Cần một hướng đi mới trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
04/10/2019 5.635 lượt xem
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) ở Việt Nam nói riêng, khu vực kinh tế tư nhân nói chung, được xác định là một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững trong thời gian tới. Các SMEs còn được xác định là mảnh đất màu mỡ và giàu tiềm năng cho xu hướng khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Các SMEs đang có đóng góp quan trọng cho ngân sách nhà nước, tạo công ăn việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững cho Việt Nam.
 
 Tuy đóng vai trò không hề nhỏ trong nền kinh tế và xã hội, nhưng các SMEs ở Việt Nam hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong hoạt động, trong đó có những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Do đó, để tháo gỡ những khó khăn gây trở ngại cho quá trình tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các SMEs thì bên cạnh những nỗ lực từ phía các SMEs, cũng cần có sự cởi mở và thông thoáng từ các tổ chức tín dụng, cũng như những hỗ trợ cần thiết từ phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
 
Tiêu chí xác định và vai trò của các SMEs
 
Các SMEs được định nghĩa là những doanh nghiệp có vốn mỏng, sử dụng ít lao động và có quy mô hoạt động nhỏ bé (thường được đo lường qua chỉ số doanh thu hàng năm). Các SMEs cũng có thể được chia thành các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
 
Để nhận dạng một doanh nghiệp có phải là một SME hay không, người ta phải căn cứ vào các tiêu chí do các tổ chức hoặc các chính phủ của các nước quy định. Chẳng hạn theo Nhóm Ngân hàng Thế giới (World Bank Group), một doanh nghiệp được coi là nhỏ và vừa nếu có ít hơn 300 lao động, tổng tài sản và doanh thu hàng năm dưới 15 triệu đô la Mỹ. Bên cạnh đó, Nhóm Ngân hàng Thế giới còn sử dụng thêm tiêu chí quy mô vay vốn để phân loại các doanh nghiệp. Ở các quốc gia đang phát triển, những doanh nghiệp có quy mô vay vốn ít hơn một triệu đô la Mỹ được coi là các SMEs.
 
Ở các nước châu Âu, SMEs có số lượng lao động dưới 250 người và doanh thu hàng năm nhỏ hơn 50 triệu Euro. Tại Mỹ, SMEs là doanh nghiệp có số lượng người lao động dưới 500 người và có doanh thu hàng năm dưới 7 triệu đô la đối với đa số các ngành không liên quan tới sản xuất và mức này tăng lên 35,5 triệu đô la đối với ngành sản xuất. Ở Canada, một doanh nghiệp được coi là SMEs nếu có số lao động từ 10 tới 250 và doanh thu hàng năm dưới 50 triệu đô la Canada. Các tiêu chí về SMEs tại Mexico, Nam Phi, Thái Lan và Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất khác biệt. Tại Mexico, SMEs có số lao động ít hơn 500 người trong lĩnh vực hoạt động sản xuất và ít hơn 50 người trong hoạt động dịch vụ, trong khi tại Nam Phi là 10 - 20 tới 100 - 200, tùy thuộc vào từng ngành, Thái Lan áp dụng quy định 200 người trong các ngành sử dụng nhiều lao động và ít hơn 100 người  trong các ngành sử dụng nhiều vốn và cuối cùng là Thổ Nhĩ Kỳ với số lao động từ 10 tới 250 cho SMEs (Trung tâm nghiên cứu kinh tế - tài chính UEL, 2017).
 
Ở Việt Nam, theo Điều 6 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ SMEs thì tiêu chí xác định SMEs được quy định cụ thể như sau: 
 
1. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. 
 
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. 
 
2. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. 
 
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. 
 
3. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này. 
 
Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này. (Bảng 1).
 

 
So với các doanh nghiệp khác, các SMEs có được lợi thế là dễ dàng thành lập và rút lui khỏi thị trường, khá linh hoạt trong các quyết định kinh doanh. Những lợi thế này đã tạo điều kiện cho các SMEs hoạt động trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau. Các SMEs cũng giúp khai thác và tận dụng nguồn lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên của địa phương để giải quyết công ăn việc làm, đóng góp cho ngân sách và cho tăng trưởng kinh tế của địa phương.
 
Ở Việt Nam hiện nay, theo Tổng cục Thống kê, trong số gần 600.000 doanh nghiệp hiện đang hoạt động, có đến hơn 98% là các SMEs (trong đó số doanh nghiệp vừa chỉ chiếm 2,2%, doanh nghiệp nhỏ chiến 29,6% và còn lại 68,2% là siêu nhỏ). Tổng quy mô vốn của các SMEs chiếm khoảng 40,9% tổng nguồn vốn huy động vào sản xuất kinh doanh của toàn khu vực doanh nghiệp. Hàng năm, các SMEs cũng tạo ra gần 60% việc làm (chiếm 42,2% số lao động), 44,8% doanh thu, đóng góp khoảng 40% GDP, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu và đóng góp 29,3% cho ngân sách nhà nước.
 
Thực trạng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các SMEs  ở Việt Nam
 
Tuy đóng vai trò là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, nhưng các SMEs hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Mặc dù Việt Nam xếp thứ 29/190 quốc gia về chỉ số tiếp cận tín dụng, nhưng hiện vẫn có đến 60% SMEs chưa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng (Hồng Ánh, 2018).
 
Theo một Báo cáo kết quả hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước từ năm 2018 cho thấy, tỷ trọng vốn tín dụng cho các SMEs đến cuối năm 2018 đạt 1,307 triệu tỷ đồng, tăng 15,57% so với cuối năm 2017, chiếm 18% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Trong khi đó, dư nợ tín dụng cho đối với các SMEs đến cuối năm 2017 đạt khoảng 1,13 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 17,37% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế, tăng 11,53% so với thời điểm cuối năm 2016.
 
Một số liệu thống kê khác vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cập nhật cho thấy, tính đến ngày 31/5/2019, dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng 5,74% so với cuối năm 2018. Trong đó, tín dụng đối với SMEs tăng 5,04%. Bảng 2 và Hình 1 dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn diễn biến dư nợ tín dụng và tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với các SMEs, tỷ trọng dư nợ tín dụng của các SMEs so với tổng dư nợ của nền kinh tế từ cuối năm 2017 đến hết tháng 5/2019.

 
Từ Bảng 2 và Hình 1 cho thấy, mặc dù vẫn còn có khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, tuy nhiên, dư nợ tín dụng SMEs cũng đã đạt được tốc độ tăng 11,53% trong năm 2017 và 15,57% trong năm 2018. Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các SMEs chiếm được từ 17 -18% tổng dư nợ toàn bộ nền kinh tế.
 
Sở dĩ các SMEs ở Việt Nam còn khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng được nhiều chuyên gia chỉ ra là khả năng đáp ứng đủ điều kiện hồ sơ vay vốn ngân hàng còn hạn chế, năng lực tài chính yếu kém, không xây dựng được phương án/dự án sản xuất kinh doanh khả thi và có hiệu quả; nợ phải trả tồn đọng lớn chưa có biện pháp xử lý, thiếu công khai và minh bạch thông tin. Bên cạnh đó, tính hiệu quả trong hoạt động của SMEs chưa cao, thiếu tài sản để bảo đảm cho khoản vay theo quy định hoặc tài sản đảm bảo có giá trị thấp; chưa có sự hợp tác chặt chẽ với ngân hàng khi vay vốn hoặc cơ cấu lại khoản nợ đã vay...
 
Về phía các tổ chức tín dụng, mặc dù nguồn vốn luôn sẵn sàng nhưng các tổ chức tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định phương án/dự án sản xuất kinh doanh của SMEs, nhất là đối với các SMEs hoạt động trong các lĩnh vực mới, đặc thù; không kiểm soát được dòng tiền của các SMEs khi cho vay do không kiểm soát được quá trình mua bán và thanh toán của các SMEs,...
 
Hướng đi mới trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các SMEs ở Việt Nam
 
Để tạo thuận lợi cho các SMEs trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng, bên cạnh những nỗ lực từ các SMEs, cũng cần có sự cởi mở và thông thoáng từ các tổ chức tín dụng, cũng như những hỗ trợ cần thiết từ phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
 
Trước hết, đối với các SMEs, phải tuyệt đối trung thực trong việc hợp tác và cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn, cũng như quá trình kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay và xử lý khoản vay một khi khoản vay đã trở thành nợ xấu. Việc làm này, trước hết, tạo thuận lợi cho quá trình thẩm định của các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, nó còn tạo được lòng tin và sự tín nhiệm cũng như thiện cảm ban đầu từ các tổ chức tín dụng cho vay. Các chủ doanh nghiệp SMEs, bên cạnh kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm có được, cũng cần trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về quản trị tài chính, đặc biệt các chủ doanh nghiệp SMEs phải có kiến thức về kiểm soát chi phí và quản trị dòng tiền, phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các tổ chức tín dụng khi thẩm định để ra quyết định cấp tín dụng cũng cần lưu ý đến yêu cầu quan trọng này đối với các chủ doanh nghiệp SMEs, vì thực tế hiện nay, đa phần các chủ SMEs không phải là những người được đào tạo bài bản về lĩnh vực tài chính kế toán, nên việc chi tiêu và cân đối dòng tiền thường không hiệu quả và hợp lý.
 


Nguồn vốn luôn sẵn sàng nhưng các TCTD cũng gặp nhiều khó khăn trong việc
thẩm định phương án kinh doanh của SMEs


 
Đối với các tổ chức tín dụng, cần có những gói tín dụng dành riêng để tài trợ cho các SMEs, vì đây vừa là đối tượng ưu tiên được Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ khuyến khích cho vay, vừa là xu hướng thị phần tín dụng hứa hẹn nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương lai, một khi tín dụng đối với các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại, không theo kịp tốc độ tăng trưởng tín dụng của khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tín dụng cá nhân. Các tổ chức tín dụng cũng cần ban hành quy định cấp tín dụng nội bộ dành riêng cho các SMEs. Quy định cho vay nội bộ cần thống nhất quan điểm không đòi hỏi thủ tục khi cho vay các SMEs siêu nhỏ phức tạp hơn cho vay các khách hàng cá nhân, vì trên thực tế, các khách hàng cá nhân và các chủ doanh nghiệp SMEs siêu nhỏ không khác nhau nhiều về hình thức sở hữu cá nhân. Quy chế cho vay nội bộ cũng cần quy định rõ những điều kiện mà các SMEs cần có để có thể được các tổ chức tín dụng cho vay không cần tài sản bảo đảm, và hạn mức cho vay không cần tài sản bảo đảm đối với từng trường hợp cụ thể. Các điều kiện để có thể được cho vay không cần tài sản bảo đảm có thể là số năm hoạt động có lãi dựa trên báo cáo thuế được duyệt, có bộ máy kế toán tài chính hoàn chỉnh và phải được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, phải công khai và minh bạch thông tin trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp phải có kiến thức về quản trị tài chính, kiểm soát chi phí và quản trị dòng tiền, các SMEs đã tham gia được vào các chuỗi cung ứng trong nước, khu vực hay toàn cầu, các SMEs hiện không có nợ xấu, nợ thuế, nợ lương bị quá hạn hoặc các tranh chấp thương mại, tranh chấp hợp đồng, các SMEs đã khởi nghiệp thành công và đã xây dựng được uy tín, thương hiệu, có doanh số bán hàng tăng trưởng liên tục nhiều năm ở mức độ lớn, có các đơn vị bao tiêu sản phẩm có thương hiệu và uy tín lớn trên thị trường, sản phẩm của các SMEs đã được đăng ký độc quyền và không dễ bị thay thế, các SMEs đã được các tổ chức uy tín hoặc các Quỹ bảo lãnh tín dụng cam kết với các điều khoản bảo lãnh rõ ràng,... Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng cũng cần thành lập tổ hay bộ phận hỗ trợ các SMEs trong việc xây dựng dự án hay các phương án vay vốn. Quan trọng nhất là các tổ chức tín dụng cần hỗ trợ các SMEs xây dựng được các bảng dự toán dòng tiền chi tiết đến từng tháng để làm cơ sở cho việc xác định hạn mức tín dụng và đánh giá được khá chính xác khả năng trả nợ của các SMEs. Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cũng cần hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc tiếp cận các nguồn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế hay các khoản tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước có chi phí rẻ hơn để các tổ chức tín dụng có điều kiện giảm lãi suất cho vay các SMEs.
 
 
Tài liệu tham khảo:
 
- Chính phủ (2018), Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều của luật hỗ trợ SMEs;
- Hồng Ánh (2018), 60% DNNVV chưa tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng, Kinh tế và Dự Báo;
- Phương Linh (2019), Tiếp tục mở rộng tín dụng có hiệu quả cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, truy cập ngày 23/7/2019;
- Nguyễn Thị Việt Nga (2019), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh mới, Tạp chí tài chính;
- Ngân hàng thế giới (2017), Việt Nam: Tăng Cường Năng lực Cạnh Tranh Và Liên Kết Của SMEs; truy cập ngày 23/7/2019;
- Quốc Hội (2017), Luật số 14/2017/QH14 về Hỗ trợ SMEs;
- Trung tâm nghiên cứu kinh tế - tài chính_UEL (2017), Tiếp cận tài chính của SMEs, Truy cập ngày 23/7/2019.


TS. Nguyễn Hoàng Vĩnh Lộc, Trần Nguyên Bình

Nguồn: TCNH Số CĐĐB 2019
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 249 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 357 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 684 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.131 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.673 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.173 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 6.645 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.210 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.286 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 9.117 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.248 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.424 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.203 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 4.076 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.562 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?