admin Bảo đảm khoản vay bằng tài sản của bên thứ ba: từ quy định pháp luật đến thực tiễn áp dụng
21/10/2020 10:08 40.365 lượt xem
Khi cấp tín dụng, thông thường tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ nhận bảo đảm bằng tài sản của bên được cấp tín dụng. Trong một số trường hợp, TCTD lại mong muốn có các bên khác đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
Trong thực tế hiện nay, việc một bên dùng tài sản của mình để bảo đảm cho khoản vay hay khoản tín dụng được cấp của một bên khác khá phổ biến. Tuy nhiên, khuôn khổ pháp lý về biện pháp bảo đảm này còn khá sơ lược và vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các TCTD. Bài viết tập trung phác họa các nét lớn của biện pháp bảo đảm này, đồng thời đưa ra một số gợi ý hoàn thiện quy định hiện hành.
 
Giá trị pháp lý
 
Giá trị pháp lý của biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba được công nhận một cách gián tiếp tại Điều 309 và khoản 1 Điều 317 của Bộ luật dân sự. Thực vậy, các điều luật này chỉ quy định chung là bên bảo đảm (là bên cầm cố hay bên thế chấp) có thể cầm cố hay thế chấp tài sản của mình để “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, mà không chỉ rõ nghĩa vụ đó có phải chỉ là nghĩa vụ của bên cầm cố hay bên thế chấp hay không. Cho nên, có thể hiểu là nghĩa vụ được bảo đảm (tức là khoản vay hay khoản tín dụng được cấp) không nhất thiết phải là nghĩa vụ của bên bảo đảm.
 
Cũng cần lưu ý, trong một phiên bản của dự thảo Bộ luật dân sự trước khi được thông qua vào năm 2015, khi định nghĩa về cầm cố và thế chấp, đã có quy định rõ rằng nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ của bên cầm cố/thế chấp hay của một bên khác. Tiếc là đến khi Bộ luật dân sự được thông qua, quy định này đã không được giữ lại, khiến cho định nghĩa về cầm cố và thế chấp mới vẫn chưa thể hiện một quan điểm rõ ràng của người làm luật về giá trị pháp lý của biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba.
 
Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 07/2019/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 25 tháng 11 năm 2019 hướng dẫn một số nội dung về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 01 năm 2020) quy định rõ ràng hơn là có thể đăng ký thế chấp bất động sản “đối với các trường hợp thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên thế chấp, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của người khác hoặc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của cả bên thế chấp và của người khác”. Điều đó có nghĩa là Bộ Tư pháp là “tác giả” của thông tư này - đã thừa nhận biện pháp thế chấp bằng bất động sản của người thứ ba. Cách tiếp cận này thừa hưởng quy định của khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT ngày 23 tháng 6 năm 2016 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.
 
Thực tiễn áp dụng 
 
Do quy định pháp luật còn chưa thực sự rõ ràng nên dẫn đến việc trong thực tế áp dụng vẫn còn một số vấn đề vướng mắc liên quan đến biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba.
 
Cho đến thời điểm hiện nay, một số Tòa án vẫn tuyên hợp đồng bảo đảm (mà phổ biến hơn cả là hợp đồng thế chấp) tài sản của bên thứ ba vô hiệu với lý do là chưa được pháp luật hiện hành thừa nhận. Theo quan điểm của các Tòa án này thì chỉ có thể cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba trong quan hệ bảo lãnh - giao dịch được công nhận rõ ràng tại khoản 3 Điều 336 của Bộ luật dân sự [1]. Tức là nếu muốn nhận tài sản bảo đảm từ bên thứ ba thì TCTD trước hết phải nhận bảo lãnh từ bên thứ ba này và sau đó, bên thứ ba này sẽ thế chấp hay cầm cố tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh.
 
Thực ra, cách tiếp cận này chưa hợp lý bởi đây là hai loại giao dịch bảo đảm khác nhau. Có thể tổng hợp sự khác biệt chính giữa việc cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba và việc cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh như sau:
 
 
Thêm vào đó, một số Tòa án vẫn coi bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là bảo lãnh. Về điểm này, có thẩm phán nhận định “pháp luật cũng chưa làm rõ trong trường hợp khi ngân hàng cho vay, bên vay nhờ bên thứ ba đưa tài sản để đảm bảo nghĩa vụ dân sự, hợp đồng giữa bên thứ ba này và ngân hàng là hợp đồng gì, hợp đồng bảo lãnh hay hợp đồng thế chấp” [2]. Ngay cả từ phía một số TCTD, vẫn có cách hiểu chưa thực sự phù hợp về biện pháp bảo đảm này. Chẳng hạn, mẫu hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba của một số TCTD vẫn gọi bên vay hay bên được cấp tín dụng là “bên được bảo đảm”, tương tự như cách gọi “bên được bảo lãnh” trong quan hệ bảo lãnh. Cách gọi tên như thế có nguy cơ gia tăng rủi ro Tòa án coi biện pháp bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba đó là bảo lãnh.
 
Thực ra, dù bảo lãnh và bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba đều là biện pháp bảo đảm được xác lập bởi bên khác không phải là bên vay hay bên được cấp tín dụng nhưng đây rõ ràng là hai biện pháp bảo đảm khác nhau. Bảo lãnh là cam kết bằng uy tín của bên bảo lãnh về việc trả nợ thay và bên bảo lãnh không bắt buộc phải dùng tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh để bảo lãnh có hiệu lực. Tức là về nguyên tắc, quyền của bên nhận bảo lãnh sẽ được xác lập trên toàn bộ khối tài sản của bên bảo lãnh. Trong khi đó, biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba sẽ giới hạn nghĩa vụ trả nợ thay của bên bảo đảm trong phạm vi giá trị của một hay một số tài sản nhất định được sử dụng để bảo đảm.
 
Việc tồn tại song song hai loại biện pháp bảo đảm này sẽ giúp các bên có thêm sự lựa chọn mức độ ràng buộc trách nhiệm mà mình cam kết. Chẳng hạn, nếu bên bảo đảm chỉ muốn giới hạn nghĩa vụ trả nợ thay của mình ở giá trị của tài sản bảo đảm thì sẽ lựa chọn ký hợp đồng thế chấp hay cầm cố tài sản này để bảo đảm trực tiếp khoản vay thay vì bảo lãnh.
 
Cần lưu ý là bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba được công nhận rộng rãi trong các nền pháp luật tiên tiến như Anh, Pháp hay Úc.
 
Cơ chế bảo vệ bên bảo đảm
 
Đến thời điểm hiện tại, các tranh luận liên quan đến biện pháp bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba dường như chỉ tập trung vào việc TCTD nhận biện pháp bảo đảm này thì có rủi ro hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu hay không, mà vô tình bỏ qua một khía cạnh khác cũng không kém phần quan trọng là làm thế nào để bảo vệ hiệu quả bên bảo đảm, nhất là khi bên này thường không nhận được lợi ích gì (đặc biệt về mặt thương mại) khi đưa tài sản của mình vào bảo đảm cho khoản vay của một bên khác.
 
Khi bên bảo đảm là doanh nghiệp thì rõ ràng là bên này có ít, thậm chí không có được lợi ích nào từ việc đưa tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ của một bên khác mà ngược lại, sẽ phải đối diện với rủi ro là tài sản này có thể bị xử lý nếu bên này vi phạm nghĩa vụ hoàn trả đối với TCTD. Điểm b khoản 1 Điều 14 Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 (Luật doanh nghiệp) quy định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không được “sử dụng tài sản của doanh nghiệp để […] phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác”. Như vậy, về nguyên tắc, nếu người đại diện theo pháp luật của công ty xác lập hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của công ty để bảo đảm cho nghĩa vụ của một bên khác (dù là cá nhân hay tổ chức) mà không chứng minh được lợi ích của giao dịch này đối với công ty thì giao dịch bảo đảm này có nguy cơ vô hiệu do vi phạm quy định này được hiểu là điều cấm của luật (Điều 123 của Bộ luật dân sự [3]). Lợi ích trong việc công ty mẹ bảo đảm khoản vay của công ty con có thể được giải thích là nếu công ty con sử dụng khoản vay để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì có thể tạo ra dòng tiền và lợi nhuận cho công ty con và với tư cách là bên góp vốn, công ty mẹ cũng sẽ được hưởng lợi. Trong trường hợp hai doanh nghiệp độc lập với nhau thì lợi ích của giao dịch bảo đảm có thể đến từ việc doanh nghiệp vay đồng ý sẽ xác lập giao dịch khác với bên bảo đảm để đổi lại việc (hay như là điều kiện để) bên bảo đảm đứng ra bảo đảm khoản vay cho mình. Một số ý kiến cho rằng, nếu giao dịch bảo đảm này được chủ sở hữu, hội đồng thành viên, hội đồng quản trị hay đại hội đồng cổ đông công ty chấp thuận thì sẽ tránh được nguy cơ vô hiệu này. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp không quy định về ngoại lệ này cho nên nhận định này không thực sự có cơ sở. 
 
Tuy vậy, điều đáng nói là dường như Luật doanh nghiệp đưa ra một quy định cấm quá rộng và cần được xem xét lại. 
 
Như một biện pháp bảo toàn vốn, pháp luật của một số nước như Anh hay Singapore chỉ cấm việc công ty đại chúng không được hỗ trợ tài chính (financial assistance) cho một bên khác mua cổ phần của chính công ty đại chúng này. Biện pháp hỗ trợ tài chính này có thể là bảo lãnh hay xác lập biện pháp bảo đảm khác, cho tặng tài sản hoặc cho vay vốn… Rất tiếc là dự thảo Luật doanh nghiệp sửa đổi mới được công bố gần đây không đề xuất bất cứ thay đổi nào đối với quy định này. 
Ngoại trừ quy định nêu trên của Luật doanh nghiệp, pháp luật hiện hành vẫn bỏ ngỏ một số khía cạnh liên quan đến việc bảo vệ bên bảo đảm là bên thứ ba dùng tài sản của mình để bảo đảm khoản vay cho người khác. Thiết nghĩ, nên có các quy định giúp bảo vệ bên bảo đảm đặc biệt này, chẳng hạn như công nhận quyền của bên bảo đảm được yêu cầu bên vay thực hiện hoàn trả cho mình trong phạm vi giá trị tài sản bảo đảm đã bị TCTD xử lý hay số tiền mà bên bảo đảm đã trả cho TCTD trong trường hợp rút lại tài sản bảo đảm. Đây cũng chính là cách tiếp cận của nhiều nền pháp luật tiên tiến trên thế giới như Anh hay Pháp. Trong khi chờ đợi quy định mới, bên bảo đảm nên có thỏa thuận bằng văn bản với bên vay về việc hoàn trả này trước khi ký hợp đồng bảo đảm với TCTD.
 
Thêm vào đó, ngay từ khi xác lập hợp đồng bảo đảm, bên bảo đảm cũng cần cân nhắc rõ phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, nhất là khi hợp đồng bảo đảm được xác lập để bảo đảm cho các khoản vay đã giải ngân trước thời điểm ký hợp đồng bảo đảm [4] hay cho các khoản vay trong tương lai giữa bên vay và TCTD nhận bảo đảm.
 
Từ các phân tích ở trên có thể thấy, hành lang pháp lý về bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba vẫn tiềm ẩn một số khoảng trống, hạn chế nhất định và vẫn tiềm ẩn rủi ro pháp lý cả cho TCTD lẫn bên bảo đảm.  Đối với các TCTD, việc chuẩn bị hồ sơ tài sản bảo đảm và xác lập bảo đảm một cách cẩn trọng sẽ góp phần giúp hạn chế tại nguồn các tranh chấp có thể phát sinh.

__________________
 
[1] Theo điều luật này, “các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ 
bảo lãnh”.
[2] Lê Thanh Phong, “Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và các tranh chấp dân sự khác trong lĩnh vực ngân hàng tại TAND thành phố Hồ Chí Minh”, Tham luận Hội thảo “Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân” do Hiệp hội Ngân hàng phối hợp với Tòa án Nhân dân Tối cao tổ chức ngày 4 tháng 10 năm 2019 tại thành phố Hội An, Đà Nẵng.
[3] Điều 123 Bộ luật dân sự: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật […] thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.
[4] Trong trường hợp này, TCTD cũng nên quy định rõ tài sản bảo đảm được dùng để bảo đảm cho khoản vay cụ thể nào phát sinh trước thời điểm xác lập hợp đồng bảo đảm để tránh nguy cơ vô hiệu do không quy định rõ nghĩa vụ được 
bảo đảm.

TS. Bùi Đức Giang

Theo TCNH số 7/2020
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Giải pháp về giáo dục tài chính cho trẻ em của các ngân hàng thương mại
Giải pháp về giáo dục tài chính cho trẻ em của các ngân hàng thương mại
07/10/2024 08:06 96 lượt xem
Trong những năm gần đây, vấn đề dân trí tài chính đã trở thành một mối quan tâm lớn tại Việt Nam. Dân trí tài chính là khả năng hiểu biết và áp dụng các kiến thức tài chính trong cuộc sống hằng ngày, giúp cá nhân quản lý tài sản, lập kế hoạch tài chính và đưa ra các quyết định đầu tư một cách hiệu quả.
Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam
Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam
01/10/2024 10:00 381 lượt xem
Kinh tế xanh là sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính cá nhân
Tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính cá nhân
27/09/2024 10:24 547 lượt xem
Bài viết nghiên cứu về tác động của khoản vay mua nhà đến quản lí tài chính của khách hàng cá nhân có vay vốn mua nhà tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Xây dựng khung chiến lược quản lý rủi ro quốc gia nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Xây dựng khung chiến lược quản lý rủi ro quốc gia nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
23/09/2024 09:30 704 lượt xem
Tần suất dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào và ra khỏi một nền kinh tế cụ thể cùng với biến động quy mô dòng vốn này thường xuyên chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố liên quan đến tính ổn định của môi trường kinh tế - chính trị quốc gia...
Tác động của tín dụng xanh đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam: Vai trò điều tiết của quy mô ngân hàng
Tác động của tín dụng xanh đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam: Vai trò điều tiết của quy mô ngân hàng
20/09/2024 10:40 1.295 lượt xem
Trong bối cảnh mở rộng và thúc đẩy tăng trưởng xanh, tín dụng xanh đang dần trở thành lĩnh vực kinh doanh tiềm năng mà các tổ chức tín dụng ngày càng quan tâm.
Phát triển thanh toán qua kênh điện thoại di động ở Việt Nam hiện nay
Phát triển thanh toán qua kênh điện thoại di động ở Việt Nam hiện nay
16/09/2024 08:14 1.052 lượt xem
Bài viết nghiên cứu sự phát triển của thanh toán qua kênh ĐTDĐ ở Việt Nam trong những năm gần đây, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế trong thanh toán qua kênh ĐTDĐ thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động thanh toán qua kênh ĐTDĐ tại Việt Nam trong thời gian tới.
Các biến thể tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương và những tác động lên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương
Các biến thể tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương và những tác động lên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương
10/09/2024 08:28 1.076 lượt xem
Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của tiền điện tử đã mở đường cho sự ra đời và phát triển tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC.
Tác động của rủi ro địa chính trị và bất ổn chính sách kinh tế thế giới đến giá thị trường của cổ phiếu tại Việt Nam
Tác động của rủi ro địa chính trị và bất ổn chính sách kinh tế thế giới đến giá thị trường của cổ phiếu tại Việt Nam
06/09/2024 11:22 2.095 lượt xem
Trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng kết nối chặt chẽ, thị trường chứng khoán (TTCK) không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trong nước mà còn bởi các sự kiện và chính sách quốc tế.
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ ngân hàng số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Đánh giá từ phía ngân hàng
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng dịch vụ ngân hàng số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Đánh giá từ phía ngân hàng
30/08/2024 08:01 1.590 lượt xem
Hiện nay, dịch vụ ngân hàng số là xu hướng phát triển tất yếu của các ngân hàng thương mại (NHTM). Đứng trước xu thế phát triển tất yếu này, các NHTM cần nhanh chóng nắm bắt cơ hội, thay đổi nhận thức trong xây dựng chiến lược kinh doanh của mình, hướng đến lấy khách hàng làm trung tâm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và nâng cao trải nghiệm của khách hàng.
Khi Việt Nam được công nhận là nền kinh tế thị trường
Khi Việt Nam được công nhận là nền kinh tế thị trường
29/08/2024 09:21 1.307 lượt xem
Việc Việt Nam được xem xét công nhận quy chế kinh tế thị trường góp phần cải thiện hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, giúp tháo gỡ nhiều trở ngại và rào cản, tạo sự bình đẳng và giảm thiểu các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước khác đối với Việt Nam trong các mối quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư.
Biến đổi khí hậu, chính sách khí hậu và một số khuyến nghị
Biến đổi khí hậu, chính sách khí hậu và một số khuyến nghị
28/08/2024 11:00 1.205 lượt xem
Bài viết này tổng hợp một số nghiên cứu kinh tế để xác định tác động của biến đổi khí hậu đến kinh tế trong trung hạn và dài hạn.
Ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu đến dòng vốn FDI vào Việt Nam và một số khuyến nghị chính sách
Ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu đến dòng vốn FDI vào Việt Nam và một số khuyến nghị chính sách
26/08/2024 09:22 1.214 lượt xem
Nghiên cứu này đánh giá tác động Thuế tối thiểu toàn cầu (GMT) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam và đề xuất các giải pháp chính sách phù hợp.
Đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020
Đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020
16/08/2024 07:06 1.338 lượt xem
Bài viết nghiên cứu quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN), đưa ra những phân tích, đánh giá, chỉ ra những điểm tiến bộ cũng như những tồn tại, hạn chế trong các quy định của pháp luật
Mô hình kinh doanh và tác động tới khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam
Mô hình kinh doanh và tác động tới khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam
14/08/2024 08:09 1.699 lượt xem
Mô hình kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong hoạt động doanh nghiệp. Một cách tổng quát, mô hình kinh doanh mô tả cách một doanh nghiệp tạo ra và phân phối giá trị (Osterwalder và Pigneur, 2010).
Phát triển dịch vụ mua trước trả sau tại thị trường Việt Nam: Cơ hội và thách thức
Phát triển dịch vụ mua trước trả sau tại thị trường Việt Nam: Cơ hội và thách thức
08/08/2024 07:50 1.911 lượt xem
Dịch vụ mua trước trả sau không chỉ là dịch vụ mới nổi tại Việt Nam mà còn là một xu hướng toàn cầu, có nguồn gốc từ sự phát triển của công nghệ thanh toán và tín dụng tiêu dùng.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

82.000

84.000

Vàng SJC 5c

82.000

84.020

Vàng nhẫn 9999

82.000

83.300

Vàng nữ trang 9999

81.950

83.000


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,550 24,920 26,604 28,064 31,668 33,015 163.07 172.56
BIDV 24,580 24,920 26,828 28,045 32,079 33,022 165.6 172.99
VietinBank 24,578 24,918 26,859 28,059 32,139 33,149 165.46 173.21
Agribank 24,570 24,930 26,777 28,005 31,882 33,001 164.72 173.02
Eximbank 24,520 24,980 26,795 27,806 31,943 33,105 166.07 172.35
ACB 24,560 24,920 26,840 27,772 32,108 33,091 165.78 172.4
Sacombank 24,580 24,920 26,852 27,824 32,039 33,191 166.17 173.18
Techcombank 24,560 24,951 26,679 28,031 31,738 33,083 162.54 175.04
LPBank 24,365 25,090 26,732 28,383 32,170 33,181 164.34 176.25
DongA Bank 24,600 24,910 26,830 27,720 32,030 33,010 164.10 171.70
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?