Phát triển kinh tế số ở Trung Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam
08/10/2021 33.077 lượt xem
Năm 2021, Trung Quốc có 23 thành phố gia nhập câu lạc bộ GDP 1.000 tỷ CNY, tương đương khoảng 150 tỷ USD và đang hướng tới nền kinh tế số.
 
Trung Quốc với lợi thế của thị trường quy mô lớn, dân số chiếm gần 1/5 dân số toàn cầu (1,44 tỷ người quý I/2021)1 đã chuyển đổi thành cường quốc về sản xuất và công nghệ, hệ thống công nghiệp hoàn chỉnh, cùng với hệ sinh thái Internet dẫn đầu về đổi mới, phát triển kinh tế số được xem là lựa chọn tất yếu của Trung Quốc và đã đạt được nhiều dấu ấn, thành tựu. Năm 2021, Trung Quốc có 23 thành phố gia nhập câu lạc bộ GDP 1.000 tỷ CNY, tương đương khoảng 150 tỷ USD và đang hướng tới nền kinh tế số.
 


 
1. Thành tựu trong phát triển kinh tế số Trung Quốc 
 
Năm 2018, kinh tế số của Trung Quốc đứng thứ hai về quy mô, sau Mỹ, đóng góp hơn 4,7 nghìn tỷ USD (chiếm 1/3 GDP của  Trung Quốc), trở thành động lực tăng trưởng kinh tế mới của Trung Quốc2. Năm 2019, kinh tế số của Trung Quốc đạt giá trị 35,8 nghìn tỷ CNY (5,5 nghìn tỷ USD), chiếm 36,2% GDP của Trung Quốc, đóng góp 67,7% vào tăng trưởng GDP, trong khi đó, kinh tế số chiếm 51,3% GDP ở các nước phát triển và chỉ 26,8% GDP ở các nước đang phát triển. Trung Quốc chấp nhận số hóa trước khi hoàn thành công nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa nông nghiệp. 
 
Sự tăng trưởng vượt bậc về công nghệ di động, thanh toán di động giúp Trung Quốc nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các cường quốc kinh tế như Mỹ, Anh, Pháp. Tỷ lệ người dân nhận thức được các dịch vụ thanh toán di động tại Trung Quốc lên tới 77% (năm 2017), vượt xa nhiều nền kinh tế khác trong danh sách như Úc, Đức, Nhật Bản và Nga3. Kinh tế số tạo ra số lượng "đại gia" lớn trong các công ty khởi nghiệp tư nhân. Trong số hơn 200 công ty “kỳ lân” trên toàn thế giới có một phần ba đến từ Trung Quốc4. Thành tựu trong phát triển kinh tế số Trung Quốc được thể hiện trong các lĩnh vực sau:
 
Phát triển thương mại điện tử 
 
Kinh tế số tăng nhanh của Trung Quốc thể hiện sự tăng đột biến các giao dịch thương mại điện tử. Giao dịch thương mại điện tử của Trung Quốc hiện lớn hơn 5 nền kinh tế hàng đầu thế giới gồm Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh, Mỹ và sở hữu một lượng lớn người dùng trong lĩnh vực thanh toán di động với giá trị giao dịch lớn hơn 11 lần giá trị giao dịch của Mỹ5. Năm 2015, Trung Quốc đã vươn lên dẫn đầu thương mại điện tử trên toàn thế giới, với việc mua sắm trực tuyến chiếm 18% tổng doanh số bán lẻ, so với chỉ 8% ở Mỹ. Trung Quốc đã tích lũy được lượng dữ liệu khổng lồ trong thương mại điện tử, công nghệ 5G, đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ 5G dựa trên quy mô của nền kinh tế và nền công nghiệp hiện đại. Đây là những nền tảng quan trọng của kinh tế số - nội dung chiến lược của Kế hoạch 5 năm (2021 - 2025) của Trung Quốc. Sản lượng công nghiệp cốt lõi dự kiến sẽ chiếm 10% GDP của Trung Quốc năm 2025.
 
Nền kinh tế số của Trung Quốc đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông số và thương mại điện tử với sự hiện diện của 3 nhà cung ứng nội địa khổng lồ bao gồm: (i) Thương mại điện tử (Alibaba); (ii) Game trực tuyến và mạng xã hội (Tencent); (iii) Công cụ tìm kiếm (Baidu). Mỗi năm, Tập đoàn thương mại điện tử Alibaba xử lý số giao dịch mua bán nhiều hơn cả Ebay (công ty của Mỹ, quản lý trang web eBay.com) và Amazon (công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ)6 cộng lại. Với thế mạnh về game trực tuyến và mạng xã hội, Tencent hiện là công ty có giá trị lớn thứ 10 toàn cầu (khoảng 275 tỷ USD). Baidu là công ty thống trị mảng công cụ tìm kiếm tại thị trường nội địa sau khi Google phải rút khỏi thị trường do bị kiểm duyệt. 
 
Thị trường thương mại điện tử của Trung Quốc có sự phát triển vượt bậc. Doanh thu bán lẻ trực tuyến toàn cầu năm 2018 của Trung Quốc đạt khoảng 2.800 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2017. Bán lẻ trực tuyến đã dần trở thành một kênh quan trọng cho tiêu dùng của Trung Quốc. Ba doanh nghiệp nền tảng công nghệ hàng đầu là Baidu, Alibaba và Tencent (BAT) của Trung Quốc đã phát triển đến trình độ có thể cạnh tranh với các ông lớn về công nghệ ở Mỹ là Amazon, Apple,Facebook, Google và Netflix.
 
Thành lập chính phủ điện tử 
 
Năm 2004, Trung Quốc chủ trương thành lập chính phủ điện tử bằng việc phát triển chữ ký điện tử.  Các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương thiết lập trang web riêng, cung cấp nhiều dịch vụ trực tuyến tạo thuận lợi cho công việc của người dân. Trung Quốc phát triển mạnh ngân hàng điện tử, phương thức cho vay ngang hàng P2P (Peer-to-Peer) dựa trên Internet. Năm 2016, tổng khối lượng giao dịch P2P của Trung Quốc đạt 2,06 nghìn tỷ CNY, tăng hơn gấp đôi chỉ trong một năm và tương đương 12% tổng số khoản vay ngân hàng được gia hạn. Năm 2018, có khoảng 50 triệu người tham gia vào nền tảng cho vay P2P, với tổng dư nợ lên đến 1.300 tỷ CNY (tương đương 192 tỷ USD). Hiện Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu thị trường cho vay P2P trên toàn cầu. Hình thức thanh toán tiền mặt ngày càng giảm và được thay thế bằng các phương thức thanh toán điện tử hiện đại như quét mã QR, thanh toán bằng ví điện tử. Rất nhiều sản phẩm tiêu dùng cơ bản đều cho phép thanh toán di động. Hai ứng dụng thanh toán điện tử phổ biến nhất tại Trung Quốc là Wechat Pay (Tenpay) của Tencent và Alipay của Alibaba. Quy mô thị trường thanh toán di động tại Trung Quốc đã tăng mạnh và đạt 1,2 nghìn tỷ USD năm 2018. Chính phủ điện tử giúp nâng cao hiệu quả của các dịch vụ công thông qua số hóa. Theo Chỉ số chính phủ điện tử của Liên hợp quốc, số hóa các dịch vụ công ở Trung Quốc đứng thứ 63 trong số 193 quốc gia được khảo sát.
 
Kế hoạch hành động Internet Cộng (Internet Plus) 
 
Để thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp, Trung Quốc xây dựng Kế hoạch hành động Internet Cộng - Internet Plus (năm 2015) nhằm  hỗ trợ các doanh nghiệp hội nhập Internet bằng cách sử dụng công nghệ của các công ty Baidu, Alibaba, Tencent. Theo kế hoạch, Trung Quốc sẽ phát triển mạnh các dịch vụ dựa trên Internet và thiết lập mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa các dịch vụ này với doanh nghiệp. Trung Quốc cũng phát triển một hệ sinh thái công nghiệp mới trên nền tảng Internet bao gồm mạng lưới, dịch vụ và các ngành công nghiệp kết nối Internet. 
 
Trung Quốc  có 731 triệu người dùng Internet (năm 2016), nhiều hơn số lượng người dùng của cả EU và Mỹ cộng lại và tăng lên 940 triệu người vào nửa đầu năm 20207. Số thuế bao điện thoại di động của Trung Quốc đạt 95% số người dùng Internet (695 triệu), cao hơn tỷ lệ của EU 79% (342 triệu) và Mỹ 91% (262 triệu)8. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey (MGI), Internet có tiềm năng đóng góp 1 điểm phần trăm bổ sung vào tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc giai đoạn (2013 - 2025), dẫn đến gia tăng 22% GDP trong cùng giai đoạn, tương đương với 14.000 tỷ CNY9.
 
Xây dựng cơ sở hạ tầng số 
 
Tốc độ số hóa của Trung Quốc được đánh giá nhanh nhất trong 62 quốc gia được khảo sát10. Xây dựng cơ sở hạ tầng số, phát triển mạng thông tin thế hệ mới, mở rộng ứng dụng 5G sẽ tạo tiền đề cho Trung Quốc phát triển nền kinh tế số. Đặc điểm nổi bật của công nghệ 5G là năng lực truyền tải dữ liệu mạnh hơn rất nhiều so với các công nghệ trước đây. Do đó, công nghệ 5G có vai trò nền tảng, mở ra khả năng ứng dụng ở quy mô lớn chưa từng có cho các công nghệ mới, như dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI- Artificial Intelligence), Internet vạn vật (IoT)11.  Trung Quốc rất mạnh trong ứng dụng và phát triển mở rộng 5G không chỉ trong nước mà còn trên toàn cầu. Dự kiến, quy mô đầu tư 5G của Trung Quốc có thể lên tới 441 tỷ USD12. Các ứng dụng của cơ sở hạ tầng số 5G, trí tuệ nhân tạo đã phát huy vai trò quan trọng trong chống dịch Covid-19, đồng thời, giúp Trung Quốc tạo thêm hơn 7 triệu việc làm trong ngành công nghệ thông tin (CNTT) cùng hàng chục triệu việc làm gián tiếp thuộc các ngành kinh tế số. Dự báo, công nghệ 5G sẽ đóng góp khoảng 1,3 nghìn tỷ USD vào GDP toàn cầu, trong đó đóng góp của Trung Quốc là 220 tỷ USD13. Năm 2020, Trung Quốc đầu tư cho cơ sở hạ tầng số lên đến 3.000 tỷ CNY (hơn 420 tỷ USD); kế hoạch trong 5 năm tới (2021 - 2025) riêng đầu tư trực tiếp cho xây dựng cơ sở hạ tầng số là 10.000 tỷ CNY (hơn 1.400 tỷ USD). Tối thiểu 80% các ứng dụng doanh nghiệp mới của Trung Quốc sẽ sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) năm 2025.
 


Kinh tế số của Trung Quốc tăng nhanh thể hiện qua sự tăng đột biến các giao dịch thương mại điện tử
2. Nhân tố đóng góp vào phát triển kinh tế số Trung Quốc 
 
Trung Quốc được đánh giá là quốc gia thành công và đạt được nhiều thành tựu trong việc chuyển đổi số và phát triển kinh tế số nhờ đóng góp của những nhân tố sau:
 
Thứ nhất, quy mô thị trường trong nước rộng lớn 
 
Trung Quốc có được sự phát triển vượt bậc trong lĩnh vực công nghệ số do sở hữu thị trường dân số khổng lồ và trẻ trung, giúp thương mại hóa nhanh chóng các mô hình kinh doanh số. Quy mô thị trường rộng lớn được bảo hộ đối với bên ngoài, nhưng khuyến khích sử dụng sản phẩm kỹ thuật số trong nước. Trong định hướng chính sách phát triển kinh tế số, Trung Quốc thực hiện việc bảo hộ thị trường công nghệ số trong nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, khẳng định vị thế độc quyền. Các doanh nghiệp trong nước được hỗ trợ để chiếm lĩnh thị trường công nghệ số trong nước trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Lợi thế này được nhân lên khi quy mô dân số khổng lồ của thị trường nội địa giúp các doanh nghiệp nhanh chóng đạt được lợi ích kinh tế.
 
Thứ hai, sở hữu hệ sinh thái số phong phú đang mở rộng 
 
Hệ sinh thái, được phát triển bởi những gã khổng lồ công nghệ “BAT” gồm Baidu, Alibaba và Tencent, tận dụng khả năng tiếp cận đa ngành và tích lũy nhanh chóng dữ liệu người tiêu dùng để cung cấp khả năng truy cập dễ dàng vào các sản phẩm và dịch vụ mới cho hàng triệu người dùng. Trung Quốc sở hữu hệ sinh thái Internet dẫn đầu về đổi mới và sở hữu một trong những hệ sinh thái đầu tư và khởi nghiệp kỹ thuật số tích cực nhất trên thế giới. Sản phẩm cốt lõi của bộ ba doanh nghiệp hàng đầu về công nghệ số của Trung Quốc (BAT) được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống. Người tiêu dùng dễ dàng chấp nhận công nghệ số mới. Các doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng mô hình kinh doanh cả về chiều sâu với chi phí thấp. Hiệu ứng lan tỏa có ý nghĩa quan trọng, nhất là các doanh nghiệp đã tạo được hệ sinh thái toàn diện và kéo theo rất nhiều các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường để đáp ứng nhu cầu ngày càng mở rộng của nhóm người tiêu dùng đã quen với công nghệ số. 
 
Trung Quốc cũng là nơi quy tụ rất nhiều hoạt động đầu tư mạo hiểm (top 3 thế giới) trong những lĩnh vực như thực tế ảo, ô tô tự lái, in 3D, robot, thiết bị bay không người lái và AI. Khoảng 1/3 trong số 262 “unicorn” (các công ty khởi nghiệp được định giá trên 1 tỷ USD) trên thế giới hiện nay là của Trung Quốc, chiếm 43% tổng giá trị của các “unicorn” trên toàn cầu.
 
Thứ ba, sở hữu nhiều công ty công nghệ lớn 
 
Lợi thế của Trung Quốc trong triển khai nền kinh tế số là có nhiều công ty công nghệ lớn. Trung Quốc hiện đã có 9 trong số 20 công ty công nghệ lớn nhất thế giới. Các công ty công nghệ lớn đang nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn từ những lệnh cấm của Mỹ. Do lệnh cấm của các công ty Mỹ bán chip cho Huawei giúp cho các công ty công nghệ lớn của Trung Quốc nỗ lực gấp bội. Mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, doanh số của Tập đoàn Huawei vẫn đạt hơn 139 tỷ USD (2020) nhờ vào các mảng hạ tầng công nghệ thông tin, AI đang bùng nổ tại Trung Quốc. 
 
Công ty công nghệ Xiaomi của Trung Quốc (đứng thứ 14/20 công ty công nghệ lớn nhất thế giới) trở thành công ty điện tử đầu tiên công bố đầu tư 10 tỷ USD để phát triển xe ô tô điện. Huawei cũng có kế hoạch đẩy mạnh lĩnh vực xe ô tô điện nhờ vào hạ tầng công nghệ sẵn có. Các doanh nghiệp về công nghệ của Trung Quốc vươn lên đạt quy mô và cạnh tranh ngang hàng với các công ty hàng đầu thế giới. 
 
Thứ tư, chính sách hỗ trợ và định hướng phát triển kinh tế số của Trung Quốc 
 
Quyết định bảo hộ thị trường công nghệ số đã tạo cho doanh nghiệp trong nước của Trung Quốc vị thế độc quyền, mở ra một không gian lý tưởng cho các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường công nghệ đầy tiềm năng trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Chính phủ Trung Quốc tạo điều kiện và không gian để các doanh nghiệp số thử nghiệm.  Chính phủ vừa là nhà đầu tư, vừa là người tiêu dùng các công nghệ số. Trung Quốc cũng có chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ số. Theo dự báo của Hãng nghiên cứu dữ liệu thị trường toàn cầu IDC (International Data Corporation), tối thiểu 80% các ứng dụng doanh nghiệp mới của Trung Quốc năm 2025 sẽ sử dụng các công nghệ AI. Định hướng của Chính phủ Trung Quốc tập trung vào những lĩnh vực công nghệ số đòi hỏi công nghệ vừa phải như thương mại điện tử, tiếp đến tiến tới phát triển những lĩnh vực công nghệ số khó hơn như AI, robot. Trung Quốc  đang đầu tư hàng tỷ USD để hỗ trợ các nhà phát triển AI, trong đó có cả công viên phát triển AI trị giá 2 tỷ USD ở Bắc Kinh. Hãng IDC dự báo, khoảng 51,3% GDP của Trung Quốc năm 2030 sẽ liên quan tới xu hướng số hóa trong bối cảnh các doanh nghiệp Trung Quốc đang đẩy mạnh số hóa các hoạt động kinh doanh.
 
Thứ năm, đóng góp của những tài năng kỹ thuật số 
 
Tài năng kỹ thuật số là nền tảng cơ bản cho tương lai kinh tế số. Trong gần 40 triệu tài năng kỹ thuật số của tất cả người dùng LinkedIn ở 31 thành phố trên toàn thế giới năm 2020, tài năng kỹ thuật số trong lĩnh vực CNTT - truyền thông ở Trung Quốc cao hơn ở châu Âu và Mỹ, mặc dù tài năng kỹ thuật số ở các ngành công nghiệp truyền thống ở các nước phương Tây cao hơn ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hầu hết các tài năng kỹ thuật số của Trung Quốc chỉ có kỹ năng kỹ thuật số, trong khi các đối tác ở phương Tây có kỹ năng và kinh nghiệm trong kinh doanh. Để khai thác tốt hơn tài năng kỹ thuật số và bù đắp cho sự thiếu hụt kỹ năng và kinh nghiệm trong kinh doanh, Trung Quốc cần thúc đẩy các cải cách từ phía cung đối với thị trường lao động với trọng tâm là tích hợp công nghệ kỹ thuật số trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật khác, nuôi dưỡng nhiều tài năng kỹ thuật số tiên tiến hơn với các kỹ năng đột phá để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của Trung Quốc.
 
3. Hạn chế trong phát triển kinh tế số Trung Quốc 
 
Thứ nhất, mức độ số hóa giữa các tỉnh, thành phố của Trung Quốc và giữa các ngành  khác nhau, phản ánh sự phát triển không đồng đều
 
Tại Bắc Kinh và Thượng Hải, nền kinh tế số chiếm gần 45% GDP, tương tự như mức của Nhật Bản, trong khi ở tỉnh Hà Nam - miền Trung Trung Quốc, quy mô nền kinh tế số chỉ chiếm 15% GDP. Bắc Kinh và Thượng Hải là hai thành phố đứng đầu Trung Quốc triển khai quản lý đô thị thông minh và Sàn giao dịch Big Data quốc tế. Bắc Kinh thành lập Sàn giao dịch Big Data quốc tế (tháng 2/2021) nhằm thúc đẩy kinh tế số, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các giao dịch dữ liệu.
 
Thứ hai, mức độ số hóa cũng khác nhau giữa các lĩnh vực 
 
Lĩnh vực dịch vụ là lĩnh vực được số hóa nhiều nhất, với CNTT - truyền thông đóng góp tới 33% giá trị gia tăng của lĩnh vực dịch vụ năm 2017. Các ngành sử dụng nhiều CNTT - truyền thông nhất là dịch vụ tài chính và giải trí; ngành công nghiệp có mức đóng góp thấp hơn, khoảng 17% giá trị gia tăng; ngành nông nghiệp là ngành ít được số hóa nhất, với 7% số hóa14. Tỷ lệ sử dụng Internet ở các vùng nông thôn Trung Quốc có nơi vẫn ở mức thấp, khoảng 19% dân số nông thôn (năm 2019). 
 
Thứ ba, kinh tế số phát triển phần lớn ở mảng thương mại và thanh toán điện tử
 
Đối với những phân khúc sản phẩm cao cấp hơn như robot, AI, vẫn có một khoảng cách lớn giữa trình độ phát triển công nghệ của Trung Quốc với các nền kinh tế phát triển. Trung Quốc đã có sự lựa chọn đúng khi tập trung phát triển thương mại điện tử, là lĩnh vực đòi hỏi công nghệ vừa phải, rồi mới tiến đến các lĩnh vực khó hơn như  trí tuệ nhân tạo AI, robot.
 
Thứ tư, tỷ lệ sử dụng robot trên tổng số lao động của Trung Quốc thấp 
 
Mặc dù số lượng robot được ứng dụng trong sản xuất gia tăng rất nhanh ở Trung Quốc, lên tới 69.000 robot năm 2015, là quốc gia dẫn đầu về số lượng ứng dụng robot trong giai đoạn 10 năm (2005 - 2015), tuy nhiên, nếu loại trừ lợi thế quy mô kinh tế, mức độ sử dụng robot trên 10.000 lao động của Trung Quốc vẫn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới15. Cường độ robot hiện tại của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghiệp là 5%, trong khi ở Mỹ là 18% và ở Hàn Quốc là 60%16.
 
Thứ năm, hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực 
 
Đây là khó khăn lớn nhất đối với phát triển kinh tế số Trung Quốc. Số lượng các nhà khoa học tầm cỡ thế giới về AI ở Trung Quốc chỉ vào khoảng trên dưới 10 người (He 2017, tr. 12), trong khi nền giáo dục chưa chuyển đổi đủ nhanh để đáp ứng nhu cầu đào tạo hàng vạn lao động có kỹ năng cho phát triển kinh tế số. Tính cạnh tranh của nền kinh tế số ở Trung Quốc còn hạn chế do khoảng cách về năng lực sản xuất giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và doanh nghiệp quy mô lớn. Hầu hết các DNNVV không đầu tư cho các công nghệ tự động hóa và CNTT cho nên vẫn đứng ngoài các hoạt động đổi mới sáng tạo công nghệ.
 
4. Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam  
 
Việt Nam đứng vị trí 48/60 quốc gia có tốc độ chuyển đổi kinh tế số nhanh trên thế giới và đứng vị trí 22 về tốc độ số hóa. Sự dịch chuyển theo hướng số hóa ngày càng nhanh giúp Việt Nam bước vào nền kinh tế số ngày càng mạnh với nhiều doanh nghiệp kinh tế số ra đời. Việt Nam đã triển khai xây dựng Chính phủ điện tử (năm 2000) và đạt được một số kết quả nhất định, đứng thứ 88/193 quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á (năm 2018). Tuy nhiên, so với khu vực và trên thế giới, thành tựu của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn. Để đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế số đạt 20% GDP năm 202517 và  phát triển cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số lớn mạnh thì hành trình chuyển dịch sang nền kinh tế số của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn bởi tồn tại những hạn chế cả về nguồn nhân lực, về cơ sở hạ tầng và về nhận thức của cộng đồng xã hội. Từ những thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế số Trung Quốc, Việt Nam có thể rút ra một số kinh nghiệm để rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế số nhằm bắt kịp với xu thế khu vực và thế giới.
 
Thứ nhất, cần khuyến khích tận dụng tối đa sức mạnh của công nghệ số
 
Để phát triển kinh tế số, nhất thiết phải có sự hậu thuẫn từ Chính phủ với tư duy quản lý thông thoáng nhằm “cởi trói” cho các doanh nghiệp. Đặc biệt hỗ trợ các DNNVV thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Các sáng kiến dựa vào công nghệ số mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội nếu được triển khai hợp lý.
 
Chính phủ cũng đã đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế số trong Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 phê duyệt bởi Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Chính phủ, đó là, thúc đẩy phát triển kinh tế số với trọng tâm là phát triển công nghệ số, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công về CNTT sang làm sản phẩm công nghệ số, công nghiệp 4.0; phát triển nội dung số, công nghiệp sáng tạo; kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử và sản xuất thông minh. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
 
Thứ hai, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số
 
Chính phủ và khu vực tư nhân đều cần phải nỗ lực đầu tư nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật số cũng như công nghệ số hiện đại để triển khai ứng dụng số kết nối thông minh. Đặc biệt là các ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, hiệu quả hóa chính phủ điện tử. Đây là nền tảng quan trọng cần triển khai để tạo điều kiện cho các hoạt động trực tuyến. Trên cơ sở nền tảng viễn thông mạnh, Việt Nam tập trung xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu khác, song song với phát triển các yếu tố công nghệ đảm bảo an toàn an ninh thông tin trên không gian mạng.
 
Để nâng cấp hạ tầng số, Chính phủ và các doanh nghiệp cần thực hiện các phương án triển khai dịch vụ 5G để theo kịp xu hướng thế giới. Công nghệ 5G sẽ tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng Internet kết nối vạn vật, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV.
 
Thứ ba, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực CNTT phục vụ cho chuyển đổi kinh tế số
 
Bên cạnh việc nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số, việc đào tạo nguồn nhân lực CNTT đóng vai trò hết sức quan trọng. Chương trình đào tạo nhân lực CNTT cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục CNTT. Cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật IoT, AI, công nghệ robot. Đẩy mạnh liên kết đào tạo giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.
 
Đào tạo nguồn nhân lực CNTT là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của nền kinh tế số. Việt Nam có khoảng 900.000 nhân lực CNTT, trong đó có số lượng lớn kỹ sư về AI, IoT, khoa học dữ liệu. Tuy nhiên, dù có những cải thiện nhưng nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam vẫn xếp hạng trung bình khá về chất lượng, về lao động chuyên môn cao và năng lực sáng tạo trong kinh tế số khi so với thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề chỉ đạt 60%, vẫn còn khoảng cách xa so với yêu cầu chuyển đổi số. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực CNTT về cả số lượng và chất lượng được xem là một trong những thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế số của Việt Nam.
 
Thứ tư, xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật nhằm tạo khuôn khổ cho phát triển kinh tế số
 
Xây dựng nền tảng, thể chế cho các mô hình kinh tế. Sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số... Cải cách thể chế để thu hút đầu tư vào công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm theo hướng tạo thuận lợi cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số.
 
 Xây dựng các kế hoạch cụ thể về chuyển đổi số cho các doanh nghiệp, gắn liền với các nguồn tài chính, kinh phí để tạo sự thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận với kinh tế số.
 
Thứ năm, tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về kinh tế số
 
Tăng cường nhận thức của người dân và doanh nghiệp về kinh tế số thông qua các cơ quan, doanh nghiệp và trường học. Các cơ quan báo chí, thông tin truyền thông cần định hướng dư luận, giúp cho các doanh nghiệp, người dân và xã hội có nhận thức đúng về kinh tế số để có sự chuẩn bị tốt nhất, thích ứng xu hướng phát triển kinh tế số. Tăng cường trách nhiệm của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân trong xây dựng kinh tế số.
 
Nhận thức thông tin đúng đắn, nhanh nhạy về bản chất, xu hướng phát triển kinh tế số giúp các doanh nghiệp tích cực nắm bắt các cơ hội cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong kinh tế số toàn cầu và sẵn sàng đồng hành cùng Chính phủ hội nhập kinh tế số thế giới. Mỗi cá nhân cần tự trang bị và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ số sẽ giúp phục vụ cho công việc trong tương lai và tự biết bảo vệ trước các nguy cơ bị đe dọa và lấy cắp thông tin cá nhân trực tuyến.
 
1 Theo số liệu tháng 4/2021 của Liên hợp quốc.
 
2 Đánh giá Học viện Công nghệ thông tin và Truyền thông Trung Quốc (CAICT - China Academy of Information and Communication Technology).
 
3 Theo đánh giá của tổ chức Forex Bonuses năm 2017.
 
4 Kỳ lân - Unicom - Thuật ngữ để mô tả một công ty khởi nghiệp có giá trị hơn 1 tỷ USD.
 
5 Theo Báo cáo của Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey (MGI - McKinsey Global Institute, 2017).
 
6 Ebay và Amazone là những công ty lớn nhất của Mỹ,  tập trung vào điện toán đám mây, truyền phát kỹ thuật số, AI và thương mại điện tử.
 
7  Chen Yubo (2021), Future of China's digital economy; Future of China's digital economy - Opinion - Chinadaily.com.cn.
 
8 Chính sách chuyển đổi sang nền kinh tế số kinh nghiệm Trung Quốc-converted.pdf (ciem.org.vn).
 
9 Mcklinsey Golbal Institute (MGI) 2017, China Digital Economy:  A leading global force, Discussion Paper, August, McKinsey & Company.
 
10Longmei Zhang (2019), China’s Digital Economy: Opportunities and Ristks; China's Digital Economy: Opportunities and Risks in: IMF Working Papers Volume 2019 Issue 016 (2019).
 
11 Lịch sử phát triển công nghệ viễn thông cho thấy công nghệ 1G giúp tạo ra đàm thoại di động, 2G giúp gửi tin nhắn di động, 3G giúp truy cập Internet hiệu quả, 4G giúp truyền tải các video dễ dàng.
 
12 South China Morning Post: “Why China is set to spend US$411 billion on 5G mobile networks”, 2017, https://www.scmp.com/tech/china-tech/article/2098948/china-plans-28-trillion-yuan-capital-expenditure-create-worlds.
 
13  Theo Báo cáo của Công ty kiểm toán uy tín nhất thế giới PwC (PricewaterhouseCoopers) với tít đề “Tác động kinh tế toàn cầu của 5G”.
 
14 Longmei Zhang (2019), China’s Digital Economy: Opportunities and Ristks; China's Digital Economy: Opportunities and Risks in: IMF Working Papers Volume 2019 Issue 016 (2019).
 
15 Mức sử dụng robot trung bình của thế giới là 69 robot/10.000 lao động, trong khi của Trung Quốc chỉ là 35 robot/10.000 lao động; CĐ5 - Chính sách chuyển đổi sang nền kinh tế số kinh nghiệm TQ-converted.pdf (ciem.org.vn).
 
16 Longmei Zhang (2019), China’s Digital Economy: Opportunities and Ristks; China's Digital Economy: Opportunities and Risks in: IMF Working Papers Volume 2019 Issue 016 (2019).
 
17 Mục tiêu được đưa ra trong Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị.


Tài liệu tham khảo:
 
1. Chen Yubo (2021), Future of China’s digital economy; Future of China’s digital economy - Opinion - Chinadaily.com.cn
 
2. Longmei Zhang (2019), China’s Digital Economy: Opportunities and Ristks; China’s Digital Economy: Opportunities and Risks in: IMF Working Papers Volume 2019 Issue 016 (2019).
 
3. Thanh Hà (2020), Trung Quốc trở thành nền kinh tế số 1 thế giới sớm hơn 5 năm so với dự kiến. Tin tức mới nhất 24h - Đọc Báo Lao Động online - Laodong.vn
 
4. Trường Duy (2019), Triển vọng nền kinh tế số của Trung Quốc (bnews.vn).
 
5. New pattern of China’s digital economy in 2021, New pattern of China’s digital economy in 2021 - Global Times.
 
6. Thế Lâm (2020), Việt Nam đang ở đâu trong xu thế kinh tế số?, <https://laodong.vn/lao-dong-cuoi-tuan/viet-nam-dang-o-dau-trong-xu-the-kinh-te-so-776086.ldo>, ngày 05/01/2020.
 
7. Phạm Việt Dũng (2020). Kinh tế số - Cơ hội “bứt phá” cho Việt Nam, <http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/kinh-te-so---co-hoi-but-phacho-viet-nam.html>

 
PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 989 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 2.340 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 4.316 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 9.351 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 5.892 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 8.014 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 6.554 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
13/02/2024 6.533 lượt xem
Nhìn lại năm 2023, trên khắp Việt Nam và Nhật Bản đã diễn ra nhiều sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tháng 12/2023, Mizuho đã hỗ trợ Diễn đàn kinh tế Nhật Bản - Việt Nam tại Tokyo cùng với Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và các định chế tài chính khác.
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
26/01/2024 7.785 lượt xem
Sau những cú sốc mạnh trong năm 2022, hoạt động kinh tế toàn cầu có dấu hiệu ổn định vào đầu năm 2023.
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
15/01/2024 8.219 lượt xem
Chuyển đổi số và sự bùng nổ công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng và hoạt động kinh doanh. Xu hướng thay đổi này dẫn đến quá trình số hóa trong các lĩnh vực như sản xuất, chuỗi cung ứng, tài chính và các dịch vụ phụ trợ khác.
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
05/01/2024 8.992 lượt xem
Trong năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ sụp đổ của những ông lớn trong lĩnh vực ngân hàng, điều này dấy lên hồi chuông cảnh báo về tính chất dễ đổ vỡ của ngân hàng. Việc một ngân hàng đổ vỡ thể hiện kỉ luật thị trường đối với những ngân hàng có hoạt động kinh doanh thiếu an toàn, lành mạnh nhưng lại tạo ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng và người gửi tiền.
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
21/12/2023 10.442 lượt xem
Sự chuyển dịch nhanh chóng của hệ thống tiền tệ số toàn cầu đã khiến chính phủ các nước có phần lúng túng trong việc thích nghi với sự thay đổi mạnh mẽ trong hành vi chi tiêu và đầu tư của người dân.
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
20/12/2023 9.646 lượt xem
Trung Quốc là đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư lớn nhất của châu Phi trong thời gian qua và sẽ tiếp tục trong thời gian tới. Bài viết này tóm lược sự phát triển quan hệ thương mại và đầu tư của Trung Quốc với các nước châu Phi trong thời gian hơn một thập kỉ vừa qua và việc Trung Quốc sử dụng lĩnh vực ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển đó.
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
16/11/2023 10.774 lượt xem
Bài viết khái quát quá trình triển khai huy động dòng vốn toàn cầu thông qua tiền mã hóa của Chính phủ Ukraine và Liên bang Nga; từ đó, đánh giá hiệu quả thực tiễn của việc sử dụng tiền mã hóa trong thanh toán xuyên biên giới, nguy cơ sử dụng tiền mã hóa trong các hoạt động rửa tiền, khủng bố và đưa ra hàm ý cho Việt Nam.
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
06/11/2023 10.613 lượt xem
Hoạt động huy động vốn cộng đồng đã trở nên phổ biến sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phương thức này đã phát triển nhanh chóng ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó, hoạt động huy động vốn theo hình thức cổ phần (Equity - based Crowdfunding - ECF) là hình thức gọi vốn được các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi đầu, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo rất ưa chuộng. Với ECF, các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ cộng đồng thông qua một nền tảng trên Internet.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?