Phó Thống đốc NHNN Phạm Tiến Dũng tại Hội thảo "Ngày nông dân không dùng tiền mặt", tổ chức tại Hà Nội ngày 01/12/2021
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang tác động sâu rộng đến tất cả các ngành, lĩnh vực, các mặt đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, ngành Ngân hàng đã và đang chứng kiến sự chuyển đổi mạnh mẽ trong tư duy, nhận thức chiến lược, trong mô hình kinh doanh, vận hành nghiệp vụ và cung ứng sản phẩm, dịch vụ. Bất chấp ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động nghiên cứu, triển khai đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển hoạt động ngân hàng số (Digital Banking) theo phương châm lấy khách hàng làm trung tâm, tập trung triển khai các công nghệ 4.0, phân tích dữ liệu để nâng cao hiệu quả hoạt động và gia tăng trải nghiệm khách hàng. Nhờ đó, ngành Ngân hàng đã từng bước vượt lên thách thức, khẳng định vị thế huyết mạch tài chính trong nền kinh tế, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong bối cảnh CMCN 4.0 và của nền kinh tế số.
1. Xây dựng chính sách, giải pháp tạo thuận lợi chuyển đổi số
Trước bối cảnh CMCN 4.0 và sự nổi lên của các mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ, sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech), tập đoàn công nghệ lớn (Big Tech) tham gia vào lĩnh vực ngân hàng, triển khai định hướng chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã sớm có các hoạt động nghiên cứu, đánh giá kịp thời và ban hành nhiều quyết định, chính sách định hướng quan trọng tạo điều kiện cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo và thúc đẩy chuyển đổi số, khai thác, ứng dụng hiệu quả các công nghệ 4.0 trong hoạt động ngân hàng, cụ thể như sau:
Một là, NHNN đã sớm nhận thức được tầm quan trọng, ảnh hưởng sâu rộng của CMCN 4.0 đối với ngành Ngân hàng thông qua việc nghiên cứu, xây dựng các chính sách, kế hoạch lớn mang tính chất định hướng, tận dụng cơ hội cuộc CMCN 4.0, thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng như các Đề án thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trải dài nhiều giai đoạn từ năm 2006, Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Để triển khai hiệu quả Kế hoạch chuyển đổi số, NHNN đã thành lập Ban chỉ đạo và Tổ công tác Chuyển đổi số ngành Ngân hàng1 do Thống đốc NHNN làm Trưởng ban, 02 Phó Thống đốc làm Phó Trưởng ban và Thành viên là người đứng đầu các Vụ, Cục chức năng NHNN và một số ngân hàng thương mại lớn2. Đối với các ngân hàng thương mại, chuyển đổi số không còn là sự lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc, là hướng đi chiến lược nhằm giúp ngành Ngân hàng cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, phù hợp với xu hướng dịch chuyển số của các chủ thể trong nền kinh tế. Số liệu khảo sát của NHNN cho thấy, 95% các ngân hàng đã và đang xây dựng chiến lược/thực hiện triển khai chuyển đổi số.
Hai là, xác định thể chế là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển đổi số, NHNN thường xuyên rà soát để chỉnh sửa, bổ sung khuôn khổ pháp lý nhằm tạo thuận lợi, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển hoạt động ngân hàng số, cụ thể:
- NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, trong đó cho phép các tổ chức tài chính được thực hiện nhận biết khách hàng thông qua ứng dụng công nghệ, không cần gặp mặt trực tiếp khách hàng; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về thanh toán QR Code, tiêu chuẩn thẻ chíp nhằm tăng cường kết nối, xử lý liên thông trong thanh toán cũng như tích hợp với các ngành, lĩnh vực khác...; ban hành quy định và cấp phép cho 48 tổ chức không phải ngân hàng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; ban hành hướng dẫn mở tài khoản thanh toán của cá nhân, mở thẻ ngân hàng bằng phương thức định danh điện tử3 (eKYC); trình Chính phủ Quyết định phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile - Money) và đã phối hợp với các Bộ cấp phép thí điểm Mobile - Money cho 03 nhà mạng viễn thông4; ban hành Chỉ thị về việc đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng5; sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều thông tư hướng dẫn về công tác đảm bảo an ninh an toàn và hoạt động nghiệp vụ hướng tới việc phù hợp với cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số...
- NHNN đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan như: (i) Xây dựng và trình Chính phủ dự thảo Nghị định TTKDTM (thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ; (ii) Trình Chính phủ Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng làm cơ sở cho việc ứng dụng nhanh chóng các công nghệ, giải pháp đổi mới sáng tạo vào lĩnh vực ngân hàng; (iii) Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các quy định về Luật Giao dịch điện tử để đảm bảo đầu tư và huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, xã hội, thúc đẩy chuyển đổi số...
Ba là, NHNN thường xuyên quan tâm đến việc nâng cấp, xây dựng hạ tầng phục vụ hoạt động chuyển đổi số.
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (TTĐTLNH) được triển khai chính thức từ năm 2002, đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn nâng cấp, hoàn thiện, làm nền tảng cho quá trình đổi mới và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng; năm 2021, hệ thống TTĐTLNH bình quân xử lý hơn 600.000 tỷ VND/ngày (Hình 1).
Hình 1: Biến động giao dịch hệ thống TTĐTLNH qua các năm 2010 - 2021
Nguồn: NHNN
NHNN chỉ đạo xây dựng đưa vào vận hành hệ thống bù trừ điện tử phục vụ các giao dịch bán lẻ (ACH) với khả năng thanh toán thời gian thực, hoạt động liên tục 24/7, xử lý giao dịch đa kênh có khả năng tích hợp, kết nối với các ngành, lĩnh vực khác để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số. Tính đến cuối năm 2021, hệ thống đã có 52 thành viên tham gia, mức tăng trưởng bình quân đạt 82,56% về số lượng và 128,31% về giá trị giao dịch so với năm 2020. Mạng lưới ATM, POS được phủ sóng đến tất cả các tỉnh, thành trên cả nước. Tính đến hết tháng 12/2021, toàn quốc có 20.404 ATM, 323.572 POS và hơn 90.000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code đang hoạt động.
Hạ tầng dữ liệu Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) liên tục được nâng cấp, phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò là trụ cột quan trọng của cơ sở hạ tầng tài chính quốc gia, đóng góp tích cực vào sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Bốn là, NHNN cũng tích cực phối hợp với các bộ, ngành khác trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, triển khai các cơ chế, chính sách mới thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng, cụ thể như:
(i) Phối hợp với Bộ Công an ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 6/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 để các tổ chức tín dụng (TCTD), tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có thể khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu Căn cước công dân, thẻ Căn cước công dân gắn chíp phục vụ xác minh thông tin nhận biết khách hàng; (ii) Phối hợp với các bộ, ngành, đơn vị liên quan đẩy mạnh triển khai thu phí không dừng tại các trạm BOT; (iii) Phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai nhiều chính sách thúc đẩy TTKDTM đối với dịch vụ công, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục và đẩy mạnh triển khai kết nối, tích hợp thanh toán trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Theo số liệu của Cục Kiểm soát thủ tục hành chính (Văn phòng Chính phủ), từ thời điểm triển khai kết nối đến nay đã có hơn 675 nghìn giao dịch của 06 nhóm dịch vụ6 được thực hiện thanh toán trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, với giá trị đạt hơn 01 nghìn tỷ đồng.
2. Chuyển đổi số và nâng cao trải nghiệm khách hàng tại các ngân hàng
Với tiếp cận “Chuyển đổi số để tăng tốc và phát triển bền vững”, nhiều ngân hàng xem chuyển đổi số và việc phát triển mô hình, hoạt động ngân hàng số là một mục tiêu trong chiến lược kinh doanh và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Hoạt động đầu tư cho chuyển đổi số được chú trọng
7, cơ sở hạ tầng, hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking) thường xuyên được nâng cấp nhằm đảm bảo hoạt động ổn định, an toàn và phát triển các sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng số. Theo hãng tư vấn chiến lược toàn cầu McKinsey, ngành Ngân hàng Việt Nam được đánh giá có mức độ ứng dụng ngân hàng số với tốc độ nhanh nhất trong khu vực, tăng từ 41% năm 2015 lên đến 82% vào năm 2021, cao hơn mức tăng bình quân 23% của toàn khu vực và thậm chí cao hơn mức tăng bình quân 33% của thị trường mới nổi (Hình 2), thể hiện như sau:
Hình 2: Khảo sát các dịch vụ tài chính cá nhân của McKinsey tại 15 nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương (giai đoạn 2015 - 2021)
Thứ nhất, các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là dịch vụ thanh toán điện tử có tốc độ số hóa, tăng trưởng nhanh. Năm 2021, thanh toán qua các kênh thanh toán điện tử duy trì mức tăng trưởng cao so với năm 2020: Giao dịch qua kênh Internet tăng tương ứng 48,76% về số lượng giao dịch và 32,59% về giá trị; giao dịch qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 75,97% về số lượng và 87,5% về giá trị. (Hình 3, 4)
Hình 3: Tổng số lượng giao dịch qua kênh Internet và Mobile
Nguồn: NHNN
Hình 4: Tổng giá trị giao dịch qua kênh Internet, Mobile
Nguồn: NHNN
Nhiều giải pháp, ứng dụng thanh toán mới xuất hiện (như thanh toán, chuyển tiền tức thời cho phép kiểm tra thông tin tài khoản người nhận để hạn chế sai sót; thanh toán nhanh chóng, tiện lợi một chạm qua QR Code động không đòi hỏi nhập số tiền thanh toán; thanh toán sử dụng biệt danh - Alias để giảm bớt bước nhập thông tin tài khoản...) đã chứng tỏ khả năng công nghệ, sáng tạo, nhạy bén với nhu cầu thị trường của ngành Ngân hàng Việt Nam, góp phần tạo ra giá trị mới, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hữu ích cho người dân, xã hội. Tỷ lệ người dân trưởng thành có tài khoản thanh toán đạt gần 66% với tốc độ tăng trưởng bình quân 11,44% từ năm 2015 - 2021. (Hình 5)
Hình 5: Tổng số lượng tài khoản cá nhân qua các năm 2015 - 2021
Nguồn: NHNN
Thứ hai, nhiều ngân hàng Việt Nam đã đầu tư nghiên cứu, nâng cấp hạ tầng đổi mới, linh hoạt, phù hợp với chuyển đổi số thông qua việc triển khai các hệ thống Core Banking mới như Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank) với nền tảng Thought Machine, NHTMCP Kiên Long với nền tảng Flexcube của Oracle FS... hoặc đưa hạ tầng công nghệ lên nền tảng điện toán đám mây (Cloud Computing) như NHTMCP Quốc tế (VIB) với nền tảng Microsoft Azure, NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) với nền tảng AWS từ tháng 9/2021, NHTMCP Đại chúng Việt Nam (PVCombank) triển khai trục tích hợp trên WS từ tháng 7/2021, NHTMCP Việt Á (Viet A Bank) đã chuyển toàn bộ hệ thống Trung tâm dữ liệu lên Private Cloud từ năm 2017... Những xu hướng hạ tầng mới như mô hình đa đám mây (Multi-cloud), đám mây lai (Hybrid cloud)... cũng đã được nhiều ngân hàng dần nghiên cứu, triển khai.
Thứ ba, hầu hết các công nghệ số (Trí tuệ nhân tạo (AI), Học máy (ML), Dữ liệu lớn (Big Data), Tự động hóa quy trình bằng rô-bốt (RPA), giao diện lập trình ứng dụng (API)...) đều được các ngân hàng triển khai mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả hoạt động, gia tăng trải nghiệm khách hàng và tạo các nguồn thu mới, không gian phát triển mới. Nhiều nghiệp vụ ngân hàng đã được số hóa toàn diện 100%; nhiều ngân hàng đã ghi nhận tỷ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số với tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) ở mức tối ưu, chỉ từ 30 - 40%. Hàng chục triệu khách hàng đã trở thành khách hàng số của ngân hàng với việc sử dụng thường xuyên các ứng dụng ngân hàng số trong mọi giao dịch thường nhật như: Ứng dụng ngân hàng số Digibank của NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), iPay của NHTMCP Công thương Việt Nam (VietinBank), Smart Banking của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), eBank X của NHTMCP Tiên Phong (TPBank); Omni-Channel của NHTMCP Đông Phương (OCB)... Đến hết tháng 12/2021, đã có 24 ngân hàng báo cáo triển khai chính thức với khoảng 3,4 triệu tài khoản thanh toán mở bằng eKYC đang hoạt động và đến ngày 01/3/2022, đã có khoảng 1,3 triệu thẻ ngân hàng được mở bằng eKYC đang hoạt động. Công nghệ RPA được nhiều ngân hàng áp dụng thành công, giúp tăng đáng kể tốc độ và thời gian xử lý.
Thứ tư, ứng dụng khai thác, chia sẻ dữ liệu được chú trọng với 43,5% ngân hàng đã xây dựng Kho dữ liệu tập trung (Data warehouse), đặc biệt có 25,8% đã xây dựng các mô hình Hồ dữ liệu (Data lake) (Hình 6). Một số ngân hàng đã công bố cổng API để cho phép các bên thứ ba (như Fintech, thương mại điện tử, y tế, giáo dục, dịch vụ công...) kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu nhằm phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đổi mới sáng tạo như: Cổng Vietinbank iConnect triển khai từ năm 2017 đã có 116 đối tác kết nối sử dụng 148 dịch vụ với 12 triệu giao dịch đã được thực hiện; OCB triển khai Cổng Open Banking từ năm 2019 với hơn 30 API mở và tổ chức cuộc thi thử thách OCB Open API 2020...
Thứ năm, các mô hình, thương hiệu ngân hàng số của các ngân hàng truyền thống liên tục được ra mắt, cung cấp các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số đổi mới sáng tạo, thuận tiện, nhanh chóng cho khách hàng như: NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) triển khai thương hiệu CAKE trên nền tảng điện toán đám mây của Mambu, PVCombank hợp tác với Vemanti triển khai mô hình ngân hàng số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), NHTMCP Hàng Hải (MSB) triển khai thương hiệu ngân hàng số TNEX trên nền tảng AWS... Các mô hình ngân hàng số mới này cho phép ngân hàng triển khai sản phẩm, dịch vụ nhanh chóng, linh hoạt (Agile), giảm 80% thời gian đưa sản phẩm mới ra thị trường so với công nghệ các thế hệ trước.
3. Những thách thức đặt ra, định hướng thúc đẩy chuyển đổi số trong thời gian tới
Xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng đã phát triển mạnh, đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý, góp phần tiếp nối truyền thống phát triển mạnh mẽ của Ngành trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, thực tế cũng đặt ra nhiều thách thức lớn, đòi hỏi tập trung giải quyết, cụ thể như: (i) Sự đồng bộ và phù hợp của các quy định pháp lý hiện hành liên quan về giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chứng từ điện tử, việc định danh và xác thực khách hàng điện tử, việc chia sẻ dữ liệu và bảo mật thông tin khách hàng, quy định nghiệp vụ xử lý giao dịch trên nền tảng số...
(ii) Hạ tầng kỹ thuật của một số đơn vị trong và ngoài Ngành vẫn là những hệ thống cũ (Legacy system), chưa được nâng cấp để đảm bảo sự tương thích cho chuyển đổi số và việc thiếu hụt các tiêu chuẩn chung (như tiêu chuẩn dữ liệu, tiêu chuẩn API...) dẫn tới thách thức cho việc tích hợp và kết nối, liên thông giữa các đơn vị trong triển khai các sản phẩm dịch vụ số hóa; (iii) Xu hướng gia tăng hoạt động tội phạm, tấn công mạng, tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ và đảm bảo an ninh, an toàn bảo mật xuyên suốt trong quá trình cung ứng dịch vụ tới khách hàng; (iv) Người tiêu dùng trong CMCN 4.0 có yêu cầu ngày càng cao, khắt khe hơn đối với trải nghiệm sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp, tiện lợi, cá nhân hóa cao và khả năng tiếp cận mọi nơi, mọi lúc; (v) Việc thiếu hụt nhân sự trình độ cao cũng như cạnh tranh nhân sự trong tuyển dụng và sự cân bằng về hiệu quả trong đầu tư nguồn lực cho chuyển đổi số.
Trước những thách thức nêu trên và bám sát định hướng, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, phát huy những kết quả đã đạt được và tiếp tục tinh thần thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; ứng dụng công nghệ để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ theo hướng lấy khách hàng làm trọng tâm và nâng cao trải nghiệm cho khách hàng làm mục tiêu chính, trong thời gian tới, ngành Ngân hàng cần tập trung vào một số công việc sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, khung khổ pháp lý trong hoạt động ngân hàng thích ứng với cuộc CMCN 4.0, tạo thuận lợi và thúc đẩy các mô hình kinh doanh, quản trị điều hành trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng bứt phá, đổi mới, sáng tạo nhưng vẫn chú trọng tới công tác đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm hạn chế những rủi ro, thách thức từ bối cảnh CMCN 4.0; trong đó, trước mắt, tập trung vào một số nội dung sau: (i) Xây dựng và trình Chính phủ Nghị định thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về TTKDTM nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc phát triển thanh toán điện tử; (ii) Xây dựng và trình Chính phủ Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng; (iii) Tiếp tục rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy trình nghiệp vụ theo hướng ứng dụng công nghệ số; (iv) Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong triển khai chuyển đổi số và nghiên cứu đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung tại các văn bản pháp luật quan trọng tạo nền móng cho các hoạt động chuyển đổi số như: Luật Giao dịch điện tử, Nghị định về định danh và xác thực điện tử, Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân...
Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hạ tầng công nghệ phục vụ cho việc cung ứng các sản phẩm số; tăng cường tích hợp, kết nối với các bộ, ngành, lĩnh vực khác để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số; nâng cao chất lượng phục vụ và tăng tính tiện ích, trải nghiệm cho khách hàng. Trong đó, triển khai tích cực và hiệu quả Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia.
Thứ ba, ưu tiên đầu tư, ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ số vào hoạt động ngân hàng; ưu tiên phát triển ngân hàng theo mô hình ngân hàng số, trong đó lấy thanh toán số làm cửa ngõ để kết nối liền mạch với các dịch vụ ngân hàng khác như huy động, cho vay, đầu tư, bảo hiểm... và giao tiếp thuận tiện với các hệ sinh thái số bên ngoài nhằm cung ứng các sản phẩm, dịch vụ an toàn, tiện lợi, cá nhân hóa với chi phí hợp lý và sự tường minh.
Thứ tư, chú trọng công tác nhân sự, coi nguồn nhân lực ngân hàng có chất lượng là nhân tố quyết định thành công trong chuyển đổi số ngân hàng. Tăng cường công tác đào tạo, đào tạo lại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng, giúp người lao động ngành Ngân hàng được trang bị những kỹ năng, phát triển năng lực thích ứng với bối cảnh CMCN 4.0.
Thứ năm, tiếp tục tăng cường công tác truyền thông tuyên truyền, giáo dục tài chính, nâng cao nhận thức, hiểu biết người dân về ứng dụng kỹ thuật số và những lưu ý để phòng, tránh rủi ro khi thực hiện giao dịch trên môi trường điện tử.
1 Quyết định số 1977/QĐ-NHNN và Quyết định số 1978/QĐ-NHNN ngày 10/12/2021 của Thống đốc NHNN.
2 Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số được thành lập trên cơ sở kiện toàn Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech của NHNN thành lập năm 2017 và Ban Chỉ đạo xây dựng Chính phủ điện tử ngành Ngân hàng năm 2019.
3 Thông tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN hướng dẫn mở, sử dụng tài khoản thanh toán; Thông tư số 17/2021/TT-NHNN ngày 16/11/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2016/TT-NHNN về hoạt động thẻ ngân hàng.
4 Triển khai thí điểm sử dụng tài khoản viễn thông trong thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money) theo Quyết định số 316/QĐ-TTg, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an xây dựng Quy chế phối hợp giữa 03 Bộ (Quy chế số 01/QCPH-NHNN-BTTTT-BCA) trong công tác quản lý nhà nước đối với việc thực hiện thí điểm Mobile-Money.
5 Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/01/2022 của Thống đốc NHNN về việc đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng.
6 (1) Phí, lệ phí; (2) Thuế hộ gia đình, cá nhân; (3) Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; (4) Đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội; (5) Thanh toán tiền điện; (6) Tạm ứng án phí.
7 Tổng hợp báo cáo từ các ngân hàng cho thấy, đầu tư cho chuyển đổi số của 10 ngân hàng lớn nhất đạt khoảng 15.000 tỷ đồng mỗi năm; chi phí đầu tư nguồn lực hoạt động chuyển đổi số trung bình chiếm từ 20 - 30% tổng chi phí đầu tư hoạt động.
Phạm Tiến Dũng
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam