Cách đây không lâu, tại buổi đối thoại giữa Chính phủ với 14 chủ tịch, tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam, trong khi nhấn mạnh các tập đoàn kinh tế tư nhân phải là trụ đỡ cho doanh nghiệp nhỏ và là người dẫn dắt nền kinh tế, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu một số vấn đề có tính gợi mở cho việc thảo luận: Vì sao kinh tế tư nhân ở Việt Nam chưa phát triển? Nút thắt ở đây là gì? Do môi trường kinh doanh hay thuế khóa, lao động, tín dụng...?
Lãnh đạo các tập đoàn kinh tế tư nhân hãy nói thật, thẳng và trách nhiệm. Chính phủ muốn lắng nghe những khó khăn, vướng mắc và đề xuất trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp. Từ những góp ý này, Chính phủ sẽ hình thành chính sách, định hướng, tiếp tục tạo ra khung pháp lý, môi trường kinh doanh để doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ và đúng hướng...
Vị thế cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam
Từ khi có Luật Doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp (DN) Việt Nam ngày càng phát triển cả bề rộng và bề sâu, về lượng và chất, đến 31/12/2018, cả nước có 714.755 DN đang hoạt động, trong đó khoảng 96,66% là DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân; 2,8% là DN có vốn FDI và 0,54% là DNNN. Khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) có tới 96% DN quy mô nhỏ và siêu nhỏ, 2% DN quy mô vừa và 2% DN lớn, sử dụng chưa đến 30% diện tích đất kinh doanh, nhưng thu hút 85% lực lượng lao động cả nước (trong đó, chiếm 51% lao động DN) và tạo ra 43% GDP, đóng góp khoảng 30% NSNN so với khu vực FDI đang đóng góp gần 20% GDP, 22% tổng vốn đầu tư, 2/3 kim ngạch xuất khẩu và tạo ra 1/4 việc làm cho khu vực DN chính thức.
Đặc biệt, năm 2018, đầu tư khu vực tư nhân tăng 18,5% so với năm 2017 và chiếm tới 43,3 % tổng đầu tư xã hội (tính theo giá hiện hành, ước tính đạt 1.856,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước và bằng 33,5% GDP); Vốn khu vực Nhà nước đạt 619,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,3% tổng vốn và tăng 3,9% so với năm trước; khu vực có vốn FDI đạt 434,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,6%. Cũng trong năm 2018, cả nước có 131.275 DN đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.478,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% về số DN và tăng 14,1% về số vốn đăng ký so với năm 2017; vốn đăng ký bình quân một DN thành lập mới đạt 11,3 tỷ đồng, tăng 10,2%. Đồng thời, có 2.408,8 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các DN; có 34.010 DN quay trở lại hoạt động, tăng 28,6% so với năm trước, nâng tổng số DN đăng ký thành lập mới và DN quay trở lại hoạt động trong năm nay lên gần 165,3 nghìn DN (trong khi đó, số DN tạm ngừng hoạt động trong năm 2018 là 90.651 DN, tăng 49,7% so với năm trước; số DN hoàn tất thủ tục phá sản là 16.314 DN, tăng 34,7%).
Ngoài ra, cả nước hiện có gần 21,2 nghìn hợp tác xã và 61 liên hiệp hợp tác xã, trong đó có 13 nghìn hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thu hút 6,4 triệu thành viên tham gia.
Theo tinh thần Nghị quyết 10-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ngày 3/6/2017, Việt Nam phấn đấu để có trên 1 triệu DN vào năm 2020, đạt 1,5 triệu DN vào năm 2025 và 2 triệu DN vào năm 2030, đồng thời nâng tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN lên tới 60 - 65% GDP. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Bình quân giai đoạn 2016 - 2025, năng suất lao động tăng khoảng 4 - 5%/năm. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của DN tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; Hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu, trong đó có nhiều DN trưởng thành và phát triển, vươn ra tầm khu vực và thế giới, tăng cường các chuỗi liên kết với nhau và với các khu vực DN khá, chủ động tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
Cải thiện môi trường đầu tư, trong đó có điều kiện tiếp cận vốn ngân hàng cho DNNVV không chỉ là thước đo,
mà còn là nhiệm vụ, mục tiêu và động lực phát triển kinh tế
Dù có sức vươn mạnh mẽ, bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế, với đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh..., song, cộng đồng DN tư nhân Việt Nam đa phần có quy mô nhỏ, còn nhiều hạn chế về trình độ công nghệ, tài chính, quản trị và năng lực đổi mới; về chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh; về khả năng liên kết với các thành phần kinh tế khác và tham gia chuỗi giá trị sản xuất trong nước, khu vực và toàn cầu...
Đặc biệt, khu vực DN tư nhân còn nhiều hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, khi mà chỉ với chưa đến 50% số DN tiếp cận được nguồn vốn này.
Cải thiện môi trường đầu tư, trong đó có điều kiện tiếp cận vốn ngân hàng cho DNNVV không chỉ là thước đo, mà còn là nhiệm vụ, mục tiêu và động lực phát triển cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài; là kết quả cộng hưởng các giải pháp và nỗ lực chung vì sự phát triển ổn định và hiệu quả chung của cộng đồng DN và toàn thể nền kinh tế quốc gia...
Thực tế đang cho thấy, môi trường đầu tư cho các DN Việt được cải thiện mạnh mẽ nhờ những đột phá thể chế đối ngoại ngày càng chủ động hội nhập cao hơn. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 187 quốc gia và quan hệ kinh tế - thương mại với trên 223 nước, vùng lãnh thổ; đã tham gia hơn 500 hiệp định quốc tế, trong đó có trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần. Hiện 65 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường và 48 nước đã miễn visa du lịch cho khách Việt Nam (Việt Nam hiện miễn visa cho du khách và doanh nhân 22 nước và là 19/21 nước APEC tham gia cấp visa doanh nhân 60 - 90 ngày cho nhau). Đặc biệt, Việt Nam đã ký 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang đàm phán 4 FTA, trong đó có những FTA có tiêu chuẩn cao. Dự kiến, khi thực hiện tất cả các FTA này, Việt Nam sẽ nằm trong mạng lưới liên kết kinh tế sâu rộng với 56 đối tác trên thế giới, bao gồm tất cả các nước G7 và 15/20 thành viên Nhóm G20, mở ra không gian rộng lớn cho DN Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Việt Nam có 16 đối tác chiến lược, 12 đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam đã kết nối kỹ thuật thành công cơ chế một cửa với 4 nước Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore để chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu trong khu vực ASEAN. Riêng cơ chế này ở trong nước cũng đã kết nối được 11/14 Bộ. Ngoài thủ tục thông quan hàng hóa (Bộ Tài chính), 37 thủ tục hành chính của 9 Bộ còn lại đã được thực hiện thông qua cơ chế một cửa quốc gia.
Môi trường kinh doanh trong nước cũng ghi nhận những bước chuyển biến ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn, được ghi nhận ở thăng hạng ấn tượng trong một loạt báo cáo quốc tế: Chỉ số Đổi mới sáng tạo của Việt Nam năm 2018 tiếp tục tăng 2 bậc so với năm trước (đứng ở vị trí 48 với vị trí 50 năm 2017, vị trí 52 năm 2015, vị trí 71 năm 2014 và 76 năm 2013); tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF ASEAN 2018), diễn ra ngày 12/9/2018, Việt Nam đã được Viện nghiên cứu toàn cầu McKinsey xếp vào nhóm 18 nước “đạt hiệu quả vượt trội hơn” trong tổng số 71 nền kinh tế mới nổi toàn cầu (với một trong các tiêu chí là nước có số lượng DN quy mô lớn nhiều gần gấp đôi so với các quốc gia đang phát triển khác).
Đồng thời, theo Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business 2019) được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố (dựa trên khảo sát 10 chỉ số: nộp thuế, tiếp cận điện năng, tiếp cận tín dụng, cấp phép xây dựng, bảo vệ nhà đầu tư, giải quyết tranh chấp hợp đồng, khởi sự kinh doanh, đăng ký sở hữu tài sản, giao dịch thương mại qua biên giới, giải quyết phá sản doanh nghiệp), trong năm 2018, Việt Nam đạt 68,36 điểm, cao hơn 1,59 điểm trong Doing Business 2018 (66,77 điểm) và có 6/10 chỉ số môi trường đầu tư được cải thiện (Chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội; chỉ số bảo vệ nhà đầu tư; khởi sự kinh doanh; tiếp cận tín dụng và cấp phép xây dựng); được WB công nhận đã thực hiện 3 cải cách (thực thi hợp đồng, trả thuế và thành lập doanh nghiệp) trong năm 2018 và đứng đầu Đông Nam Á vì thực hiện 18 cải cách trong 5 năm qua, ngang với mức của Indonesia.
Biểu tượng cho sức bật thể chế của Việt Nam là những nỗ lực vượt qua chính mình của ngành điện. Chỉ số tiếp cận điện năng năm 2018 của Việt Nam đã đạt 87,94 điểm và đứng ở vị trí 27/190 quốc gia trên thế giới, tăng 37 bậc so với xếp hạng năm 2017 và tăng 129 bậc so với năm 2013; đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN về thủ tục và thời gian thực hiện cung cấp điện. Đặc biệt, từ ngày 21/12/2018, EVN chính thức khai trương dịch vụ điện cấp độ 4 (chỉ 1 năm sau khi đạt cấp độ 3 từ ngày 21/12/2017); Theo đó, EVN sẽ đáp ứng mọi yêu cầu dịch vụ điện hợp pháp của khách hàng, đúng chất lượng, nội dung và thời gian công bố, với 100% thao tác thông qua “trực tuyến - 1 cửa” theo phương châm “Điện lực đến với khách hàng”. EVN đã được Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam bình chọn là “Doanh nghiệp bền vững của Việt Nam năm 2018” và được tổ chức Hướng tới sự minh bạch đánh giá là một trong các DN nhà nước hàng đầu về minh bạch thông tin.
Năm 2018, các Bộ, ngành đã cắt giảm 6.776/9.956 thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra chuyên ngành và cắt giảm 3346/6191 điều kiện kinh doanh. Qua đó, giảm hơn 17.500.000 ngày công, tiết kiệm hơn 6.279 tỷ đồng chi phí tuân thủ cho DN. Song, như Thủ tướng yêu cầu, việc cắt, giảm các điều kiện kinh doanh cần thực chất hơn; cần hoàn thiện nhanh hơn các thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng, thương hiệu và tài sản công ty; sớm điều chỉnh các quy định về thuế phù hợp Luật Hỗ trợ DNNVV để hỗ trợ DNNVV đổi mới, sáng tạo...
Việt Nam đã đặt mục tiêu đến đầu năm 2018, đạt tối thiểu bằng trung bình của các nước ASEAN-4 trên các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh (trong đó, khởi sự kinh doanh thuộc nhóm 70 nước đứng đầu; Bảo vệ nhà đầu tư thiểu số thuộc nhóm 80 nước; Tính minh bạch và khả năng tiếp cận tín dụng theo cách tiếp cận của WB thuộc nhóm 30 nước). Riêng chỉ tiêu tạo thuận lợi trong tiếp cận vốn vay (đánh giá theo cách tiếp cận của Diễn đàn kinh tế Thế giới) phấn đấu đến năm 2020, thuộc nhóm 40 nước đứng đầu thế giới.
Bên cạnh đó, bản thân các DN cũng cần có chiến lược kinh doanh lâu dài, đúng cam kết, đúng tiến độ, thực tâm hình thành mối quan hệ bình đẳng, “cùng thắng” với các bên trong chuỗi liên kết khép kín; có trách nhiệm bảo vệ môi trường, trách nhiệm với xã hội và cộng đồng, xây dựng môi trường lao động an toàn, thân thiện, hài hòa, vượt qua mọi rào cản kỹ thuật quốc gia và quốc tế, đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy, việc cùng chủ trương, cùng cơ chế chính sách, mà nơi này làm tốt, nơi khác lại trì trệ, thường chủ yếu là do nhận thức và năng lực, trách nhiệm cán bộ, nhất là người đứng đầu; sự thiếu quyết liệt chỉ đạo và đề cao kỷ luật, kỷ cương công vụ, thiếu chủ động, linh hoạt, trăn trở dám nghĩ, dám làm theo cách mới, sáng tạo, cụ thể; buông lỏng sự gương mẫu, trách nhiệm và chưa thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện ở từng cấp, từng ngành, vì lợi ích chung. Bên cạnh đó, việc phân cấp, phân quyền chưa mạnh mẽ và coi nhẹ tính chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn, không rõ người, rõ việc và gắn với trách nhiệm, thời gian thực hiện cụ thể, cũng khiến kỷ cương phép nước bị buông lỏng, làm chậm hoặc hạn chế chất lượng, hiệu quả giải quyết công việc, nhiệm vụ, kéo dài tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, “tranh công, đổ lỗi và né việc” của cán bộ, người được giao việc.
Đại diện Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam vừa có thông điệp khuyến cáo: Không thể đón bắt cơ hội và vượt qua thách thức của cách mạng CN 4.0 với bộ máy quản lý nhà nước 1.0. Sự đổi mới sáng tạo không chỉ cần cho khu vực sản xuất kinh doanh, mà còn cần được triển khai đồng bộ và toàn diện trong toàn xã hội, cả đối với hệ thống hành chính nhà nước. Trên thực tế, đằng sau các thủ tục và điều kiện kinh doanh đa dạng và phức tạp đôi khi ẩn khuất những nhóm lợi ích chi phối (như đặt điều kiện về quy mô DN sẽ tạo độc quyền cho một số doanh nghiệp lớn; đặt điều kiện về kiểm tra chuyên ngành sẽ mở cơ hội cho những người có thẩm quyền liên quan có thể vòi vĩnh). Cắt bỏ các thủ tục này cũng có nghĩa là cắt bỏ số tiền lót tay mà các DN phải chi ra để “lọt” qua cửa này. Cắt giảm các điều kiện kinh doanh, chúng ta có quyền hy vọng môi trường đầu tư trong nước sẽ ngày càng minh bạch, thông thoáng, bình đẳng để người dân, DN tự tin đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh, đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước.
Công cuộc đổi mới toàn diện và chủ động hội nhập quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới tư duy một lần nữa, tạo động lực mới cho phát triển DN trên tinh thần kiến tạo, giải phóng sức sáng tạo và phát huy toàn diện vai trò, tạo cơ hội cho DN, nhà đầu tư có sự lựa chọn, chủ động đổi mới, thích ứng và tập trung vào phản ứng nhanh nhậy, đáp ứng hiệu quả các tín hiệu thị trường trong nước và nước ngoài; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, chế biến sâu, trên cơ sở phát huy lợi thế tự nhiên sẵn có gắn với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tạo ra những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, có thương hiệu quốc gia đại diện tiêu biểu, góp phần hình thành nên một diện mạo mới cả về kinh tế và vị thế trên thị trường quốc tế của Việt Nam trong những thập niên tới...
Những đột phá thể chế cần ưu tiên để phát triển cộng đồng doanh nghiệp tư nhân thời gian tới
Theo tinh thần Nghị quyết 10-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành ngày 3/6/2017, lần đầu tiên ở Việt Nam, khu vực KTTN được đặt ngang hàng với các khu vực KTNN và khu vực KTTT để trở thành nòng cốt trong nhiệm vụ phát triển kinh tế đối ngoại và xây dựng nền kinh tế quốc gia độc lập, tự chủ hội nhập sâu, đầy đủ với quốc tế; trở thành động lực quan trọng, là “đầu kéo chính” cho quá trình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giải phóng sức sản xuất, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đổi mới tư duy, đột phá toàn diện thể chế và tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp cần thiết, tạo môi trường thuận lợi cao nhất, theo cơ chế thị trường, với sự hỗ trợ và quản lý nhà nước thích hợp, để phát triển cộng đồng DN đa dạng, lành mạnh và đúng định hướng, với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỉ trọng đóng góp trong GDP ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nhà nước khuyến khích tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNVV, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp; Khuyến khích hình thành các tập đoàn KTTN đa sở hữu; khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn KTNN, tham gia góp vốn, mua cổ phần của các DNNN khi cổ phần hóa hoặc thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Thực tiễn cũng chứng tỏ, khu vực KTTN Việt Nam còn phát triển dưới mức tiềm năng và cũng chưa thực sự hiệu quả. Bởi vậy, cần có những đột phá quan trọng và thực chất nhằm gạt bỏ những rào cản và thúc đẩy khu vực KTTN phát triển và phát huy vai trò chủ công của mình trên hành trình hiện đại hóa đất nước, theo đó:
Thứ nhất, kiên quyết xóa bỏ những định kiến về thành phần kinh tế nói chung, về KTTN nói riêng phải trở thành khâu đột phá trong nhận thức và cơ sở pháp lý cho sự phát triển KTTN tương lai.
Trong nhận thức lý luận, chính trị và pháp lý quản lý nhà nước khu vực KTTN nói riêng, nền kinh tế nói chung, cần tuân thủ các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, đặc biệt là các cam kết hội nhập KTQT; đảm bảo sự tự do hóa ngày càng cao, đầy đủ và rộng rãi các lĩnh vực hoạt động kinh doanh cho phép khu vực KTTN tham gia. Đặt khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng bình đẳng với các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước về pháp luật và điều kiện tiếp cận, sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của DN trong sự cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật và nguyên tắc thị trường; xây dựng, triển khai các công cụ quản lý và hỗ trợ mới đối với khu vực KTTN, chuyển từ mục đích “quản chặt” sang “hỗ trợ” DN bằng định hướng chính sách, thông tin thị trường và những khuyến khích tài chính, cũng như tinh thần theo ngành, sản phẩm, địa bàn..., chứ không theo từng DN, dự án cụ thể hoặc tính chất sở hữu. Xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp công dân, hệ thống thông tin DN, hệ thống đăng ký thế chấp, cầm cố tài sản... được nối mạng nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh, cũng như quản lý Nhà nước và phòng tránh, giảm thiểu các rủi ro tín dụng, kinh doanh, các hành vi vi phạm sở hữu thương hiệu, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp và các vi phạm bản quyền, an ninh, trật tự an toàn văn minh thương mại và thị trường khác. Tăng cường phân cấp quản lý kinh tế - xã hội cho các cấp chính quyền địa phương theo phương châm: Việc nào mà cấp nào, đơn vị nào làm nhanh, hiệu quả nhất thì giao cho cấp đó, đơn vị đó đảm nhận. Thúc đẩy CCHC nhằm thống nhất, đơn giản hóa và hiện đại hóa các quy trình, thủ tục, công nghệ và tiêu chuẩn quản lý kinh tế - xã hội, trong đó có quản lý Nhà nước đối với khu vực KTTN tiếp cận với yêu cầu và trình độ quốc tế. Cải cách, tăng cường năng lực và hiệu lực của các định chế và chế tài, kinh tế, hành chính, cũng như bộ máy tư pháp quốc gia và địa phương nhằm bảo vệ có hiệu quả lợi ích Nhà nước, lợi ích DN, doanh nhân và người lao động, phát triển hệ thống an sinh xã hội, hệ thống phòng ngừa rủi ro, cảnh báo sớm các nguy cơ và giải quyết kịp thời các chấn động kinh tế - xã hội do quá trình thúc đẩy phát triển KTTN và hội nhập KTQT gây ra; Khen thưởng kịp thời và tôn vinh thích đáng các đơn vị và cá nhân có thành tích tiêu biểu trong quản lý và phát triển KTTN.
Đồng thời, cần không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách hiện hành để đảm bảo sự thích nghi nhanh chóng với các biến động thị trường và bối cảnh chung trong nước và quốc tế, bảo đảm tính khả thi của những giải pháp đề xuất trong thực tiễn, lấy sự phát triển nhanh KTTN và hiệu quả kinh tế - xã hội chung, sự cải thiện chất lượng sống mọi mặt của nhân dân làm tiêu chuẩn đánh giá tính đúng đắn của những cơ chế, chính sách được lựa chọn.
Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội, nghề nghiệp đối với khu vực KTTN, cũng như đối với từng DN, xây dựng văn hóa DN, văn hóa kinh doanh và văn hóa quản lý, thúc đẩy tinh thần tự trọng, tự tôn và tự hào dân tộc, gắn kết và hợp tác cộng đồng, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân, các “Công ty mẹ - con” và các hiệp hội DN ngành nghề phù hợp, hỗ trợ cho KTTN phát triển; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát độc quyền và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trốn lậu thuế, làm hàng giả trong sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, cần coi trọng phát triển các dịch vụ tư vấn, thông tin và dự báo thị trường, hỗ trợ kinh doanh; giảm thiểu cho khu vực DN các gánh nặng thể chế, tài chính và tín dụng trong đầu tư mở rộng thị trường trong nước và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân đầu tư ra nước ngoài; Tăng trưởng tín dụng đi đôi với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; đẩy mạnh bao phủ tín dụng, đẩy lùi tín dụng “đen”.
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế, xây dựng bộ máy kỷ cương, liêm chính, hành động, phục vụ; nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, công vụ, xây dựng Chính phủ điện tử gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy biên chế tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, tăng cường tự do hóa và giảm thiểu chi phí không chính thức trong kinh doanh.
Nhiệm vụ cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đang và sẽ tiếp tục được coi là nhiệm vụ chính trị quan trọng của một Nhà nước kiến tạo mà Việt Nam hướng tới, với yêu cầu chung là kiên quyết không làm phát sinh những điều kiện kinh doanh mới trong thể chế chính sách, pháp luật mới ban hành; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, điều hành, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, tạo mọi thuận lợi và giảm tối đa chi phí cho người dân và DN. Sự hài lòng của cộng đồng DN và người dân ngày càng trở thành thước đo đánh giá nhiệm vụ và kết quả quản lý nhà nước đối với khu vực DN và đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Cải thiện các điều kiện kinh doanh theo tiêu chuẩn quốc tế ở cấp quốc gia và xếp hạng các tiêu chí nội dung PCI ở cấp địa phương trở thành bài thi định kỳ, mà hàng năm, cả hệ thống chính trị các cấp đều chung lo tìm lời giải thật tối ưu.
Theo tinh thần đó, các hoạt động quản lý nhà nước đối với các DN cần tuân thủ các nguyên tắc, cam kết hội nhập và thông lệ quốc tế; giảm nhẹ gánh nặng chi phí về thể chế, tài chính và chi phí vốn, đảm bảo sự bình đẳng về pháp luật và điều kiện tiếp cận, sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của DN trong sự cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật và nguyên tắc thị trường; xây dựng, triển khai các công cụ quản lý và hỗ trợ mới, chuyển từ mục đích “quản chặt” sang “hỗ trợ” DN bằng định hướng chính sách, thông tin thị trường và những khuyến khích tài chính, tinh thần theo ngành, sản phẩm, địa bàn..., chứ không theo từng DN, dự án cụ thể hoặc tính chất sở hữu.
Đồng thời, đẩy mạnh CCHC theo yêu cầu thống nhất, đơn giản hóa và hiện đại hóa các quy trình, thủ tục, công nghệ và tiêu chuẩn quản lý kinh tế - xã hội tiếp cận với yêu cầu và trình độ quốc tế nhằm bảo vệ có hiệu quả lợi ích Nhà nước, lợi ích DN, doanh nhân và người lao động; phát triển các dịch vụ tư vấn, thông tin và dự báo thị trường, hỗ trợ kinh doanh; giảm thiểu cho khu vực DN các gánh nặng thể chế, tài chính và tín dụng trong đầu tư mở rộng thị trường trong nước và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân đầu tư ra nước ngoài; xây dựng văn hóa DN, văn hóa kinh doanh và văn hóa quản lý, thúc đẩy tinh thần tự trọng, tự tôn và tự hào dân tộc, gắn kết và hợp tác cộng đồng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát độc quyền và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trốn lậu thuế, làm hàng giả trong sản xuất, kinh doanh; đề cao tính minh bạch và quy chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa và trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu đơn vị quản lý nhà nước đối với DN; thường xuyên phát hiện, xử lý, loại bỏ kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, vô trách nhiệm, mất uy tín và trở thành lực cản phát triển của DN và đất nước, kiên quyết chống những biểu hiện tham nhũng trong công tác cán bộ; Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
Ngoài ra, coi trọng kịp thời phát hiện và khen thưởng, tôn vinh thích đáng các đơn vị và cá nhân có thành tích tiêu biểu trong quản lý và phát triển DN; khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm, bảo đảm phát triển bao trùm và bền vững; nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp, năng lực và trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các hiệp hội DN trong hỗ trợ DN đầu tư cả trong nước và ra nước ngoài; Coi trọng giáo dục lòng yêu nước tự hào dân tộc và bản lĩnh kinh doanh, tinh thần tự lực, tự cường, có ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân cho các doanh nhân và người lao động trong KTTN; Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội, nghề nghiệp đối với khu vực KTTN, cũng như đối với từng DN; phát triển hệ thống an sinh xã hội, hệ thống phòng ngừa rủi ro, cảnh báo sớm các nguy cơ và giải quyết kịp thời các chấn động kinh tế - xã hội.
Quá trình xóa bỏ những thể chế kìm hãm DN, điều chỉnh những thể chế làm lệch lạc, lãng phí các nguồn lực DN, lấp đầy những “khoảng trống thể chế” cần thiết để hỗ trợ DN phát triển lành mạnh, hiệu quả đã, đang và sẽ cho phép từng bước định hình một tầm nhìn mới, một thực tiễn mới và mở ra triển vọng phát triển mới với nhiều thay đổi về chất đối với vai trò, vị thế và cách thức tổ chức mới của cộng đồng DN trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ chuyển mình hội nhập cùng thế giới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
TS. Nguyễn Minh Phong
ThS. Nguyễn Trần Minh Trí
Nguồn: TCNH số chuyên đề đặc biệt 2019