Ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore và liên hệ Việt Nam
23/08/2022 6.687 lượt xem
Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã trở thành cơ hội cho tất cả các ngành, nghề trong xã hội có điều kiện tận dụng và phát triển. Là thời đại của công nghệ số, nhiều lĩnh vực đã bắt đầu quá trình chuyển đổi, tức thực hiện quá trình thay đổi từ cách thức hoạt động truyền thống sang việc áp dụng các ứng dụng của khoa học, công nghệ để vận hành và thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp một cách tự động nhưng vẫn đạt hiệu quả. Trong lĩnh vực ngân hàng, sự chuyển đổi này đã mang lại nhiều ý nghĩa cho khách hàng, doanh nghiệp và có tác động tích cực đến nền kinh tế. Tuy nhiên, để việc chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng tiếp tục đạt được tính hiệu quả tối ưu thì việc tham khảo kinh nghiệm nước ngoài để tăng cường hoàn thiện vấn đề này là điều cần thiết. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung đề cập một số kinh nghiệm về ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore trên cơ sở so sánh, đối chiếu với quá trình chuyển đổi số của ngân hàng Việt Nam, rút ra một số đánh giá, đề xuất, kiến nghị. 
 
Từ khóa: Ngân hàng kỹ thuật số, chuyển đổi số, Singapore, Việt Nam.
 
DIGITAL BANKING IN SINGAPORE AND LESSONS LEARNT FOR VIETNAM
 
Abstract: The Industrial Revolution 4.0 has become an opportunity for all sectors in society to take advantage and develop. As the era of digital technology, many fields have started the transformation and implementing the process of changing from the traditional way of operating to the application of science and technology to operate and implement the activities of enterprises automatically but still effectively. For the banking sector, this transformation has brought many meanings to customers and businesses and had a positive impact on the economy. However, in order for digital transformation in banking activities to continue to achieve optimal efficiency, it is necessary to refer to learning from foreign experiences. From there, the article focuses on some experiences in digital banking in Singapore on the basis of comparing with the digital transformation process of Vietnamese banks, thereby suggesting some proposals.
 
Keywords: Digital banking, digital transformation, Singapore, Vietnam.
 
1. Khái quát về ngân hàng kỹ thuật số 
 
Ngân hàng kỹ thuật số (Digital Banking) được hiểu là sự tự động hóa các dịch vụ ngân hàng truyền thống, nó cho phép khách hàng được tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng thông qua các nền tảng điện tử/trực tuyến1. Nói một cách đơn giản, bằng việc số hóa tất cả các hoạt động của ngân hàng, thay thế cách thức hoạt động truyền thống trước đây bằng việc chuyển đổi số cách vận hành cho hệ thống ngân hàng. Hiện nay, việc các ngân hàng dần chuyển sang mô hình kỹ thuật số đã trở thành xu thế tất yếu xuất phát từ những lợi ích mà nó mang lại, cụ thể:
 
Thứ nhất, ngân hàng kỹ thuật số cho phép khách hàng thực hiện các dịch vụ ngân hàng một cách thuận lợi và dễ dàng. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau: 
 
Lợi ích từ khả năng di chuyển: Khách hàng không cần phải đến trực tiếp các điểm giao dịch, xếp hàng chờ đợi, bởi nhờ có công nghệ và các nền tảng trực tuyến mà ngân hàng đã tích hợp thì khách hàng có thể thực hiện các giao dịch tại nhà hoặc bất cứ đâu mà họ muốn. 
 
Tiết kiệm thời gian: Chính vì địa điểm linh hoạt, phù hợp với khả năng di chuyển của khách hàng cũng như không lệ thuộc có khung giờ hành chính như ngân hàng truyền thống nên ngân hàng kỹ thuật số có thể hoạt động 24/7, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, vừa giúp họ tiết kiệm được thời gian cũng như lựa chọn được khung thời gian giao dịch phù hợp khi không thể tham gia giao dịch vào các khung giờ hành chính. 
 
Thủ tục đơn giản: Có thể thấy rằng, tại các ngân hàng truyền thống, thủ tục và các loại giấy tờ liên quan được cho là phức tạp và việc hoàn thành chúng là cả một quá trình. Nhưng đối với ngân hàng kỹ thuật số, thủ tục trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Khách hàng chỉ cần một chiếc Smartphone kết nối mạng thì sẽ đều có thể tham gia và thực hiện được giao dịch với ngân hàng bằng việc tải ứng dụng (App) và đăng nhập tài khoản (trước đó ngân hàng sẽ cung cấp cho mỗi khách hàng một tài khoản riêng).
 
Ngân hàng kỹ thuật số khiến cho hoạt động thanh toán và mua sắm trực tuyến của khách hàng trở nên tiện lợi: Trong một tài khoản hay ứng dụng mà ngân hàng tạo ra thì thường đã tích hợp sẵn tiện ích thanh toán tự động cho các hóa đơn điện tử như chi phí gas, điện nước, điện thoại, hàng hóa, dịch vụ mua sắm... Nhờ vậy, khách hàng không nhất thiết phải sử dụng tiền mặt để chi trả mà chỉ cần sử dụng dịch vụ chuyển tiền tự động qua thẻ là có thể thanh toán được. Điều này khiến cho việc thanh toán và mua sắm trở nên đơn giản cũng như tăng khả năng thực hiện các giao dịch mua sắm trực tuyến.
 
Thứ hai, ngân hàng kỹ thuật số mang lại nhiều cơ hội và tiềm năng cho các ngân hàng trên thị trường tài chính tiền tệ:
 
Tiết kiệm chi phí: Việc áp dụng các nền tảng kỹ thuật số trong hoạt động ngân hàng sẽ cho phép các ngân hàng giảm được chi phí liên quan đến thuê nguồn nhân lực2. Tuy nhiên, đây cũng là một nhược điểm của việc triển khai ngân hàng số khi các ngân hàng phải bỏ ra một số vốn không hề nhỏ để đầu tư công nghệ, trang thiết bị để vận hành cả một hệ thống ngân hàng. Điều này vô hình trung tạo ra áp lực cho các ngân hàng trong giai đoạn đầu cũng như chi phí duy trì quá trình hoạt động bình thường của hệ thống số này. Nhưng không thể phủ nhận, một khi ngân hàng đã thành công bước đầu trong việc xây dựng hệ thống số thì ngân hàng sẽ nhanh chóng thu lại được lợi nhuận khổng lồ.
 
Tăng khả năng cạnh tranh: Chính vì những lợi ích mà việc số hóa các dịch vụ tài chính mang lại, các ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ có nhiều cơ hội để cạnh tranh với nhau. Để thu hút được khách hàng, các ngân hàng không thể giữ mãi cách thức vận hành truyền thống mà phải nhanh chóng thay đổi và chuyển sang mô hình ngân hàng kỹ thuật số. Sau khi đã số hóa bước đầu, ngân hàng phải tiếp tục hoàn thiện và phát triển, thích ứng với các biến đổi không ngừng của thị trường số, cải thiện cách thức hoạt động của các giao dịch. Bằng sự cạnh tranh này, thị trường tài chính và các hoạt động ngân hàng sẽ trở nên sôi động hơn. 
 
Tạo điều kiện gia nhập với thị trường tiền tệ thế giới: Hiện nay, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa quốc tế đã trở nên phổ biến, trở thành động lực để phát triển nền kinh tế. Trong một giao dịch mua bán hàng hóa thì thanh toán được xem là điều khoản quan trọng và cơ bản mà cả bên mua và bên bán quan tâm. Vì vậy, thanh toán qua ngân hàng là hình thức được ưu tiên lựa chọn vì tính an toàn được bảo đảm. Cho nên, khi ngân hàng chuyển đổi số, việc thanh toán sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn cho ngân hàng trong việc xác minh và thực hiện nghiệp vụ này. 

2. Ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore
 
Ngân hàng kỹ thuật số là bằng việc ứng dụng các nền tảng công nghệ vào quá trình thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng, nói cách khác, ngân hàng kỹ thuật số cung cấp các dịch vụ ngân hàng tương tự như các ngân hàng truyền thống nhưng nó hoạt động mà không có cơ sở hạ tầng vật lý, tức là hoạt động qua nền tảng số. Đây được xem là xu thế tất yếu của hệ thống ngân hàng của các quốc gia, trong đó có Singapore. Vào tháng 12/2020, Cơ quan Tiền tệ Singapore (Monetary Authority of Singapore - MAS) đã trao giấy phép ngân hàng kỹ thuật số cho bốn đơn vị gồm một tập đoàn của Singapore là Sintel và Grab; Sea Limited; Ant Financial; một liên minh của Greenland Financial Holdings Group Co.Ltd, Linklogis Hong Kong Ltd và Beijing Co-operative Equity Investment Fund Management Co.Ltd3. Giấy phép ngân hàng kỹ thuật số có ý nghĩa trong việc giúp các dịch vụ tài chính dễ tiếp cận hơn đối với các phân khúc chưa được phục vụ như các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo quy định của nước này, giấy phép ngân hàng kỹ thuật số gồm hai loại là DFB (giấy phép ngân hàng kỹ thuật số đầy đủ)4 và DWB (giấy phép ngân hàng bán buôn kỹ thuật số)5. Có thể thấy rằng, bản chất ban đầu là các doanh nghiệp không hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, do vậy, khi các doanh nghiệp mong muốn thực hiện các nghiệp vụ dưới dạng số hóa thì doanh nghiệp phải tiến hành xin giấy phép ngân hàng kỹ thuật số. Để được cấp giấy phép ngân hàng kỹ thuật số thì đơn vị xin cấp phải đáp ứng các điều kiện cơ bản sau6:
 
Thứ nhất, ít nhất một pháp nhân trong nhóm ứng viên có từ 03 năm trở lên trong việc điều hành một doanh nghiệp hiện có trong lĩnh vực công nghệ hoặc thương mại điện tử. Ở đây, điều kiện về hiểu biết công nghệ số được xem là tiêu chí bắt buộc đầu tiên để một doanh nghiệp thực hiện ngân hàng kỹ thuật số, có thể vì xuất phát từ chính tính chất quan trọng của các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nên khi chúng được vận hành với một cách thức khác, cách thức số, so với cách thức truyền thống, thì MAS đã đặt ra điều kiện này với chủ đích là nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng và tạo niềm tin nơi khách hàng. 
 
Thứ hai, chứng minh khả năng đáp ứng các điều kiện về vốn. Đối với DFB, vốn thanh toán tối thiểu ban đầu là 15 triệu đô la Singapore trước khi tăng dần lên 1,5 tỷ đô la Singapore; còn với DWB, số vốn đã trả là 100 triệu đô la Singapore. Ở đây, điều kiện về vốn được xem là yếu tố quan trọng bởi nếu không đáp ứng, thì doanh nghiệp không thể thực hiện chuyển đổi số bởi lĩnh vực ngân hàng mang tính chất rủi ro cao, nếu không đáp ứng tiêu chí về nguồn vốn thì doanh nghiệp không thể duy trì được quá trình vận hành liên tục, dòng vốn không ổn định, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng và sự bình thường trong hoạt động ngân hàng.
 
Thứ ba, tính bền vững trong mô hình kinh doanh của ngân hàng kỹ thuật số bằng cách đưa ra các dự báo tài chính 05 năm của ngân hàng được đề xuất và nó phải theo hướng có lợi nhuận. Dự báo này phải được xem xét bởi một chuyên gia độc lập với ngân hàng. Để đảm tính chính xác, sự trung thực thì việc đánh giá bởi một chuyên gia bên ngoài là điều cần thiết. 
 
Đối tượng của đơn xin cấp phép hoạt động ngân hàng kỹ thuật số là các công ty có trụ sở chính tại Singapore và do người có quốc tịch là Singapore kiểm soát. Tiêu chí kiểm soát ở đây được xác định dựa trên yếu tố phần trăm cổ phần mà người này nắm giữ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nước ngoài vẫn có thể tham gia hoạt động ngân hàng kỹ thuật số với điều kiện là thành lập một liên doanh với một công ty trong nước và cũng phải đáp ứng yêu cầu về trụ sở chính và quyền kiểm soát như đã đề cập. Một vấn đề đặt ra là sau khi được cấp giấy phép, các ngân hàng kỹ thuật số sẽ không hoạt động ngay mà MAS sẽ chia thành hai giai đoạn với mục đích là giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng số thời điểm ban đầu, cụ thể7:
 
Giai đoạn đầu: Ngân hàng kỹ thuật số sẽ bị hạn chế. Tại thời điểm bắt đầu, tức là 02 năm đầu, ngân hàng kỹ thuật số sẽ phải tuân thủ các hạn chế sau:
 
- Giới hạn về tiền gửi: Tiền gửi tổng hợp sẽ được giới hạn ở mức 50 triệu đô la Singapore và tiền gửi của cá nhân sẽ được giới hạn ở mức 75 triệu đô la Singapore. Ngoài ra, ngân hàng kỹ thuật số chỉ có thể nhận tiền gửi từ một nhóm nhỏ như đối tác kinh doanh, nhân viên hoặc các bên có liên quan. 
 
- Hạn chế kinh doanh: Ngân hàng số chỉ có thể cung cấp các sản phẩm tín dụng và đầu tư đơn giản, điều này cũng đồng nghĩa rằng, ngân hàng không được cung cấp các sản phẩm đầu tư phức tạp và mang tính chất rủi ro cao. Bên cạnh đó, ngân hàng kỹ thuật số cũng sẽ không được tham gia vào các hoạt động đầu tư như trong công cụ phái sinh, tự do kinh doanh và không được thiết lập hoạt động tại hai thị trường nước ngoài trở lên. MAS ngoài việc giới hạn số tiền gửi của cá nhân, tổ chức thì còn chi phối cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tức ngân hàng kỹ thuật số chỉ được phép kinh doanh trong phạm vi cho phép và có những hoạt động không được thực hiện. 
 
- Vốn trả trước tối thiểu: Thấp hơn xuất phát từ phạm vi hoạt động hạn chế, cụ thể là ở mức 15 triệu đô la Singapore. 
 
Tất cả các hạn chế trên xuất phát từ mục đích giúp cho ngân hàng kỹ thuật số trong giai đoạn đầu có thể làm quen và thích nghi với cách thức hoạt động số, nhận biết cơ chế vận hành cũng như đánh giá tình hình, hiệu quả hoạt động của ngân hàng, từ đó, có hướng điều chỉnh phù hợp. Một khi ngân hàng kỹ thuật số đã hoàn thành giai đoạn đầu này thì các hạn chế từ MAS về tiền gửi và tự do kinh doanh sẽ được nới lỏng, số vốn trả góp tối thiểu sẽ được nâng lên tương ứng với hồ sơ rủi ro. 
 
Giai đoạn hai: Là giai đoạn chuyển tiếp của giai đoạn đầu, lúc này, ngân hàng kỹ thuật số sẽ được hoạt động đầy đủ: (i) Tất cả các giới hạn trước đó mà ngân hàng kỹ thuật số đã đáp ứng đủ thì được đánh giá là ngân hàng đã kiểm soát được rủi ro, không gây ra lo ngại đáng kể nào; (ii) Khi đánh giá mức độ sẵn sàng của ngân hàng để trở thành một ngân hàng kỹ thuật số “đầy đủ”, MAS sẽ xem xét đến các yếu tố như hiệu quả kinh doanh, tài chính, chất lượng các khoản vay, chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách hàng; khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro, từ đó, đưa ra kết luận; (iii) MAS sẽ không quy định về khoảng thời gian mà ngân hàng kỹ thuật số từ hạn chế giai đoạn đầu sang ngân hàng kỹ thuật số “đầy đủ” nhưng điều này không đồng nghĩa rằng việc chuyển tiếp giai đoạn được tùy tiện, có nghĩa là nó chỉ được chuyển khi nó đáp ứng đủ các điều kiện đã được quy định. 
 
Có thể thấy rằng, để trở thành ngân hàng kỹ thuật số là điều không dễ dàng, bởi nó phải vừa đáp ứng các điều kiện do MAS đặt ra, vừa phải đảm bảo quy định về chuyển đổi từ ngân hàng truyền thống sang ngân hàng kỹ thuật số. Có nghĩa rằng, nếu ngân hàng không đáp ứng một trong các điều kiện đã đặt ra, hoặc giai đoạn đầu của ngân hàng kỹ thuật số hoạt động không hiệu quả, tiềm ẩn nhiều rủi ro thì sẽ không được phép thực hiện việc chuyển đổi này. Các quy định này bảo vệ tối đa quyền lợi của khách hàng cũng như duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Vì khi một ngân hàng chuyển đổi số thất bại sẽ kéo theo nhiều hệ lụy, trong đó, sự bất ổn trong nền kinh tế, niềm tin của khách hàng bị ảnh hưởng. Do vậy, chuyển đổi số trong ngân hàng mặc dù mang lại hiệu quả vô cùng lớn nhưng việc thực hiện lại rất phức tạp.  
 
3. Liên hệ và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
 
Chuyển đổi số được xem là xu hướng tất yếu hiện nay của các ngân hàng, phù hợp với thời đại và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hầu hết, các ngân hàng lớn đã và đang trong quá trình chuyển đổi kỹ thuật số với nhiều mô hình khác nhau, cụ thể8:
 
(i) Một số ngân hàng thương mại nhỏ đầu tư thẳng vào công nghệ số như OCB, TPBank; trong đó, tất cả các dịch vụ của ngân hàng được tích hợp trên một nền tảng số duy nhất, giúp khách hàng có thể sử dụng tất cả các dịch vụ mà không cần đến trực tiếp các điểm giao dịch. 
 
(ii) Một số ngân hàng có xu hướng thiết lập một mảng kinh doanh mới hoặc thành lập ngân hàng số thuần túy. Tức là nó được xem là một mảng kinh doanh riêng hướng đến phân khúc khách hàng mới, độc lập với hoạt động kinh doanh truyền thống như Timo của VPBank, LiveBank của TPBank...
 
(iii) Một số ngân hàng thương mại tập trung chuyển đổi số các hoạt động kinh doanh truyền thống kết hợp với việc tạo ra những sản phẩm, kênh dịch vụ mới cho khách hàng, đồng thời khai thác những mảng kinh doanh mới trên cơ sở kết hợp với các ứng dụng Fintech như Vietcombank, VietinBank, BIDV, ACB, MB...
 
Hàng loạt các ngân hàng hiện nay đã thực hiện việc chuyển đổi số đạt được nhiều thành công. Chẳng hạn, TPBank đã triển khai mô hình ngân hàng LiveBank tự động hoàn toàn giúp khách hàng chỉ mất 3s để nhận diện và 30s xử lý giao dịch; Techcombank chú trọng phát triển trải nghiệm khách hàng trên Ebanking với mục đích giảm thời gian và chi phí giao dịch cho khách hàng; MB đã tích hợp tất cả các giao dịch ngân hàng và quản lý tài chính hoàn toàn miễn phí trên app MBBank và BizBank; Nam A Bank đã ra mắt hệ sinh thái số OneBank...9 Hiện nay, ngân hàng đã chú trọng phát triển công nghệ kỹ thuật số vào hệ thống ngân hàng. So sánh với cách thức chuyển đổi số tại Singapore thì có thể thấy rằng, chuyển đổi số của các ngân hàng tại Việt Nam có sự khác biệt lớn:
 
Thứ nhất, ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore không đương nhiên được thực hiện, tức là trước khi chuyển đổi số, nó phải đáp ứng các điều kiện do MAS quy định. Còn tại Việt Nam, bất kể ngân hàng nào thực hiện nghiệp vụ ngân hàng và có nhu cầu thì cũng đều có thể thực hiện chuyển đổi số. Cũng như đã đề cập, có nhiều mô hình ngân hàng số ở nước ta, hoặc chuyển đổi toàn bộ hệ thống hoặc kết hợp cả cách thức của ngân hàng số và cách thức truyền thống. 
 
Thứ hai, ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore khi đã đáp ứng điều kiện thì không ngay lập tức chuyển đổi số hoàn toàn mà phải thực hiện theo 02 giai đoạn. Đối với Việt Nam, giai đoạn thực hiện chuyển đổi số sẽ phụ thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng cũng như chi phí đầu tư hệ thống nền tảng kỹ thuật số, đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn. 
 
So sánh quy định của hai quốc gia thì có thể thấy rằng, ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore chú trọng vào nền tảng của việc xây dựng và vận hành công nghệ số trong ngân hàng, tức là ưu tiên sự an toàn, hạn chế rủi ro xảy ra. Còn quá trình chuyển đổi số tại các ngân hàng của Việt Nam có phần chú trọng hơn về tính thích nghi thời đại, đáp ứng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với hướng đi chung của nền kinh tế. 
 
Từ những so sánh và phân tích trên, một số đề xuất được đưa ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam như sau:
 
Thứ nhất, chú trọng vào xây dựng chiến lược. Các ngân hàng khi thực hiện chuyển đổi số cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để đảm bảo cho việc chuyển đổi số thành công, không được đi tắt, đón đầu, bởi một khi xảy ra bất kỳ một sự cố nào, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, thì nó không chỉ ảnh hưởng đến chính hoạt động bình thường của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế. 
 
Thứ hai, ưu tiên đảm bảo sự an toàn cho khách hàng. Chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng như đã đề cập là quá trình thay đổi cách thức hoạt động từ truyền thống sang áp dụng các công nghệ kỹ thuật số. Việc chuyển đổi này mặc dù mang lại nhiều lợi ích nhưng vẫn sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là sự an toàn và bảo mật thông tin khách hàng. Không chỉ riêng ngân hàng, mà tất cả các lĩnh vực trong xã hội thực hiện chuyển đổi số, lo ngại hàng đầu chính là sự an toàn của thông tin cá nhân khách hàng, bởi hiện nay, những thông tin rất có giá trị, trở thành đối tượng của nhiều cuộc tấn công mạng, đánh cắp dữ liệu. Do vậy, ngân hàng cần có chính sách, xây dựng hệ thống bảo mật để đảm bảo rằng thông tin khách hàng, tài liệu bí mật luôn được an toàn.
 
Thứ ba, tuân thủ khung pháp lý. Hiện nay, lĩnh vực ngân hàng đã có khung pháp lý điều chỉnh khá hoàn thiện, góp phần quản lý và kiểm soát hoạt động ngân hàng trở nên an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, ngân hàng số lại là một khía cạnh mới, nhiều vấn đề khác dần phát sinh và các văn bản pháp luật hiện hành chưa có nhiều sự điều chỉnh. Đây được xem là kẽ hở để nhiều đối tượng phạm tội lợi dụng để thực hiện hành vi tội phạm. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý chưa thống nhất sẽ trở thành rào cản khiến cho hoạt động chuyển đổi số trở nên khó khăn. Do vậy, việc ban hành các văn bản pháp luật trong thời điểm hiện nay là điều vô cùng cần thiết. 
 
Như vậy, chuyển đổi số hiện nay là xu thế tất yếu của ngành Ngân hàng tại Việt Nam. So sánh với các quy định của ngân hàng kỹ thuật số tại Singapore, Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm từ cơ chế vận hành và quản lý của họ để từ đó, đánh giá thực tiễn chuyển đổi số tại các ngân hàng trong nước để có hướng đi phù hợp hơn. Chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng đang dần thay đổi cuộc sống con người, thay đổi cách vận hành và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, sự chuyển đổi này đang dần thích ứng với bước chuyển mình của thời đại số.
 
1 Tavaga (2021), “Digital Banking and its Foray into the banking sector”, truy cập ngày 06/5/2022, <https://tavaga.com/blog/digital-banking-meaning-benifits-products-types-disadvantages-future/>
2 NCR Corporation (2020), “Key benefits digital banking brings to your finacial institution”, truy cập ngày 06/5/2022, <https://www.ncr.com/blogs/banking/key-benefits-digital-banking-brings-to-your-financial-institution>
3 Ayman Falak Medina (2021), “Singapore Issues First Digital Banking Licenses: Potential for Regional Expansion”, truy cập ngày 07/5/2022, <https://www.aseanbriefing.com/news/singapore- issues-first-digital-banking-licenses-potential-for-regional-expansion/>
4 Giấy phép DFB cho phép một tổ chức cung cấp các hoạt động gửi tiền, cho vay, và các khoản đầu tư thông qua nền tảng trực tuyến của minh.
5 Ayman Falak Medina (2021), “Singapore Issues First Digital Banking Licenses: Potential for Regional Expansion”, truy cập ngày 07/5/2022, <https://www.aseanbriefing.com/news/singapore- issues-first-digital-banking-licenses-potential-for-regional-expansion/>
6 “Eligibility criteria and  requirements for digital banks”, Monetary Authority of Singapore, tr. 1.
7 “Dgital full bank framework”, Monetary Authority of Singapore, Annex A, tr. 2.
8 Nguyễn Văn Hiệu (2021), “Phát triển ngân hàng số ở Việt Nam - Bức tranh hiện tại và triển vọng”, Tạp chí điện tử Ngân hàng, truy cập ngày 07/5/2022, <https://tapchinganhang.gov.vn/phat-trien-ngan-hang-so-o-viet-nam-buc-tranh-hien-tai-va-trien-vong.htm >
9 Minh Thành (2022), “Năm 2021, ngân hàng nào thành công nhất trong chuyển đổi số”, Báo Tuổi trẻ, truy cập ngày 07/5/2022, <https://tuoitre.vn/nam-2021-ngan-hang-nao-thanh-cong-nhat-trong-chuyen-doi-so-20211231211757901.htm>

Tài liệu tham khảo:
 
1. Ayman Falak Medina (2021), “Singapore Issues First Digital Banking Licenses: Potential for Regional Expansion”, truy cập ngày 07/5/2022, <https://www.aseanbriefing.com/news/singapore-issues-first-digital-banking-licenses-potential-for-regional-expansion/>
2. Ayman Falak Medina (2021), “Singapore Issues First Digital Banking Licenses: Potential for Regional Expansion”, truy cập ngày 07/5/2022, <https://www.aseanbriefing.com/news/singapore-issues-first-digital-banking-licenses-potential-for-regional-expansion/>
3. Nguyễn Văn Hiệu (2021), “Phát triển ngân hàng số ở Việt Nam - Bức tranh hiện tại và triển vọng”, Tạp chí điện tử Ngân hàng, truy cập ngày 07/5/2022, <https://tapchinganhang.gov.vn/phat-trien-ngan-hang-so-o-viet-nam-buc-tranh-hien-tai-va-trien-vong.htm >
4. Hà My (2021), “Phiên họp thứ nhất Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số”, Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, truy cập ngày 08/5/2022, <https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/
5. NCR Corporation (2020), “Key benefits digital banking brings to your finacial institution”, truy cập ngày 06/5/2022, <https://www.ncr.com/blogs/banking/key-benefits-digital-banking-brings-to-your-financial-institution>
6. Tavaga (2021), “Digital Banking and its Foray into the banking sector”, truy cập ngày 06/5/2022, <https://tavaga.com/blog/digital-banking-meaning-benifits-products-types-disadvantages-future/>
7. Minh Thành (2022), “Năm 2021, ngân hàng nào thành công nhất trong chuyển đổi số”, Báo Tuổi trẻ, truy cập ngày 07/5/2022, <https://tuoitre.vn/nam-2021-ngan-hang-nao-thanh-cong-nhat-trong-chuyen-doi-so-20211231211757901.htm>

ThS. Phạm Thị Hồng Tâm - Khoa Luật Kinh tế, Đại học Phan Thiết
Nguyễn Phạm Thanh Hoa - Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
Hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
08/07/2024 1.298 lượt xem
Bài viết tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng của hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, trình bày những khó khăn và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
Kinh nghiệm một số quốc gia về cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống
03/07/2024 1.834 lượt xem
Mục tiêu của bài viết nhằm xem xét cơ chế giao dịch và hoạt động công bố thông tin trong giao dịch bán khống thông qua những quy định hiện hành tại một số quốc gia; qua đó, đưa ra các hàm ý đối với Việt Nam.
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
Thực trạng phát triển sản phẩm và dịch vụ tài chính số tại các quốc gia châu Á
19/06/2024 2.462 lượt xem
Dựa trên dữ liệu được thu thập từ các báo cáo về tài chính toàn diện của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận các dịch vụ tài chính số tại 19 quốc gia châu Á từ phía chủ thể cung cấp và chủ thể tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư tiền mã hóa của thế hệ Gen Z trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
06/06/2024 3.322 lượt xem
Trong kỉ nguyên của công nghệ số, sự xuất hiện của một hình thức tiền tệ số hay tiền mã hóa là hoàn toàn cần thiết để đáp ứng sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ (Milutinovic, 2018). Tiền mã hóa sử dụng công nghệ mã hóa và chuỗi khối (Blockchain) để bảo đảm tính an toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính.
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
Các yếu tố mang lại thành công của một số ngân hàng phát triển nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam
24/05/2024 4.192 lượt xem
Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) là những định chế tài chính phát triển lớn, thành công trên thế giới...
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
Quốc tế hóa Nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN
20/05/2024 4.291 lượt xem
Đi đôi với phát triển kinh tế, Trung Quốc dần hình thành và triển khai chiến lược bài bản xây dựng và củng cố sức mạnh tài chính - tiền tệ với trọng tâm là phát triển CNY trở thành đồng tiền quốc tế...
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia - Kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
16/05/2024 5.863 lượt xem
Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới.
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
Tác động của thực thi ESG đến hệ thống ngân hàng: Góc nhìn từ Việt Nam và tham chiếu thế giới
08/05/2024 4.932 lượt xem
Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã gây rất nhiều khó khăn, tổn thất về người, kinh tế cho các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, công bố các chỉ tiêu ESG (Enviromental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong nhiều năm qua luôn thu hút được sự đồng hành của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 5.722 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 7.401 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 9.041 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 27.717 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 10.151 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 14.753 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 10.281 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?