Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 4.649 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động cho vay tiêu dùng vẫn còn những khó khăn, trong đó, nhiều công ty tài chính ghi nhận có lợi nhuận sụt giảm, thậm chí dẫn đến thua lỗ do phải trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu.

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến cuối tháng 11/2023, toàn hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) có 84 TCTD còn dư nợ tín dụng tiêu dùng, trong đó có 15 công ty tài chính tiêu dùng. Tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng của toàn hệ thống tăng 2,9% so với cuối năm 2022, chiếm tỉ trọng 21% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Trong giai đoạn 2018 - 2022, tỉ trọng dư nợ tín dụng tiêu dùng so với tổng dư nợ nền kinh tế ở mức khoảng 20% và tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng tiêu dùng toàn hệ thống bình quân khoảng 20,5%/năm.



Phát triển tín dụng tiêu dùng góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức (
Ảnh: Nguồn Internet)

Đến cuối tháng 11/2023, tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng của nhóm các công ty tài chính đã giảm 9% so với cuối năm 2022, chiếm 5% tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng toàn hệ thống và chiếm 1% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính bình quân khoảng 15%/năm trong giai đoạn 2018 - 2022.

Tín dụng tiêu dùng gặp khó

Theo các chuyên gia, nợ xấu tín dụng tiêu dùng có xu hướng tăng tại một số công ty tài chính trong thời gian gần đây, xuất phát từ một số nguyên nhân khách quan đến từ khó khăn chung của nền kinh tế, làm suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Đối tượng khách hàng của các công ty tài chính thường là người lao động có thu nhập thấp hoặc trung bình, không có tài sản thế chấp và chưa có lịch sử tín dụng. Các khoản vay tiêu dùng của công ty tài chính cũng thường có giá trị không lớn và không có tài sản bảo đảm nên rủi ro tín dụng và lãi suất cho vay cao hơn.   

Theo quy định hiện hành, các công ty tài chính không được huy động vốn từ khách hàng cá nhân. Do đó, việc huy động vốn của các công ty tài chính gặp khó khăn. Theo đó, việc huy động vốn từ các tổ chức gặp nhiều cạnh tranh từ các ngân hàng và các công ty tài chính khác, trong khi một số công ty tài chính có quy mô và thương hiệu chưa lớn, mức độ nhận diện thương hiệu chưa cao. Chưa kể, việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và định chế tài chính thường có lãi suất cao hơn so với chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Khó khăn trong huy động vốn và chi phí huy động vốn cao, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cấp tín dụng (bao gồm cấp tín dụng tiêu dùng) của các công ty tài chính (như chi phí huy động vốn cao dẫn đến lãi suất cho vay cao…).

Mặt khác, một số công ty tài chính gặp khó khăn, bị ảnh hưởng trong bối cảnh có nhiều thông tin tiêu cực về thị trường tài chính tiêu dùng (như việc một số công ty tài chính bị khiếu kiện từ khách hàng lên cơ quan điều tra), ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thu hồi nợ và các hoạt động khác của công ty. Thực tế có những tổ chức, cá nhân hoạt động trá hình, mạo danh, núp bóng tín dụng tiêu dùng dưới các hình thức như cầm đồ, hỗ trợ tài chính, cho thuê xe ô tô, xe máy, đòi nợ thuê, xã hội đen, tín dụng đen… làm ảnh hưởng tới hoạt động, niềm tin của người dân đối các công ty tài chính cũng như các sản phẩm tài chính tiêu dùng được cấp phép kinh doanh nói riêng và các TCTD nói chung. 

Thời gian qua, lực lượng công an đã khởi tố nhiều vụ án với hơn 400 bị can hoạt động tín dụng đen. Trong đó có nhiều băng nhóm hoạt động liên quan đến công nghệ cao, thậm chí có cả đối tượng là người nước ngoài vào Việt Nam thành lập các công ty rồi thuê nhân viên là người Việt Nam. Hoạt động tín dụng đen chủ yếu trên môi trường không gian mạng và cho vay với lãi suất lên đến hàng nghìn phần trăm/năm. Khoản vay có số tiền rất nhỏ nhưng cộng lãi suất với các khoản phí thì số tiền người vay phải trả rất lớn. Khi người dân tham gia vay các App, thế chấp qua App, việc lộ lọt thông tin khiến các đối tượng xấu lợi dụng thực hiện các hành vi dọa dẫm, đòi nợ trái quy định của pháp luật là lớn.

Về phía khách hàng, ý thức trả nợ của một bộ phận khách hàng vay tín dụng tiêu dùng chưa cao, thậm chí cố tình không trả nợ; có hành vi chống đối, tố cáo, vu khống cán bộ đến thu nợ. Cùng với đó, xuất hiện các hội nhóm rủ nhau trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trên mạng xã hội kéo theo nhiều hệ lụy cho các TCTD nhưng chưa bị xử lí/chưa có chế tài xử lí…

Bên cạnh đó, các yếu tố khách quan từ khó khăn chung của nền kinh tế, đặc biệt kể từ năm 2020, sau khi đại dịch Covid-19 kéo dài; biến động kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước làm ảnh hưởng tới thu nhập, khả năng trả nợ của khách hàng dẫn đến tỉ lệ nợ xấu trong cho vay tiêu dùng cao hơn mặt bằng chung của các TCTD.

Tiếp tục các giải pháp gỡ khó cho tín dụng tiêu dùng

Thời gian tới, ngành Ngân hàng cần tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, xử lí nợ xấu của hệ thống các TCTD. NHNN cần tiếp tục phối hợp các bộ, ngành liên quan nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ pháp lí, đảm bảo hài hòa quyền lợi của người cho vay và người đi vay; khôi phục dịch vụ đòi nợ chuyên nghiệp để khắc phục tình trạng bùng nợ.

NHNN tiếp tục yêu cầu các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ động cân đối nguồn vốn, đẩy mạnh đa dạng chương trình, sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, phân khúc khách hàng, đặc biệt là nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp phục vụ đời sống, tiêu dùng của người dân.

Bên cạnh đó, các TCTD cần tăng cường chuyển đổi số, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ nhằm đẩy nhanh tốc độ, thời gian xử lí hồ sơ vay vốn của khách hàng, đẩy mạnh rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục nội bộ để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng vay vốn; triển khai các giải pháp ứng dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong hoạt động cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tiêu dùng của người dân; xem xét, quyết định theo thẩm quyền việc áp dụng giải pháp ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư trong đánh giá khách hàng vay do Bộ Công an cung cấp, bảo đảm hoạt động cho vay an toàn, hiệu quả, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Ngoài ra, các TCTD cần đẩy mạnh công tác truyền thông, phổ biến kiến thức, thông tin rộng rãi, đầy đủ, rõ ràng và kịp thời các chương trình, sản phẩm cho vay, cũng như cách thức tiếp cận vốn để người dân nắm bắt và tiếp cận chính sách.

Về phía Bộ Công an, tiếp tục triển khai các biện pháp nghiệp vụ, thực hiện hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các loại tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; xử lí đối với các cá nhân, tổ chức có các hành vi vi phạm pháp luật, gây mất an ninh, trật tự trong quá trình thu giữ, xử lí tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, đảm bảo việc thu giữ xử lí tài sản bảo đảm thu hồi nợ diễn ra theo quy định pháp luật; xử lí quyết liệt các tổ chức, cá nhân trá hình, mạo danh hoạt động tín dụng tiêu dùng bất hợp pháp; nghiêm cấm và xử lí tình trạng đòi nợ xã hội đen; triệt phá tín dụng đen và các hoạt động làm ảnh hưởng đến niềm tin của người dân vào các TCTD, công ty tài chính, các hoạt động tín dụng tiêu dùng được cấp phép kinh doanh chính thức.

Bộ Công an và NHNN tiếp tục phối hợp ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, trong đó có nghiên cứu phương pháp đánh giá khả tín khách hàng vay, qua đó, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay vốn, giảm rủi ro cho ngân hàng. Điểm khả tín của người dân khi 
vay vốn ngân hàng là “sự tín nhiệm” của khách hàng với ngân hàng, thông qua các chỉ số. Đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết định cho vay vốn hay không. Mức độ khả tín của khách hàng được đánh giá dựa trên nhóm tiêu chí năng lực pháp lí, sử dụng vốn, tài chính, thực hiện bảo đảm tiền vay.

Để đảm bảo nhu cầu bảo vệ các thông tin cá nhân và đối mặt với tình trạng thu thập, mua bán, chuyển giao, sử dụng trái phép dữ liệu cá nhân, trong đó có các vụ việc liên quan tín dụng đen, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Thời gian tới, Bộ Công an cần tiếp tục triển khai đấu tranh với hoạt động chuyển giao trái phép, mua bán dữ liệu cá nhân, xử lí nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

Bộ Tài chính phối hợp các cơ quan liên quan thực hiện các giải pháp để phát triển đồng bộ các thị trường tài chính, khơi thông dòng vốn trong nền kinh tế, giảm bớt áp lực cân đối vốn lên hệ thống các TCTD, từ đó, góp phần hạ thấp chi phí vốn huy động trong nền kinh tế. Khi chi phí huy động vốn hạ xuống, các TCTD, trong đó có các công ty tài chính tiêu dùng sẽ cải thiện được khả năng hoạt động cũng như có dư địa để giảm các mức lãi suất cho vay.

Các bộ, ngành liên quan thực hiện các giải pháp để kích cầu, phát triển kinh tế, gia tăng thu nhập cho người dân. Khi thu nhập và tình hình tài chính cải thiện, rủi ro khi cho vay thấp hơn thì cơ hội của người dân tiếp cận với các nguồn cung cấp tín dụng sẽ đa dạng hơn, với chi phí thấp hơn.

Hà Trang
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
09/07/2024 470 lượt xem
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
01/07/2024 1.194 lượt xem
Năm 2024, chống hoạt động IUU được xem là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa lâu dài đối với phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam. Các quy định IUU được thiết lập thống nhất trên toàn EU để ngăn chặn và loại bỏ việc nhập khẩu các sản phẩm thủy sản bị đánh giá là có hoạt động IUU vào thị trường EU nhằm hướng tới ngành ngư nghiệp, ngành kinh tế thủy sản minh bạch, trách nhiệm, bền vững.
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
20/06/2024 1.065 lượt xem
Chính sách tiền tệ (CSTT) xanh của ngân hàng trung ương (NHTW) trong việc cho vay đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) là một công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Nâng cao vai trò của Ủy ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ  trong công ty cổ phần
Nâng cao vai trò của Ủy ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ trong công ty cổ phần
18/06/2024 1.476 lượt xem
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán giữ vai trò quan trọng đối với sự lành mạnh về thông tin công bố trên thị trường tài chính nói chung và doanh nghiệp nói riêng.
Thành công bước đầu trong mục tiêu thu hẹp chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước
Thành công bước đầu trong mục tiêu thu hẹp chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước
06/06/2024 1.316 lượt xem
Đến sáng 05/6/2024, khoảng cách giữa giá vàng miếng SJC trong nước quy đổi so với giá vàng thế giới được thu hẹp đáng kể - đây là thành công bước đầu trong giải pháp mà NHNN mới đưa ra.
Quyết liệt triển khai các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Quyết liệt triển khai các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
31/05/2024 1.475 lượt xem
Kết thúc năm 2023, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực: Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đồng tiền Việt Nam cơ bản ổn định; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách trong tầm kiểm soát...
Chính sách tiền tệ góp phần hạn chế sự hình thành các doanh nghiệp zombie tại Việt Nam
Chính sách tiền tệ góp phần hạn chế sự hình thành các doanh nghiệp zombie tại Việt Nam
31/05/2024 1.236 lượt xem
“Doanh nghiệp zombie” lần đầu tiên được đề xuất như một thuật ngữ kinh tế bởi Kane (1987) và được nhắc đến nhiều nhất vào những năm 1990 trong thời kì khủng hoảng kinh tế kéo dài khoảng 10 năm (1991 - 2001) sau sự sụp đổ của bong bóng giá tài sản tại Nhật Bản.
Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm ổn định lạm phát tại Việt Nam
Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm ổn định lạm phát tại Việt Nam
13/05/2024 3.206 lượt xem
Ổn định lạm phát luôn được coi là một biến số kinh tế vĩ mô trọng tâm tại Việt Nam. Trong giai đoạn lạm phát phi mã từ năm 1986 đến năm 1990, chính sách tiền tệ đóng vai trò chủ đạo với giải pháp nâng lãi suất để hút tiền khỏi quá trình lưu thông. Đến giai đoạn lạm phát cao từ năm 2007 đến năm 2012, chính sách tiền tệ và tài khóa cùng thắt chặt để giảm lượng vốn đầu tư, thể hiện trực tiếp cho lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
01/05/2024 1.671 lượt xem
Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật và quy chế nội bộ của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) về hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ bảo toàn) và thực tiễn thi hành từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo toàn.
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 9.792 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 1.885 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 2.771 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 2.608 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 5.015 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.697 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?