Khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
26/09/2019 16.556 lượt xem
Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường luôn gắn liền với phát triển khu vực kinh tế tư nhân thay vì chỉ tập trung vào khu vực kinh tế Nhà nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật phổ quát này và thực tế khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam kể từ khởi đầu công cuộc Đổi mới đến nay.
 
Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân nước ta vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vai trò vốn có do bị hạn chế bởi hàng loạt rào cản chủ quan lẫn khách quan mà trước hết là rào cản về tư duy, về quan điểm quản lý phát triển, về khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách có liên quan và về nguồn lực cho khu vực kinh tế đặc biệt quan trọng này. Chính vì vậy, vấn đề then chốt là tiếp tục đổi mới tư duy, quan điểm quản lý phát triển đồng thời cải cách pháp luật, cơ chế chính sách và phân bổ sử dụng các nguồn lực của xã hội nhằm đảm bảo khu vực kinh tế tư nhân được hoạt động trong môi trường bình đẳng, phát huy tốt nhất tính năng động, sáng tạo, vận động theo đúng các quy luật của thị trường.

Khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng 
trong phát triển kinh tế - xã hội  của Việt Nam
Phát triển kinh tế tư nhân là tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng là yếu tố có tính quy luật. Bên cạnh việc khẳng định vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới, vấn đề quan trọng hơn là xác lập vai trò đó một cách đúng đắn, hợp lý, đồng thời có giải pháp để kinh tế tư nhân phát huy cao độ những ưu điểm, hạn chế, khắc phục những nhược điểm, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
 
Để đơn giản hóa, chúng ta coi khu vực kinh tế tư nhân đồng nghĩa với khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nói cách khác, khu vực kinh tế tư nhân là một nửa của nền kinh tế quốc gia và nửa kia chính là khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể (dưới dây gọi chung là khu vực kinh tế nhà nước). Chính vì vậy, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trước hết được quy định bởi bản thân khu vực kinh tế đó, đồng thời liên hệ biện chứng với vai trò của khu vực kinh tế nhà nước.
 
Trước hết cần khẳng định, kinh tế tư nhân ra đời và phát triển từ trước khi xuất hiện Nhà nước và kinh tế nhà nước. Trong các phương thức sản xuất dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản, chính kinh tế tư nhân chiếm vai trò “thống soái”, quyết định sự vận hành của toàn bộ nền kinh tế, sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng sản xuất, tạo ra tuyệt đại bộ phận sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cho xã hội. Cho đến trước cuộc Đại suy thoái kinh tế 1929 - 1933, khu vực kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò rất khiêm tốn với quy mô nhỏ hơn nhiều lần so với khu vực kinh tế tư nhân. Thông thường, kinh tế nhà nước phát triển dựa trên độc quyền nhà nước đối với một số ngành nghề liên quan tới chính trị, an ninh quốc phòng như khai thác khoáng sản chiến lược, đúc tiền, chế tạo vũ khí,... và thu thuế để phục vụ cho hoạt động của bộ máy cầm quyền cũng như lực lượng vũ trang. Chỉ sau Đại khủng hoảng 1929-1933, đặc biệt là sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ 2, năm 1945, lịch sử kinh tế của loài người lần đầu tiên được chứng kiến sự lớn mạnh bất ngờ của khu vực kinh tế nhà nước theo hai dòng chảy chủ đạo: 
 
(1) Khu vực kinh tế nhà nước mở rộng đi đôi với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế nhà nước trở thành cơ sở vật chất cho sự tăng cường can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm khắc phục cái gọi là “thất bại thị trường”. Cha đẻ của học thuyết này chính là nhà kinh tế kiêm nhà quản lý nổi tiếng người Anh J.M.Keynes. Biểu hiện rõ ràng nhất của việc mở rộng kinh tế nhà nước là quy mô ngân sách nhà nước tăng vọt, thậm chí lên tới 50 - 60% GDP ở một số nước, và xuất hiện những tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước với quy mô lớn, hoạt động trong nhiều lĩnh vực then chốt, trong nhiều trường hợp chính những tập đoàn kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện thành công công nghiệp hóa ở một số nước. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân không những không bị chèn ép mà còn phát triển rất mạnh, kể cả những tập đoàn kinh tế lớn cũng như rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, nhận thức về kinh tế nhà nước có sự thay đổi căn bản để phù hợp với những diễn biến kinh tế mới trên thị trường quốc tế, đặc biệt là diễn biến giá dầu lửa, hệ thống tỷ giá hối đoái và mức độ cạnh tranh trên thị trường thương mại quốc tế. Theo đó, kinh tế nhà nước có xu hướng thu hẹp để nhường chỗ cho khu vực tư nhân phát triển mạnh hơn thông qua chương trình tư hữu hóa các tập đoàn kinh tế nhà nước, đồng thời nhà nước tập trung vào điều tiết vĩ mô nền kinh tế hơn là trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế. Chính nhờ chủ trương chuyển sang đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân đó mà các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đã thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng và tiếp tục tăng trưởng. Hiện nay, trên thế giới đã có những tập đoàn kinh tế tư nhân với quy mô gấp vài lần GDP của nhiều quốc gia khác, chẳng hạn năm 2017, ICBC có mức vốn hóa thị trường lên tới gần 230 tỷ USD, con số tương tự của China Construction Bank là hơn 200 tỷ USD, của Berkshire Hathaway Inc. tới gần 410 tỷ USD, JP Morgan Chase là gần 307 tỷ USD, Wells Fargo là gần 275 tỷ USD, Apple là 752 tỷ USD, Exxon Mobil là hơn 343 tỷ USD, Microsoft là hơn 507 tỷ USD, Alphabet là 579,5 tỷ USD, của General Electronic là hơn 261 tỷ USD[1],... Thống kê toàn cầu giai đoạn 1986 - 1991 cho thấy, DNNN chiếm 14% GDP ở các nước có thu nhập thấp, 9%GDP ở các nước có thu nhập trung bình và chỉ có 8% GDP ở các nước có thu nhập cao [2].
 
(2) Khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể thay thế hoàn toàn khu vực tư nhân. Xu hướng này diễn ra ở các nước phủ nhận sự phát triển của kinh tế thị trường. Theo đó chỉ tồn tại hai loại hình chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân trở thành mục tiêu phải bị loại bỏ. Cơ chế thị trường bị thay thế bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Chính các DNNN, giữ vai trò thống trị tuyệt đối trong nền kinh tế, hoạt động không hiệu quả và không chuyển biến phù hợp với diễn biến kinh tế thế giới là nguyên nhân vật chất trực tiếp làm cho hệ thống kinh tế XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ gần như hoàn toàn của kinh tế nhà nước thông qua "liệu pháp sốc". Chỉ có một số nước, điển hình là Trung Quốc và Việt Nam đã kịp thời thay đổi nên vẫn duy trì được khu vực kinh tế nhà nước ở mức cần thiết, đồng thời, đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân. 
 
Đến những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, quan niệm về vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước tiếp tục được củng cố và hoàn thiện với quan niệm phổ biến cho rằng: “Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế và xã hội, không phải với tư cách là một người trực tiếp tạo ra sự tăng trưởng, mà là một đối tác, là chất xúc tác và là người tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng đó”[3]. Năm nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước là: (1) thiết lập một cơ sở pháp luật; (2) duy trì một môi trường chính sách không lệch lạc, kể cả sự ổn định kinh tế vĩ mô; (3) đầu tư vào các dịch vụ xã hội cơ bản và cơ sở hạ tầng cơ bản; (4) bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương; (5) bảo vệ môi trường [4]. Hai chức năng cơ bản nhất của Nhà nước là giải quyết thất bại thị trường và cải thiện sự công bằng, theo đó Nhà nước thực hiện phối hợp hoạt động tư nhân và phân phối lại [5]. Với những quan điểm như trên, vai trò của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh tế - xã hội là đặc biệt quan trọng.
 
Nhiều người cho rằng, một nền kinh tế thị trường hoạt động tốt phải có 5 đặc điểm sau: (1) Phân phối các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất; (2) Tạo ra những nguồn lực mới thông qua việc đổi mới sản phẩm và đổi mới quá trình xử lý; (3) Thích nghi nhanh chóng và có hiệu quả với những hoàn cảnh luôn biến đổi; (4) Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và tránh được những trục trặc như tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát cao; (5) Tạo ra hiệu quả xã hội mong muốn, tránh phân hóa giàu nghèo quá mức.
Nếu 2 đặc điểm cuối quy định vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước thì vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện rõ nhất trong 3 đặc điểm đầu tiên vì chính kinh tế tư nhân là bộ phận tiêu biểu nhất của nền kinh tế thị trường và phù hợp nhất với các quy luật kinh tế thị trường. Động cơ của kinh tế thị trường là lợi nhuận và không ở khu vực kinh tế nào thể hiện “khát khao lợi nhuận” như khu vực kinh tế tư nhân. Đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu đối với khu vực kinh tế nhà nước vừa không hợp lý vừa ít tính khả thi. Nhà kinh tế chuyển đổi nổi tiếng J.Kornai đã nói: “Người cai quản, dùng tiền nhà nước và khi lỗ thì nhà nước chịu, thì không phải là nhà kinh doanh. Người và chỉ có người, mà bản thân phải gánh chịu tai họa nghiêm trọng về mặt vật chất khi làm ăn thua lỗ mới gọi là nhà kinh doanh”[6]. 
 
Trong quá trình vận động theo các quy luật kinh tế thị trường, khu vực kinh tế tư nhân không tránh khỏi những hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh, sản xuất dư thừa quá mức, vi phạm pháp luật và kỷ luật thị trường, tạo ra nguy cơ khủng hoảng kinh tế - tài chính, phá hoại môi trường, bất công bằng xã hội,... 
 
Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế Việt Nam cũng trải qua nhiều bước thăng trầm. Kinh tế tư nhân, vốn đã kém phát triển trước năm 1954 do bị chế độ thực dân và tư sản mại bản chèn ép, lại không được công nhận và dần dần bị thay thế bởi kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể từ sau năm 1954 ở miền Bắc và từ sau 1975 trên phạm vi cả nước. Là đối tượng của các cuộc cải cách ruộng đất, hợp tác hóa trong nông nghiệp nông thôn và cải tạo XHCN trong công thương nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân hầu như đã bị xóa bỏ hoàn toàn và vai trò của khu vực kinh tế này đối với nền kinh tế bị phủ nhận. 
 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nhờ có chủ trương sáng suốt của Đảng và Nhà nước mà khu vực kinh tế tư nhân nước ta liên tục phát triển, đóng góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế - xã hội suốt những năm đổi mới. Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2000 đã tạo ra cuộc bùng nổ lần thứ hai trong phát triển kinh tế tư nhân. Hơn nữa, lần đầu tiên Đảng dành một Nghị quyết định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Nghị quyết TW 5 khoá IX đánh giá tổng quát vai trò khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: “Sự nghiệp phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục, ...”. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng nhận thấy kinh tế tư nhân nước ta “phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; còn nhiều khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội; nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật đối với người lao động; không ít đơn vị vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép,...”.
 
Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư” và “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”, đồng thời “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm”.
 
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tháng 5/2017 đã thông qua Nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đặt mục tiêu (Nghị quyết 10) đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp và tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 - 65%. 
 
Đặc điểm nổi bật của kinh tế tư nhân nước ta là tuyệt đại đa số còn nhỏ và yếu, năng suất và năng lực cạnh tranh còn thấp và thời gian hoạt động còn ngắn trong bối cảnh môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định, còn chứa đựng nhiều rủi ro bất khả kháng. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành ngày 12/6/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018 được đánh giá là bước đột phá trong tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)  đang chiếm tới trên 95% trong tổng số hơn 600.000 doanh nghiệp (DN) của cả nước và đóng góp khoảng 10% GDP đồng thời tạo việc làm cho khoảng 7 triệu lao động. Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân nói chung, khu vực DNNVV nói riêng được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế song tuyệt đại đa số DNNVV đều đang đối mặt với vô vàn khó khăn thách thức, từ khả năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất kinh doanh như đất đai, mặt bằng kinh doanh, vốn tín dụng, lao động có trình độ cao,... đến rào cản về thủ tục hành chính, hạn chế về cơ hội kinh doanh, tiếp cận thị trường, tiếp cận thông tin, quản trị doanh nghiệp,... trong đó, có khó khăn về vốn sản xuất kinh doanh.
 
Đến nay, đã và đang xuất hiện một số doanh nghiệp tư nhân lớn tầm cỡ quốc gia, thậm chí khu vực và quốc tế, song, số lượng còn rất ít và hoạt động trong những lĩnh vực đặc thù như bất động sản, cà phê, thuỷ sản,... Sách Trắng doanh nghiệp 2019 cho biết, tới 31/12/2018 cả nước có 714.755 doanh nghiệp đang hoạt động, riêng khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước thu hút 17,5 triệu tỉ đồng vốn, chiếm 53% tổng vốn, chiếm 33,3% trong 876,7 nghìn tỉ đồng tổng lợi nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp năm 2017, tạo việc làm cho 8,8 triệu lao động, đạt tổng doanh thu thuần là 11,7 triệu tỷ đồng, chiếm 56,8% doanh thu thuần của toàn bộ khu vực doanh nghiệp năm 2017. Nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển như thế nào, năng lực cạnh tranh của nước ta sẽ được cải thiện và nâng cao đến đâu, bao giờ chúng ta bắt kịp nhịp độ phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là một trong những yếu tố quan trọng. 
 
Để tiếp tục giữ vững và phát huy cao độ vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta cần có những chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các mặt, từ chủ trương quan điểm, kinh tế - tài chính, lao động - xã hội đến tâm lý - tuyên truyền,... Trong đó, theo chúng tôi cần lưu ý những điểm căn bản sau:
 
Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện nhất quán quan điểm chủ trương phát huy cao độ vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, biến những quan điểm chủ trương đó thành những cơ chế chính sách cụ thể đồng bộ và nhất quán. Kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước không phải là hai mặt đối lập, không phải là đối thủ cạnh tranh “một mất một còn” mà là các bộ phận bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Kinh tế tư nhân phát triển cũng có nghĩa là kinh tế Việt Nam phát triển.
 
Thứ hai, điều kiện tiên quyết là Nhà nước tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân hoạt động theo đúng tinh thần Luật Doanh nghiệp. Phải xóa bỏ các rào cản đối với kinh tế tư nhân.
 
Thứ ba, Luật Doanh nghiệp đã tạo ra khuôn khổ pháp lý tương đối thuận lợi để mọi người có thể gia nhập thị trường, song, còn thiếu những cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm điều chỉnh hoạt động trên thị trường. Cần xây dựng cơ sở pháp lý cho việc hình thành, thực hiện, theo dõi, thanh lý, giải quyết tranh chấp các hợp đồng kinh tế và xử lý các vấn đề kinh tế - tài chính khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể theo quy luật thị trường.
 
Thứ tư, đa dạng hóa các nguồn lực đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Các nguồn lực rất đa dạng và phong phú nên một trong những bí quyết tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chính là lựa chọn và triển khai thực hiện chiến lược và các biện pháp cụ thể khai thác các nguồn lực một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp. 
 
Thứ năm, ngoài một số ưu đãi tạm thời, theo chúng tôi, cơ bản, dài hạn, không nên áp dụng các chính sách ưu đãi mà là tạo điều kiện, môi trường ổn định, thuận lợi lâu dài cho kinh tế tư nhân phát triển.
 
[1] https://www.forbes.com/global2000/
[2] http://world-statistics.org/ 
[3] Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - NHTG - NXB Chính trị quốc gia 1998, tr.13.
[4] Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - NHTG - NXB Chính trị quốc gia 1998, tr.16.
[5] Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - NHTG - NXB Chính trị quốc gia 1998, tr.42.
[6] Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường - János Kornai (The Road to a Free Economy - Shifting from a Socialist System: The Example of Hungary) - Hà Nội: Hội tin học Việt Nam, 2001, tr.32.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Các nền kinh tế chuyển đổi: Lý luận và thực tiễn - Trung tâm KHXH&NVQG, Viện Thông tin khoa học xã hội - Hà Nội 1998. 
Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường - János Kornai (The Road to a Free Economy - Shifting from a Socialist System: The Example of Hungary) - Hà Nội: Hội tin học Việt Nam, 2001.
Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - NHTG - NXB Chính trị quốc gia 1998. 
Sách Trắng doanh nghiệp 2019 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
https://www.forbes.com/global2000/list/#tab:overall.
http://world-statistics.org/

TS. Vũ Đình Ánh

Nguồn: TCNH chuyên đề đặc biệt 2019
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
01/05/2024 329 lượt xem
Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật và quy chế nội bộ của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) về hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ bảo toàn) và thực tiễn thi hành từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo toàn.
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 942 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 648 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 940 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.407 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.931 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.256 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 7.348 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.315 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.367 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 9.694 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.367 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.709 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.322 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 4.418 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?