDP tăng thêm 3 điểm % thì chi phí kích cầu cần ít nhất là 243 nghìn tỷ đồng.
 
Điều đáng lưu ý là những ngành chăn nuôi, chế biến nông sản và thủy sản đều có hệ số lan tỏa cao. Nhóm ngành này chiếm tỷ trọng khoảng 6,1% GDP8, hệ số liên kết ngược là 1,25 (cao hơn mức bình quân của cả nước là 25%) và hệ số lan tỏa khoảng 5,1. Việc kích cầu vào nhóm này vừa có tác dụng hỗ trợ các hoạt động nông nghiệp, vừa là bệ đỡ cho những nhóm lao động dễ bị tổn thương trong nền kinh tế. Hiện ngành nông, lâm, thủy sản đang tạo 34,5% số việc làm cho toàn nền kinh tế, do đó, việc Nhà nước kích cầu vào nhóm này không chỉ có hiệu quả kinh tế mà còn có hiệu quả về mặt xã hội.
 
Nhóm ngành gộp xây dựng và dịch vụ xây dựng có hệ số lan tỏa 4,47; hệ số liên kết ngược 1,14, tỷ lệ nhập khẩu/tiêu dùng xấp xỉ bằng 0, tỷ trọng trong tổng GDP cả nước khoảng 4,36%9. Xét về lao động, theo số liệu điều tra doanh nghiệp năm 2018, toàn bộ phân ngành xây dựng và dịch vụ xây dựng chiếm khoảng 11,33% tổng lao động chính thức của cả nước (nếu tính cả khu vực phi chính thức thì ngành xây dựng chiếm 8,4% lao động cả nước). Do đó, nếu ngành này tăng trưởng tốt, sẽ tác động tích cực tới kích thích tăng trưởng của các ngành khác cũng như mang lại hiệu quả về mặt sử dụng lao động và tạo việc làm. Đồng thời, đây cũng là nhóm ngành rất phù hợp để tăng chi tiêu công, vừa có hệ số lan tỏa lớn, vừa tạo đột phá về phát triển hạ tầng. 
 
Nhóm ngành dịch vụ vận tải mặc dù có tỷ trọng trong GDP chỉ chiếm khoảng 2,17%10 nhưng lại có hệ số liên kết ngược và hệ số lan tỏa lớn (1,18 và 4,86). Đây cũng là ngành có tính chất hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp (liên kết xuôi lớn) và tạo ra 3,5% việc làm cho toàn nền kinh tế. Việc kích cầu hỗ trợ nhóm ngành này không chỉ có ý nghĩa kích cầu thông qua liên kết ngược mà còn hỗ trợ các ngành nghề khác giảm chi phí sản xuất, kinh doanh vượt qua khó khăn do dịch bệnh.
 
Tương tự, ngành dịch vụ viễn thông là ngành then chốt trong việc thực hiện chiến lược kinh tế số cũng có hệ số lan tỏa lớn (4,18). Kích cầu và hỗ trợ ngành viễn thông không chỉ có tác động trong ngắn hạn mà còn có ý nghĩa trong dài hạn tương tự như nhóm ngành xây dựng.
 
Nhóm ngành khác như dệt may, da giày, vừa có hệ số lan tỏa lớn, vừa là những ngành tạo việc làm chính cho nền kinh tế. Ngành dệt may, da giày là nhóm ngành sử dụng nhiều lao động (ví dụ ngành sản xuất trang phục chiếm khoảng 14,24% tổng lao động, ngành sản xuất giày dép chiếm 7,89% lao động trong doanh nghiệp). Đây cũng là nhóm hàng có định hướng xuất khẩu với tỷ lệ lượng tiêu dùng trong nước rất khiêm tốn so với xuất khẩu (chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng trang phục gấp 7,1 lần so với tiêu dùng trong nước; đối với nhóm ngành giày dép tỷ lệ này là 6,5 lần). Tuy nhiên, trong phân ngành dệt may có một số nhóm ngành có hệ số nhập khẩu cao (ví dụ: ngành sản phẩm dệt khác nhập khẩu gấp 2,5 lần tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu; ngành sợi, vải dệt thoi, sản phẩm dệt hoàn thiện nhập khẩu gấp hơn 2 lần), do đó trước mắt chỉ tập trung kích cầu vào những phân ngành có tỷ lệ nhập khẩu thấp trong nhóm này như: Trang phục các loại bao gồm trang phục bằng vải dệt thoi, dệt kim, đan móc, da thuộc, da tổng hợp (nhập khẩu 3%, hệ số lan tỏa 4,54); giầy, dép và dịch vụ sản xuất giầy, dép (nhập khẩu 4%, hệ số lan tỏa 4,24). Giải pháp căn bản vẫn là đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, khơi thông xuất khẩu, tìm kiếm đầu ra.
 
Với cách thức tiếp cận theo từng ngành như tính toán trên đây, để tăng trưởng thêm 3 điểm % so với kịch bản cơ sở (Chính phủ dự tính là 2%) thì gói kích cầu cần khoảng 250 nghìn tỷ đồng. Như vậy, nếu Chính phủ có thể thực sự giải ngân hết nguồn vốn đầu tư công sẵn có cho năm 2020 theo cách thức hiệu quả nhất thì việc duy trì tăng trưởng khoảng 5% là tương đối khả thi.
 
Đề xuất các giải pháp hỗ trợ 
 
Như đã phân tích ở trên, các giải pháp kích cầu cần tập trung vào những ngành có hệ số lan tỏa lớn nhưng tỷ trọng nhập khẩu thấp. Tuy nhiên, với từng các nhóm ngành sản phẩm khác nhau cần có cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, đối với những ngành sản phẩm có thể lưu trữ hoặc có tính chất công thì hiệu quả nhất là Chính phủ đứng ra mua các sản phẩm này để tăng cầu, ví dụ tăng đầu tư công cho ngành giao thông vận tải, ngành năng lượng, nông nghiệp,... Xây dựng nhà ở xã hội, các công trình xây dựng chuyên dụng,... chính là để kích cầu theo hướng này. Đối với các sản phẩm công nghiệp có tính lưu trữ lâu dài, doanh nghiệp có thể ký hợp đồng mua lại với Chính phủ, theo đó, trước mắt, Chính phủ tăng mua các sản phẩm của doanh nghiệp để tăng nhu cầu sản xuất cho doanh nghiệp, và khi nền kinh tế trở lại bình thường, doanh nghiệp cam kết sẽ mua lại các sản phẩm mà Chính phủ đã mua trước đó. Đối với các sản phẩm còn lại (nông sản, dịch vụ,...) thì cách thức hiệu quả nhất là giảm thuế và giảm phí cho doanh nghiệp. Các giải pháp như giảm VAT, giảm lãi suất, giảm chi phí tiếp cận dịch vụ công của nhà nước,... là cần thiết. 
 

 
Số liệu tại Bảng 2 cho thấy, những ngành sản phẩm của nền kinh tế nước ta có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu trên 50% và tỷ trọng các ngành này trong nền kinh tế chiếm khoảng 30% GDP. Đặc biệt, một số ngành trong nhóm này có hệ số lan tỏa cao; trong đó có một số ngành có hệ số liên kết ngược cao hơn mức trung bình của nền kinh tế và có hệ số lan tỏa bình quân là 5. Cụ thể, có một số ngành quan trọng đối với sản xuất và đời sống như: Plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh, máy chuyên dụng, nguyên nhiên liệu đầu vào, sản phẩm dệt, sản phẩm kim loại màu, kim loại đúc sẵn, dầu mỡ động thực vật chế biến, sản phẩm linh kiện điện tử, máy tính và thiết bị ngoại vi máy tính, thiết bị điện, dây dẫn, xe có động cơ (trừ ô tô),… có hệ số lan tỏa và liên kết ngược cao, đồng nghĩa với khả năng tạo ra hiệu ứng lan tỏa tốt với tăng trưởng của các ngành khác và toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, những ngành này lại có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng và xuất khẩu cao, tỷ lệ tiêu dùng so với chi phí đầu vào trung gian thấp, đồng nghĩa với việc: 
 
(1) Phần lớn nhập khẩu các nhóm hàng này phục vụ cho hoạt động sản xuất thay vì tiêu dùng cuối cùng; (2) Các nhóm hàng này phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. 
 
Cụ thể, với nhóm hàng máy chuyên dụng, hệ số lan tỏa là 6,31; hệ số liên kết ngược là 1,43, tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 10% so với chi phí đầu vào trung gian, nhưng tỷ lệ nhập khẩu lớn gấp 8,75 lần so với tiêu dùng và xuất khẩu. Tương tự, nhóm ngành sản phẩm linh kiện điện tử, máy tính và thiết bị ngoại vi có hệ số lan tỏa là 5,09; hệ số liên kết ngược là 1,23; tỷ lệ tiêu dùng chiếm khoảng 42% so với chi phí sản xuất trung gian; nhưng nhập khẩu lớn gấp 1,61 lần so với tiêu dùng. Đối với nhóm ngành dầu, mỡ động, thực vật chế biến, hệ số lan tỏa lên tới 11,97; hệ số liên kết ngược 2,00; tỷ lệ tiêu dùng/chi phí đầu vào trung gian chỉ 0,24; nhưng tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng và xuất khẩu lại gấp tới hơn 1,61 lần.
 
Những chỉ số này cho thấy, nền kinh tế nước ta rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài, sản xuất phụ thuộc nặng vào nhập khẩu, đặc biệt là những ngành có độ lan tỏa lớn đều phụ thuộc vào nhập khẩu. Đây chính là dư địa tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong những năm tới đây: Tự chủ được nguyên nhiên liệu sản xuất được 1 đồng các ngành hàng nhập khẩu này có thể tạo ra 5 đồng GDP cho nền kinh tế. Do đó, trước mắt cần lựa chọn những ngành có khả năng thay thế nhập khẩu nhất (những ngành Việt Nam có lợi thế, có năng lực có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu) trong các ngành ở Bảng 2 để thực hiện các chính sách nội địa hóa. Việc thay thế dần các sản phẩm này không chỉ có hiệu quả kinh tế cao mà còn làm tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước nguy cơ đứt gãy nguồn cung trong tương lai.
 
Kết luận 
 
Đại dịch Covid-19 đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đối với kinh tế thế giới và nước ta. Nền kinh tế thế giới được dự đoán sẽ suy thoái trong dài hạn, nhu cầu của các nước nhập khẩu chủ yếu hàng hóa từ Việt Nam khó phục hồi trong ngắn hạn do đó, trong thời gian tới, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
 
Tăng đầu tư công có thể làm gia tăng tổng cầu trong ngắn hạn thông qua khuyến khích tăng đầu tư tư nhân và giảm thất nghiệp, giúp duy trì sản xuất để đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, nhất là trong các ngành có tỷ trọng lao động cao đang chịu suy giảm nặng nề từ xuất khẩu đó là nông nghiệp, công nghiệp chế biến (dệt may, da giày), xây dựng. Tăng đầu tư công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế cũng sẽ giúp tăng sản lượng của các ngành trong dài hạn nhờ vào nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế.
 
Bài viết chỉ ra rằng, nếu sử dụng nguồn lực hiện có vào đúng ngành, lĩnh vực và đúng phương thức thì hiệu quả kinh tế - xã hội sẽ tăng lên và việc duy trì tăng trưởng khoảng 4 - 5% là có thể đạt được.
 
Bên cạnh đó, đối với một số ngành cần có các chính sách thay thế dần nhập khẩu để tăng hiệu quả của nền kinh tế và giảm bớt tính dễ tổn thương của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là rủi ro đứt gãy nguồn cung.

 
1 Báo cáo Kinh tế vĩ mô Quý II/2020 của Ban Kinh tế Trung ương.

2Có tài sản đảm bảo hoặc có tình hình tài chính hoặc phương án kinh doanh tốt,....
 
3 Theo đó, VAT sẽ được giảm xuống còn 16% so với mức 19% trước đó trong vòng 6 tháng kể từ ngày 1/7. Ngoài ra, mức VAT áp dụng cho hầu hết thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu cũng được giảm từ 7% xuống 5%.
 
4 Liên kết ngược dùng để đo mức độ quan trọng của một ngành với tư cách là bên sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ làm đầu vào từ toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao, có nghĩa là liên kết ngược của ngành đó càng lớn, khi ngành đó phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của toàn bộ các ngành cung ứng sản phẩm vật chất và dịch vụ của toàn bộ hệ thống. 
 
5 Liên kết xuôi hàm ý mức độ quan trọng của một ngành như là nguồn cung cấp sản phẩm vật chất và dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa liên kết xuôi của ngành đó càng lớn, càng thể hiện sự cần thiết của ngành đó đối với các ngành còn lại.
 
6 Tác giả áp dụng phương pháp tính toán Rasmussen. Do cho đến nay vẫn chưa có Bảng cân đối liên ngành mới, nên tác giả sử dụng Bảng cân đối liên ngành gần nhất là năm 2016. Mặc dù cơ cấu nền kinh tế năm 2020 có thể khác biệt so với năm 2016, tuy nhiên, theo lý thuyết thì sử dụng Bảng I-O trong vòng 5 năm để tính toán các chỉ số liên ngành là có thể chấp nhận được.   
 
7 Tăng cầu tiêu dùng cuối cùng của một ngành lên một đơn vị thì sẽ làm cầu hàng hóa của các ngành khác trong nền kinh tế tăng lên bao nhiêu đơn vị.

8 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này.
 
9 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này.
 
10 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này.


TS. Nguyễn Tú Anh
Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp - Ban Kinh tế Trung ương

Tạp chí Ngân hàng số 3+4/2021
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/04/2024 263 lượt xem
Thời gian qua, quá trình số hóa diễn ra liên tục và mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự ổn định của khu vực tài chính nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Nhờ quá trình này mà các tổ chức tài chính có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng với chi phí thấp hơn, giúp nâng cao trải nghiệm và khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của khách hàng, tăng cường minh bạch trong giao dịch tài chính và phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng.
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng  phát triển trong thời đại 4.0
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng phát triển trong thời đại 4.0
23/04/2024 268 lượt xem
Dữ liệu đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp. Việc chia sẻ dữ liệu mở ra những cơ hội mới, tạo thêm nhiều giá trị, đồng thời góp phần bồi đắp kho dữ liệu hiện có, khai phá tiềm năng tối ưu hóa và đổi mới mô hình kinh doanh.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
19/04/2024 0 lượt xem
Do nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp ngày càng cao nên thị trường tín dụng liên kết bền vững toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam cần nhanh chóng thúc đẩy và mở rộng hoạt động cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ở đa dạng ngành, nghề thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 1.084 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 1.120 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 1.383 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 1.260 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 1.157 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 1.155 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 1.237 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.634 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.393 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.623 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 3.704 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
07/03/2024 2.477 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân Lê Thị Bích Trân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Australia; thăm chính thức Australia và New Zealand từ ngày 05 - 11/3/2024 theo lời mời của Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?