Trải qua 70 năm xây dựng, củng cố và phát triển (1951 - 2021), hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mỗi giai đoạn, sự đổi mới, phát triển của hoạt động ngân hàng đều gắn liền với vận mệnh của dân tộc, đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống phát triển của Ngành. Đáng chú ý là, bước tiến quan trọng được ghi nhận từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế trước những khó khăn chồng chất của đất nước và diễn biến ngày càng phức tạp trên chính trường quốc tế.
Giai đoạn 1986 - 1989
Đây là thời kỳ Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới thực sự, trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với hàng loạt khó khăn thách thức, sản xuất đình trệ, đời sống Nhân dân cực kỳ khó khăn, lạm phát tăng phi mã (năm 1986 lên đến 774,7%), ngân sách thâm hụt trầm trọng,… Nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn và yếu kém trên đây là do cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong nền kinh tế đã triệt tiêu các động lực phát triển; cấm đoán tự do sản xuất và lưu thông hàng hóa; giá cả không phản ánh cung cầu; in tiền bù đắp bội chi ngân sách và làm vốn tín dụng; đầu tư thiên về công nghiệp nặng và doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả; các hiện tượng như lãi suất không theo quy luật và thấp xa tỉ lệ lạm phát, tiền thành “hòn than nóng”, cơ chế tỉ giá cố định cứng nhắc, vàng và ngoại tệ lên ngôi.
Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 và các Nghị quyết Đại hội Đảng sau đó, công cuộc đổi mới đất nước được triển khai mạnh mẽ, nền kinh tế được chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống ngân hàng cũng từng bước đổi mới và phát triển, hoàn thiện về mô hình tổ chức, thể chế pháp lý, công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Đáng chú ý là, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mô hình ngân hàng một cấp được chuyển thành mô hình ngân hàng hai cấp, tách bạch dần chức năng quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) với chức năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD). Tổ chức, bộ máy của NHNN được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân hàng của các ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Trong thời kỳ này, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ sở chuyển và tách ra từ NHNN, bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.
Nhờ đường lối đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng xóa bỏ bao cấp, giải phóng sức sản xuất, tự do hóa sản xuất lưu thông hàng hóa, từng bước tự do hóa giá cả, những khó khăn kinh tế đã được khắc phục đáng kể. Về điều hành chính sách tiền tệ, NHNN chuyển sang cơ chế lãi suất thực dương1 đã thu hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và thị trường, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Đây là giải pháp có tính đột phá và quyết định sự thành công trong giai đoạn này. Nhờ đó, lạm phát phi mã được đẩy lùi và đến năm 1989 chỉ tăng 35%...
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, chính sách tiền tệ chưa được định hình rõ ràng, NHNN vẫn thực hiện cung ứng tiền theo chỉ đạo của Chính phủ. Nhìn tổng quát trong những năm đầu đổi mới vẫn là chế độ quản lý tiền mặt theo ý chí, mệnh lệnh, chứ chưa theo các quy luật kinh tế hàng hóa và lưu thông tiền tệ.
Giai đoạn 1990 - 1996
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đẩy kinh tế Việt Nam lâm vào tình cảnh khó khăn gay gắt hơn, lạm phát trong thời kỳ này tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn trên dưới 10%/năm. Đảng và Chính phủ quyết tâm từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhưng chưa thể vận hành hoàn toàn và đầy đủ theo cơ chế thị trường.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua hai Pháp lệnh về Ngân hàng. Nhờ đó, hệ thống ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và toàn diện, phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Số lượng ngân hàng tăng nhanh nhưng quy mô nhỏ, trình độ quản trị còn yếu kém nên tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Đến cuối năm 1996, toàn hệ thống có 52 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), trong đó 32 NHTMCP đô thị, 20 NHTMCP nông thôn.
Về điều hành chính sách tiền tệ, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất thực dương, kết hợp sử dụng các công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình thành các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế và hàng năm đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm sau. Tuy nhiên, những dấu hiệu phát triển nóng cũng bộc lộ, nhất là thị trường bất động sản. Hoạt động cho vay bất cẩn ngày càng tăng; nhiều chủ ngân hàng lợi dụng vốn ngân hàng để đầu tư cho công ty “sân sau”, lừa đảo tín dụng gia tăng… dẫn tới đổ vỡ hợp tác xã tín dụng và sự suy yếu của nhiều NHTM.
Về quan hệ đối ngoại, từ tháng 10/1993, Việt Nam đã chính thức nối lại quan hệ tín dụng với ba tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Giai đoạn 1997 - 2005
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 - 1998 tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước, tăng trưởng kinh tế chững lại, hoạt động xuất nhập khẩu giảm thấp, đầu tư nước ngoài ngưng trệ, hệ thống ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức. Các yếu kém vốn có của hệ thống ngân hàng trở nên trầm trọng hơn do tác động của cuộc khủng hoảng nêu trên.
Sức ép phá giá VND lên cao và liên tục; bất động sản sụt giảm và đóng băng. Hàng loạt NHTMCP rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, phải sáp nhập vào NHTM Nhà nước (17/53 NHTMCP bị xóa tên trong giai đoạn này).
Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật NHNN và Luật Các TCTD, tạo nền tảng pháp lý cơ bản cho hệ thống ngân hàng tiếp tục đổi mới hoạt động, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Về các biện pháp ứng phó với khủng hoảng tài chính - tiền tệ, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997; tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất; ban hành các quy định và thiết chế an toàn để tăng cường khả năng ngăn ngừa biến động xấu của TCTD; áp dụng trích lập dự phòng rủi ro theo hướng tăng dần; thành lập Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại và thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội.
Nhờ những giải pháp nêu trên, VND chỉ giảm giá tổng cộng xấp xỉ 12% trong vòng 8 năm; lãi suất được thả nổi hoàn toàn từ năm 2002 - 2008; lạm phát được giữ ở mức một con số từ năm 1996 (4,5%) đến năm 2006 (6,6%); cao nhất là 9,5% vào năm 2004, thấp nhất (0,1 - 3%) vào năm 2000 - 2003; tăng trưởng GDP bình quân 7% (1996 - 2000), 6,9% (2000 - 2005).
Hệ thống các TCTD được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài chính. Công nghệ ngân hàng có bước phát triển mạnh mẽ, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành chính thức từ tháng 5/2002. Các mô hình dịch vụ ngân hàng điện tử xuất hiện như E-Banking, Internet Banking. NHNN cũng tích cực tham gia đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đồng thời chủ động triển khai các cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng tồn đọng và ẩn chứa nhiều hệ lụy khi gặp cú sốc từ bên ngoài. Mô hình tăng trưởng dựa vào tăng đầu tư; tín dụng ngân hàng tăng bình quân hàng năm 25 - 30%/năm, kỷ luật ngân sách lỏng lẻo đã xói mòn tính bền vững của nền tảng vĩ mô, dẫn đến lạm phát cao trở lại (từ 2007 - 2011) và tỉ giá biến động mạnh.
Giai đoạn 2006 - 2010
Trong giai đoạn này, tình hình chính trị và kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 và suy thoái kinh tế sau đó đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam vừa mới gia nhập WTO (ngày 11/01/2007) và đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đặt hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam trước nhiều khó khăn và thách thức. Trong khi đó, số lượng các ngân hàng tăng nhanh (các NHTMCP nông thôn được nâng cấp lên thành NHTMCP đô thị, thành lập mới 3 NHTMCP, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài). Mức vốn điều lệ tăng cao trong một thời gian ngắn, dẫn đến tình trạng các ngân hàng hút vốn bằng nhiều cách, tình trạng sở hữu chéo tăng nhanh.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế trong nước và thế giới, chính sách tiền tệ giai đoạn này được điều hành linh hoạt theo từng thời kỳ: (i) Từ năm 2006 đến tháng 10/2008: Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế tăng trưởng nóng; (ii) Từ tháng 11/2008 đến cuối năm 2010: Nới lỏng để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế.
NHNN yêu cầu các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật; xử lý kịp thời các vướng mắc về nợ vay và tiếp cận tín dụng của khách hàng; tập trung triển khai có hiệu quả việc thực hiện các cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, đi đôi với mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các nhu cầu vay vốn để sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và các dự án lớn, trọng điểm của Nhà nước; kiểm soát chặt chẽ cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng.
Điều hành chính sách của NHNN trong giai đoạn này đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ngăn chặn suy giảm kinh tế trước những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Hệ thống ngân hàng đã tích cực hiện đại hóa, đổi mới công nghệ, dịch vụ, hoàn thiện thể chế, chính sách, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Những biện pháp của Chính phủ về đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu được NHNN thực hiện trong giai đoạn 2006 - 2010 đã góp phần kiềm chế lạm phát năm 2007 ở mức 12,63%; năm 2008 là 19,9% và năm 2010 là 11,75%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và ngăn chặn đà suy giảm tăng trưởng kinh tế. Kinh tế của Việt Nam trong các năm 2008 - 2010 vẫn tăng trưởng dương (riêng năm 2010 tăng trưởng đạt 6,78%, vượt mục tiêu 6,5% đề ra). Tuy nhiên, việc điều hành chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với các nguyên nhân khách quan, chủ quan khác đã đẩy giá cả tăng khá cao2, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiểm soát lạm phát các năm tiếp theo; tỉ giá diễn biến phức tạp; dự trữ ngoại tệ sụt giảm; thị trường tiền tệ có nhiều dấu hiệu bất ổn do cạnh tranh thiếu lành mạnh; hoạt động của các TCTD tiềm ẩn nhiều rủi ro, chất lượng tín dụng giảm, nợ xấu tăng, thanh khoản gặp khó khăn.
Khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện: Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật NHNN và Luật Các TCTD ngày 16/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Hai Luật này đã tạo nền tảng pháp lý mới, góp phần nâng cao vị thế, trách nhiệm, quyền hạn của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; đồng thời, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và thông lệ, chuẩn mực quốc tế về ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam hội nhập quốc tế.
Giai đoạn 2011 - 2016
Do chịu tác động bất lợi của tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 - 2009 và những bất cập nội tại của nền kinh tế, trong những năm 2011 - 2016, kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều thách thức lớn đan xen, lạm phát tăng cao (từ 11,8% năm 2010 tăng vọt lên 18,13% năm 2011); thị trường tiền tệ, ngoại hối và thị trường vàng có nhiều biến động với mặt bằng lãi suất cho vay ở mức cao, lên đến 20 - 25%/năm, thanh khoản của hệ thống TCTD căng thẳng, VND chịu sức ép phá giá, dự trữ ngoại hối nhà nước sụt giảm mạnh, kỷ luật thị trường chưa được các TCTD tuân thủ nghiêm chỉnh, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống TCTD.
Với mục tiêu xuyên suốt là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, ngành Ngân hàng đã bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, phát huy tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm trong toàn Ngành, tăng cường sự gắn kết với các bộ, ngành và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Trong giai đoạn này, do công tác dự báo, thống kê về hoạt động tiền tệ - ngân hàng hiệu quả hơn so với giai đoạn trước, nên cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động, dẫn dắt thị trường. NHNN đã triển khai nhiều biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đặc biệt là đối với các lĩnh vực ưu tiên, triển khai hàng loạt chương trình tín dụng với lãi suất ưu đãi. Về điều hành thị trường tiền tệ, các nhóm giải pháp tín dụng được tập trung thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các TCTD. Nhờ tăng cường giám sát và kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động, đồng thời với các biện pháp hỗ trợ thanh khoản cho những ngân hàng yếu kém, tình trạng một số TCTD phải vay mượn lẫn nhau với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng đã được khắc phục đáng kể.
Kết quả nổi bật của hệ thống ngân hàng giai đoạn này là lạm phát được kiểm soát và giảm dần, kinh tế vĩ mô dần ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh từ mức 18,13% năm 2011 xuống còn 0,63% năm 2015, mức thấp nhất trong 15 năm qua; mặt bằng lãi suất giảm từ mức 20 - 25%/năm chỉ còn 6 - 9%/năm; thanh khoản hệ thống ngân hàng từ chỗ thiếu hụt, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống đã cải thiện rõ nét và ổn định bền vững; tín dụng tăng trưởng ở mức hợp lý, gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; tỉ giá và thị trường ngoại hối đã cơ bản ổn định, niềm tin vào đồng Việt Nam tăng lên, tình trạng đô la hóa giảm đáng kể, NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ để tăng mạnh dự trữ ngoại hối nhà nước.
Cơ chế quản lý thị trường vàng theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã khắc phục khá triệt để những bất cập của thị trường vàng giai đoạn trước và về cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Thị trường vàng được chấn chỉnh một bước căn bản và đi vào ổn định, dù giá vàng thế giới giai đoạn này có nhiều biến động mạnh, nhưng giá vàng trong nước không có nhiều xáo trộn.
Đáng chú ý, các giải pháp cơ cấu lại và xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ, quyết liệt, công khai, minh bạch theo đúng mục tiêu, định hướng đề ra và theo quy định của pháp luật, các TCTD yếu kém đã được kiểm soát và từng bước được xử lý hiệu quả. Từ năm 2011 - 2015 đã giảm được 19 TCTD yếu kém thông qua hợp nhất, sáp nhập, mua lại, giải thể và thu hồi giấy phép. Đến cuối tháng 11/2015, tỉ lệ nợ xấu giảm còn 2,72% trên tổng dư nợ.
Sự ổn định, an toàn hoạt động và khả năng chi trả của hệ thống các TCTD được giữ vững và cải thiện, không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng ngoài tầm kiểm soát. Hoạt động thanh tra, giám sát được tăng cường; kỷ cương, kỷ luật trên thị trường tiền tệ và trong lĩnh vực ngân hàng được duy trì. Hiệu lực quản lý, điều hành của NHNN trên các lĩnh vực đều được nâng lên rõ rệt, thị trường và xã hội ngày càng tin tưởng vào việc điều hành chính sách của Chính phủ và NHNN.
Giai đoạn 2016 - 2021
Trong giai đoạn này, kinh tế Việt Nam liên tục chịu tác động tiêu cực cả về cung và cầu do kinh tế thế giới diễn biến bất thường, năng suất lao động giảm dần, thiên tai và dịch bệnh ngày càng trầm trọng, căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc và nhiều nền kinh tế chủ chốt khác gia tăng, trào lưu chủ nghĩa dân túy cùng với những thay đổi về chính sách thương mại và hàng loạt vấn đề khác. Đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát và tàn phá hầu hết các nước trên thế giới, nhưng Việt Nam là một trong số ít quốc gia đã thành công trong việc đối phó với đại dịch, không để Covid-19 lây lan phức tạp trong cộng đồng và duy trì được tốc độ tăng trưởng dương với GDP năm 2020 tăng 2,91%, các hoạt động kinh tế nhìn chung ổn định.
Trong lĩnh vực tài chính, thị trường thế giới diễn biến bất thường và đảo chiều nhanh chóng, chính sách tiền tệ nới lỏng tiếp tục chi phối các ngân hàng trung ương, buộc NHNN phải chủ động có giải pháp phù hợp để thích ứng với những thay đổi này. Cụ thể là, NHNN đã điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, đảm bảo thanh khoản thông suốt, ổn định thị trường, góp phần quan trọng thực hiện thành công mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, NHNN đã điều hành đồng bộ các giải pháp để duy trì ổn định và giảm dần mặt bằng lãi suất. Từ năm 2016 đến nay, NHNN đã điều chỉnh giảm 2 - 2,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,8 - 1,5%/năm trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 2%/năm trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên; điều tiết và đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các TCTD, duy trì lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý để tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý; chỉ đạo các TCTD cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay vốn.
Năm 2020, trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, NHNN đã 03 lần điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô cắt giảm khá lớn so với nhiều năm qua3, với tổng mức giảm từ 1,5 - 2%/năm. Việc quyết định giảm các mức lãi suất điều hành của NHNN đã phát tín hiệu mạnh mẽ và nhất quán về chủ trương tiếp tục giảm lãi suất, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. Cùng với các giải pháp chính sách tiền tệ đồng bộ và linh hoạt, các quyết định giảm các mức lãi suất điều hành đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên hiện ở mức 5%/năm, giảm khoảng 2% so với năm 2016.
Về tỉ giá và thị trường ngoại hối, NHNN đã điều hành tỉ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với các cân đối vĩ mô, diễn biến thực tế trên thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn cụ thể. Theo đó, NHNN đã thực hiện công bố tỉ giá trung tâm hàng ngày trên cơ sở tham chiếu diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ, góp phần ổn định tỉ giá và thị trường ngoại tệ trong nước. Từ đầu năm 2020, trong bối cảnh kinh tế - tài chính thế giới biến động mạnh và phức tạp do tác động của đại dịch Covid-19, NHNN đã điều hành tỉ giá linh hoạt, chủ động, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, chủ động truyền thông, điều chỉnh giảm tỉ giá bán can thiệp và sẵn sàng bán ngoại tệ để bình ổn thị trường và tình hình kinh tế vĩ mô. Nhờ đó, về cơ bản, tỉ giá và thị trường ngoại hối ổn định, cân đối cung cầu tiếp tục thuận lợi, thanh khoản thông suốt, VND ổn định hơn nhiều so với đồng tiền của nhiều đối tác thương mại.
NHNN đã xây dựng chỉ tiêu định hướng tín dụng và điều hành tín dụng tăng trưởng phù hợp với các cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào khu vực sản xuất kinh doanh và lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực rủi ro.
Các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu4, thanh tra, giám sát ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống, an ninh tiền tệ, tín dụng được đẩy mạnh và đạt được kết quả đáng khích lệ5; các TCTD nghiêm túc thực hiện các quy định Basel II và nâng cấp chuẩn mực quản trị theo thông lệ quốc tế. Cho đến nay, hầu như toàn bộ hệ thống các TCTD đã được chấn chỉnh, củng cố. Các TCTD phi ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, các tổ chức tài chính vi mô cũng đã cơ cấu lại, hoạt động lành mạnh, đã hạn chế được tín dụng đen. Quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng6; năng lực tài chính của các TCTD được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm7; chất lượng quản trị ngân hàng được cải thiện, các NHTM đang thiết lập bộ máy quản trị doanh nghiệp theo phương thức hiện đại. Vai trò và mối quan hệ của ban điều hành, hội đồng quản trị, cổ đông được quy định theo thông lệ quốc tế về quản trị công ty.
Giai đoạn 2016 - 2020 cũng tiếp tục đánh dấu bước tiến vượt bậc trong sự phát triển của hoạt động thanh toán với nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, tiện ích và hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin. Các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt tăng trưởng ấn tượng; vấn đề đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt được coi trọng và tăng cường; rủi ro và nguy cơ mất an toàn về cơ bản được phát hiện, kiểm soát và xử lý kịp thời; hạ tầng kỹ thuật và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt được đầu tư, nâng cấp, nhất là thanh toán điện tử; xu hướng chuyển dịch rõ nét sang các sản phẩm, dịch vụ có ứng dụng công nghệ mới, hiện đại, tiện ích và thân thiện với người sử dụng; tiếp tục mở rộng thanh toán điện tử trong khu vực dịch vụ công.
Hiện nay, nhiều ngân hàng trong nước đã ứng dụng công nghệ tiên tiến, giải pháp mới vào hoạt động thanh toán nhằm nâng cao tốc độ thanh toán, tăng cường an toàn, bảo mật dịch vụ cung cấp và thông tin khách hàng.
Mặc dù kinh tế thế giới được dự báo là sẽ phục hồi mạnh mẽ từ năm 2021, sau khi hàng loạt công ty dược phẩm quốc tế bắt đầu sản xuất đại trà các loại vaccine phòng, chống Covid-19 và lập kế hoạch phân phát trên phạm vi toàn cầu, song, diễn biến dịch bệnh trong những tháng đầu năm 2021 vẫn phức tạp với số ca nhiễm và tử vong tiếp tục tăng cao trước sự tấn công của những biến thể virus mới với khả năng kháng thuốc và tốc độ lây nhiễm rất cao. Trong khi đó, thế giới còn chậm trễ trong việc sản xuất và phân phối vaccine. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải theo dõi sát sao diễn biến đại dịch Covid-19 trên thế giới và nguy cơ lan truyền vào đất nước, qua đó có thể đưa ra chính sách và giải pháp phù hợp cho quá trình phục hồi kinh tế quốc gia hậu Covid-19.
Trước tình hình như vậy, NHNN cần tiếp tục thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, theo dõi sát sao các diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ trong nước và thế giới, làm cơ sở để kịp thời đề xuất các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và những chính sách vĩ mô khác để ổn định giá trị đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đề ra.
Hai là, hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tăng cường thực thi các cam kết quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cá nhân và nền kinh tế khôi phục sau đại dịch.
Ba là, kiên trì thực hiện các giải pháp chống đô la hóa và quản lý thị trường vàng theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, đảm bảo và duy trì ổn định bền vững trên thị trường vàng, hạn chế tác động của giá vàng đến sự ổn định của tỉ giá, thị trường ngoại hối và tình hình kinh tế vĩ mô.
Bốn là, thực hiện các giải pháp về cho vay nhằm kiểm soát quy mô tín dụng ở mức hợp lý, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và quá trình phục hồi kinh tế. Thực hiện các giải pháp hỗ trợ TCTD mở rộng cho vay có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng của đại dịch.
Năm là, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD, nhất là đối với những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt, có hiệu quả Đề án tái cơ cấu gắn với phương án xử lý nợ xấu đã được phê duyệt, tích cực triển khai các giải pháp kiểm soát và hạn chế nợ xấu phát sinh. Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD.
Sáu là, triển khai Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021 - 2025, thúc đẩy thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ và dịch vụ công. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường cạnh tranh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ các kế hoạch của NHNN về cải cách hành chính, tiếp tục hoàn thiện kiến trúc Chính phủ điện tử của NHNN theo phiên bản Chính phủ điện tử 2.0.
Tóm lại, trong 35 năm đổi mới và hội nhập, mặc dù vẫn còn một số khó khăn và hạn chế, song ngành Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, đã có những đóng góp rất lớn cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động, dẫn dắt thị trường, từng bước chuyển từ cơ chế điều tiết theo khối lượng sang điều hành theo lãi suất. NHNN đã thực hiện công bố định hướng điều hành lãi suất và triển khai đồng bộ các biện pháp để đạt mục tiêu là giảm dần mặt bằng lãi suất, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hộ dân; tiến hành điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất điều hành, kết hợp với áp dụng biện pháp hành chính phù hợp theo diễn biến thị trường.
Chính sách tỉ giá8 được điều hành khá linh hoạt theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên cơ sở rổ tiền tệ, tỉ giá vì thế đã phản ánh tương đối chính xác sức mua của VND và tương quan giữa VND với các loại ngoại tệ của các nước có quan hệ thương mại, đầu tư và tín dụng với Việt Nam. Việc điều chỉnh tỉ giá linh hoạt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM và NHNN tăng mua ngoại tệ từ thị trường, đáp ứng phần lớn các nhu cầu ngoại tệ của khách hàng và đảm bảo mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, giúp bảo đảm an ninh tài chính tiền tệ quốc gia và củng cố mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.
Với những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam liên tục phát triển và ngày càng vững mạnh; phương thức quản lý, điều hành và khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng hoàn thiện dần theo hướng thông thoáng, minh bạch hơn, là nền tảng quan trọng cho sự phát triển lành mạnh, hiệu quả và bền vững hơn của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới.
1 Tăng lãi suất tiết kiệm, duy trì lãi suất thực dương cao hơn lạm phát: Tiền gửi không kỳ hạn 9%/tháng (lạm phát 8%/tháng); kỳ hạn tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng; lãi suất cho vay từ 15 - 18%/tháng.
2 Từ 2007 - 2010, CPI tăng bình quân mỗi năm là 12,6%.
3 Vào các ngày 17/3/2020, 13/5/2020 và 01/10/2020.
4Theo Đề án 1058 và Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD.
5 Tỉ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD qua các năm 2016 là 2,46%; năm 2017 là 1,99%, năm 2018 là 1,91%, năm 2019 là 1,63% và đến tháng 7/2020 là 1,92%.
6Đến cuối tháng 8/2020, tổng tài sản đạt gần 13 triệu tỉ đồng, tăng 52,1% so với cuối năm 2016.
7Tăng gần 29% so với cuối năm 2016.
8 Từ ngày 04/01/2016, bắt đầu thực hiện theo tỉ giá trung tâm của VND với USD, tỉ giá tính chéo của VND với một số loại ngoại tệ khác.
Tài liệu tham khảo:
1. Cổng thông tin điện tử NHNN.
2. Cổng thông tin điện tử Chính phủ.
Nguyễn Đức Long
Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê, NHNN
Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021