Vai trò của Ngân hàng Hợp tác xã trong hỗ trợ tài chính đối với khu vực kinh tế tập thể
29/11/2022 2.328 lượt xem
Khu vực kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) từ lâu đã trở thành một thành phần không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật HTX năm 2012 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012 có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả KTTT, tiếp cận gần hơn với bản chất, giá trị, nguyên tắc của HTX trên thế giới. Tuy nhiên, với nguồn lực tài chính còn thiếu và yếu, khu vực KTTT chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của nền kinh tế. Cùng chung với những khó khăn đó, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (NHHTX) luôn cố gắng vượt khó để vươn lên, chung tay hỗ trợ các Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) và khu vực KTTT ngày càng lớn mạnh, nhằm nâng cao đời sống kinh tế hộ thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị, xã hội.
 
1. Khái quát thực trạng phát triển của mô hình KTTT, HTX 
 
Sau 10 năm triển khai, Luật HTX năm 2012 đã phát huy vai trò tích cực thúc đẩy KTTT phát triển, đi vào chiều sâu; nhận thức trong hệ thống chính trị các tầng lớp nhân dân về KTTT, HTX đã được nâng cao, có bước phát triển cả về số lượng cũng như chất lượng. Nhiều mô hình HTX kiểu mới ra đời, không chỉ năng động, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm mà còn bước đầu tạo được sự liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, khẳng định được thương hiệu, uy tín trên thị trường, nâng cao thu nhập cho thành viên và người lao động, thể hiện được vai trò của kinh tế HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện có hiệu quả chính sách “tam nông”, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh việc phát triển năng lực để tự mình vươn lên thì các tổ chức KTTT, HTX đã nhận được sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Nhà nước và Chính phủ thông qua việc ban hành các chính sách như: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý HTX và các kiến thức cần thiết cho xã viên; chính sách đất đai, chính sách mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống… Từ đó, HTX từng bước hoạt động ổn định, bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác, đóng góp tích cực vào công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững.
 
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng trong những năm vừa qua, KTTT, HTX phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của nền kinh tế. Năng lực nội tại của khu vực KTTT, HTX còn yếu, phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà nước, ít có khả năng tự huy động nguồn lực từ thị trường để tăng cường năng lực cũng như chuyển đổi số. Việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi để thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đai để mở mang nhà xưởng, hạng mục công trình của khu vực KTTT, HTX còn rất khó khăn. Nhiều HTX, liên hiệp HTX đang ở trong tình trạng khó khăn kéo dài, cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ công nghệ lạc hậu.
 
Đặt trong bối cảnh khó khăn chung của khu vực KTTT, các tổ chức tín dụng (TCTD) là HTX gồm NHHTX và QTDND với năng lực tài chính hạn chế, đang phải cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tài chính khác trên thị trường. Dù vậy, NHHTX với vai trò là ngân hàng của các QTDND đã luôn ưu tiên hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn trong hệ thống QTDND, đóng góp một phần không nhỏ trong việc hỗ trợ tài chính cho các loại hình KTTT khác trong cả nước nhằm nâng cao đời sống kinh tế hộ thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị đất nước nói chung, khu vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
 
2.  Tổng quan NHHTX với khu vực KTTT, HTX
 
2.1. Sự hình thành và phát triển của NHHTX
 
Xuất phát từ những đòi hỏi khách quan và thực tiễn của thị trường vốn phát triển sản xuất của khu vực nông nghiệp, nông thôn, từ những năm đầu của thập niên 1990, Chính phủ đã có chủ trương xây dựng, thiết lập mô hình tín dụng hợp tác mới, phù hợp với nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Ngày 27/7/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 390/TTg cho phép triển khai Đề án thí điểm thành lập hệ thống QTDND 3 cấp: QTDND Trung ương, QTDND khu vực và QTDND cơ sở. Ngày 05/8/1995, QTDND Trung ương khai trương hoạt động với vai trò là đơn vị đầu mối hỗ trợ điều hòa vốn và thực hiện chức năng liên kết trong toàn hệ thống QTDND. Đây là một trong những bước đi đầu tiên cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn và chủ trương đa dạng hóa các loại hình TCTD trong hoạt động ngân hàng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thí điểm hệ thống QTDND ở một số nơi đã bộc lộ những yếu kém và khuyết điểm cần phải củng cố, chấn chỉnh; mô hình tổ chức QTDND chưa hoàn thiện, chưa có sự liên kết chặt chẽ trong hệ thống để hỗ trợ nhau ổn định và phát triển bền vững; trình độ cán bộ quản lý, điều hành còn nhiều yếu kém… Do đó, ngày 10/10/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 57-CT/TW và ngày 28/11/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND. Trên cơ sở đó, hệ thống QTDND đã chuyển đổi mô hình 3 cấp sang 2 cấp với QTDND Trung ương và QTDND cơ sở. Sau khi chuyển đổi, tính liên kết hệ thống ngày càng chặt chẽ, với sự trợ giúp trực tiếp của QTDND Trung ương đối với các QTDND cơ sở, hoạt động hệ thống QTDND có bước phát triển mạnh mẽ cả về năng lực tài chính và quy mô hoạt động, uy tín trong xã hội được tăng lên.
 
Thực hiện Luật Các TCTD năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010), Luật HTX năm 2012 (Luật số 23/2012/QH13 ngày 20/11/2012) và Quyết định số 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2011 - 2015”, QTDND Trung ương tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình hoạt động thành NHHTX vào tháng 7/2013. Theo đó, NHHTX là ngân hàng của tất cả các QTDND, do các QTDND và một số pháp nhân góp vốn thành lập theo quy định của Luật Các TCTD, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn cho hệ thống các QTDND thành viên; NHHTX và QTDND được thành lập, tổ chức dưới hình thức HTX. (Hình 1)

Hình 1: Mô hình cơ cấu tổ chức NHHTX

Nguồn: Cổng thông tin điện tử NHHTX
 
2.2. Vai trò của NHHTX đối với hệ thống QTDND
 
Là ngân hàng của các QTDND và là một trong những loại hình KTTT, HTX đặc trưng của nền kinh tế, NHHTX đang tích cực phát huy vai trò đầu mối trong công tác hỗ trợ, chăm sóc QTDND, cụ thể:
 
- Nhận tiền gửi điều hòa vốn, cho vay điều hòa vốn đối với các QTDND thành viên theo Quy chế điều hòa vốn; điều hành cơ chế lãi suất gửi vốn điều hòa trên nguyên tắc đảm bảo cho các QTDND có thể bù đắp đủ chi phí và có lãi.
 
- Hỗ trợ khả năng thanh khoản kịp thời cho các QTDND trong những trường hợp cần thiết, tư vấn QTDND về lãi suất cho vay, huy động phù hợp và các giải pháp nhằm hỗ trợ các QTDND khắc phục khó khăn, trở lại hoạt động bình thường.
 
- Tham gia hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các QTDND và hỗ trợ xử lý các QTDND yếu kém cùng với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).
 
- Quản lý và sử dụng hiệu quả Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND (quỹ tài chính thuộc sở hữu chung của thành viên, bao gồm NHHTX và QTDND) (Quỹ bảo toàn) nhằm hỗ trợ cho vay các QTDND gặp khó khăn về tài chính, khó khăn chi trả và cho vay đặc biệt để khắc phục trở lại hoạt động bình thường.
 
- Triển khai nâng cấp các phần mềm tin học, phát triển hệ thống công nghệ thông tin, nghiên cứu và phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại để cung cấp cho các QTDND thành viên và triển khai đến người dân tại khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa khó tiếp cận được với các dịch vụ ngân hàng.
 
- Tăng cường liên kết với các thành viên trong hệ thống thông qua công tác điều hòa vốn, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cho các QTDND và công tác hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ, đào tạo cán bộ, tư vấn trong hoạt động… nhằm hỗ trợ các QTDND hoạt động ổn định, an toàn.
 
- Thực hiện các hoạt động hỗ trợ khác đảm bảo cho hệ thống QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả như cung cấp sổ tiết kiệm trắng cho QTDND; hỗ trợ về công tác kiểm toán nội bộ, nhân sự của QTDND khi có yêu cầu.
 
Với sự trợ giúp tích cực của NHHTX, hoạt động của hệ thống QTDND đã thực sự tạo ra một kênh tín dụng thuận tiện, cung cấp cho hơn 1,8 triệu thành viên, các cá nhân, hộ gia đình nông dân trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn; khẳng định hướng đi đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển mô hình kinh tế hợp tác trong lĩnh vực tín dụng. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 18/3/2002 về KTTT và tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã kết luận: “Đã xuất hiện thêm nhiều loại hình, mô hình KTTT, HTX hoạt động hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trong đó mô hình hoạt động có hiệu quả nhất là hệ thống QTDND (với 1.181 quỹ hoạt động trên 57/63 tỉnh, thành phố, hơn 1,8 triệu thành viên)” (Thông báo số 67/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ năm 2022). Điều này cho thấy, NHHTX đã phát huy tốt vai trò đầu mối, hỗ trợ các QTDND phát triển ổn định, hiệu quả; được Chính phủ và Nhà nước công nhận.
 
2.3. Vai trò của NHHTX đối với các tổ chức KTTT khác
 
Bên cạnh chức năng chủ yếu là đơn vị đầu mối của hệ thống QTDND, NHHTX đã phát triển các sản phẩm, dịch vụ nhằm cung cấp vốn cho người dân ở khu vực nông nghiệp, nông thôn theo định hướng của Đảng, Chính phủ về lĩnh vực ưu tiên phát triển để hỗ trợ người dân, hộ kinh doanh, hộ gia đình, HTX tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi để mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống, đẩy lùi nạn tín dụng đen, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội tại khu vực nông nghiệp, nông thôn, địa bàn vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Tạo được lòng tin và sự đồng tình ủng hộ của người dân và chính quyền sở tại. Lấp đầy “khoảng trống” thị trường cung cấp dịch vụ tài chính, tín dụng nhỏ, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, thanh toán không dùng tiền mặt tới các vùng sâu, vùng xa, nơi khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng, góp phần không nhỏ thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.
 
3. Một số kết quả thực hiện công tác hỗ trợ tài chính đối với QTDND và các loại hình tổ chức KTTT khác giai đoạn 2013 - 2022
 
3.1. Kết quả thực hiện công tác hỗ trợ tài chính của NHHTX đối với QTDND
 
3.1.1. Hỗ trợ tài chính thông qua việc thực hiện nhiệm vụ điều hòa vốn, hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ lãi suất... cho hệ thống QTDND
 
Công tác điều hòa vốn
 
NHHTX đã làm tốt vai trò là ngân hàng đầu mối của các QTDND, cung ứng vốn và nhận tiền gửi điều hòa từ QTDND, giúp QTDND sử dụng hiệu quả đồng vốn nhàn rỗi tạm thời cũng như hỗ trợ tối đa nhu cầu về vốn để cho vay thành viên phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh; lãi suất nhận tiền gửi điều hòa vốn luôn ưu đãi hơn so với lãi suất huy động tiền gửi từ dân cư và tổ chức kinh tế cùng kỳ hạn; đa dạng các kỳ hạn gửi tiền... do vậy, đã khuyến khích các QTDND tích cực huy động vốn từ thành viên để gửi NHHTX.
 
Đồng thời, nhằm bảo đảm nguồn vốn hỗ trợ cho các QTDND phát triển, kịp thời cung cấp vốn cho thành viên mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh, NHHTX luôn cân đối nguồn vốn phù hợp, ưu tiên nguồn vốn với lãi suất ưu đãi để cho vay điều hòa vốn các QTDND, 100% nhu cầu vay vốn của các QTDND đang hoạt động bình thường, an toàn, hiệu quả, có nhu cầu bổ sung nguồn vốn để hoạt động đều được NHHTX đáp ứng.
 
Theo báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của NHHTX, từ năm 2013 đến nay, dư nợ cho vay của NHHTX đối với QTDND trong khoảng từ 4.000 đến 7.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 2,46%/năm - thấp hơn so với nguồn tiền gửi điều hòa của QTDND vào NHHTX. Điều này chứng tỏ với sự hỗ trợ của NHHTX, hệ thống QTDND đã có sự phát triển đáng kể về năng lực tài chính, chất lượng cán bộ và trình độ quản lý; củng cố được vị thế của mình trên địa bàn, đem lại sự tin tưởng cho các thành viên gửi tiền nên các QTDND đã tự cân đối được nguồn vốn huy động tại chỗ để cho vay, đồng thời còn dư thừa nguồn vốn gửi về NHHTX (Hình 2).
Hình 2: Biểu đồ cơ cấu điều hòa vốn
                                                                                                                 Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Báo cáo hoạt động của NHHTX qua các năm
 
Hỗ trợ thanh khoản
 
Đối với các QTDND đang hoạt động bình thường khi có nhu cầu vay vốn để chi trả tiền gửi cho khách hàng gửi tiền đều được NHHTX đáp ứng đầy đủ, kịp thời, góp phần tăng uy tín và đảm bảo an toàn trong hoạt động của QTDND. Trong giai đoạn 2013 - 2022, doanh số cho vay QTDND để hỗ trợ chi trả tiền gửi khoảng 5.000 đến 6.000 tỷ đồng. 
 
Hỗ trợ mở rộng tín dụng
 
Với mục tiêu chủ yếu là liên kết bảo đảm an toàn trong hoạt động của hệ thống QTDND, NHHTX luôn chủ động, tích cực hỗ trợ vốn cho các QTDND khi có nhu cầu để QTDND cho vay hỗ trợ thành viên phát triển sản xuất, kinh doanh. Đối với những QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả khi có nhu cầu bổ sung nguồn vốn, NHHTX kịp thời điều chỉnh mức cho vay mở rộng tín dụng vượt mức quy định tại Quy chế điều hòa vốn nhằm hỗ trợ hoạt động, điển hình như QTDND các tỉnh Lâm Đồng, Thái Bình, Nghệ An, Hà Nam, Đắk Lắk, Phú Thọ, Nam Định, Hà Tĩnh, Tây Ninh...
 
Hỗ trợ lãi suất
 
Đối với QTDND gặp khó khăn, đang trong quá trình thực hiện phương án củng cố, chấn chỉnh, NHHTX đã thực hiện miễn, giảm lãi cho vay, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với khoản vay cũ; áp dụng lãi suất thấp hơn lãi suất thông thường đối với các khoản cho vay mới… nhằm hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các QTDND thực hiện có hiệu quả phương án củng cố, chấn chỉnh, qua đó, một số QTDND đã được NHNN chấm dứt tình trạng kiểm soát đặc biệt để trở lại hoạt động bình thường. 
 
Năm 2020, NHHTX đã 06 lần điều chỉnh lãi suất huy động, 03 lần điều chỉnh lãi suất cho vay. Tháng 8/2020, ngay khi dịch Covid-19 bắt đầu bùng phát mạnh, NHHTX đã thực hiện giảm thêm tối đa 1%/năm lãi suất cho vay so với mức lãi suất sàn cho vay (tương ứng mức lãi suất cho vay thấp nhất là 4,8%/năm) để hỗ trợ QTDND vượt qua khó khăn. Trong thời gian này, tiền gửi điều hòa về NHHTX vẫn tăng mạnh lên đến gần 30.000 tỷ đồng, trong khi dư nợ cho vay các QTDND giảm còn hơn 3.000 tỷ đồng.
 
Trong quý IV/2021, NHHTX tiếp tục triển khai chương trình cho vay “Chung tay hỗ trợ thành viên QTDND” với lãi suất thấp nhất chỉ còn 3,5%/năm, giúp cho thành viên của QTDND có cơ hội tiếp cận nguồn vốn giá rẻ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng dư nợ cho vay QTDND trong những tháng cuối năm.
 
Hỗ trợ đối với các QTDND khó khăn, có dấu hiệu mất an toàn theo chỉ đạo của NHNN
 
Thông qua mối liên kết hệ thống, nếu phát hiện QTDND nào có dấu hiệu mất an toàn, NHHTX sẽ tư vấn kịp thời các biện pháp khắc phục, xây dựng phương án củng cố, chấn chỉnh; khẩn trương báo cáo và đề xuất với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, cấp ủy, chính quyền địa phương để có sự phối hợp chỉ đạo kịp thời và triển khai các biện pháp tuyên truyền, giải thích đến khách hàng gửi tiền và thành viên QTDND nhằm ổn định tâm lý, tránh tình trạng người dân đến rút tiền hàng loạt, ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh trật tự và an toàn hệ thống. Đồng thời, NHHTX đã cử hàng trăm cán bộ giữ các chức vụ Phó Giám đốc, Trưởng, Phó Trưởng phòng của NHHTX hỗ trợ các QTDND đang gặp khó khăn đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT, Giám đốc, Kế toán trưởng hoặc tham gia Ban Kiểm soát đặc biệt của QTDND…
 
Bên cạnh đó, NHHTX cho vay xử lý khó khăn về thanh khoản đến QTDND để chi trả tiền gửi cho người gửi tiền ngay sau khi có ý kiến chỉ đạo của NHNN nhằm hỗ trợ các QTDND khắc phục khó khăn. 
 
Trong một số trường hợp cấp bách, các QTDND gặp khó khăn nếu không được tháo gỡ sẽ phát sinh những vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội, NHHTX vẫn sẽ thực hiện cấp hạn mức và cho vay chi trả tiền gửi đối với những QTDND chưa đủ điều kiện theo Quy chế điều hòa vốn nhằm hỗ trợ các QTDND sớm khắc phục khó khăn, trở lại hoạt động bình thường.
 
 Hỗ trợ nhu cầu thanh toán và chi tiêu theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán
 
NHHTX cũng đã triển khai dịch vụ thấu chi tài khoản thanh toán đối với các QTDND thành viên tham gia hệ thống CF-eBank nhằm hỗ trợ nguồn vốn thiếu hụt tạm thời, đáp ứng nhu cầu thanh toán chuyển tiền của thành viên, khách hàng. Từ đầu năm 2022 đến nay, có 397 QTDND được cấp hạn mức thấu chi với tổng số tiền cấp hơn 500 tỷ đồng. Mặt khác, NHHTX cũng triển khai cho vay theo hạn mức thấu chi đối với thẻ ghi nợ cho cán bộ, nhân viên và thành viên của QTDND. Trong 8 tháng đầu năm 2022, NHHTX đã phê duyệt hạn mức thấu chi cho 1.080 khách hàng là cán bộ, nhân viên của 98 QTDND. (Hình 3) 

Hình 3: Kết quả cho vay theo hạn mức thấu chi trên thẻ QTDND
                                                                                                               Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Báo cáo hoạt động của NHHTX 
 
Quản lý, sử dụng Quỹ bảo toàn
 
Ngoài việc thực hiện công tác điều hòa vốn cho QTDND, NHHTX còn đảm nhiệm việc quản lý, sử dụng Quỹ bảo toàn nhằm mục tiêu cho vay hỗ trợ QTDND khi gặp khó khăn về tài chính, khó khăn về chi trả để có thể khắc phục trở lại hoạt động bình thường. Theo Thông tư số 03/2014/TT-NHNN ngày 23/01/2014 của Thống đốc NHNN quy định về Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND và Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về NHHTX, QTDND và Quỹ bảo toàn: Hoạt động của Quỹ bảo toàn không vì mục tiêu lợi nhuận, theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm; NHHTX, QTDND (trừ trường hợp đang bị áp dụng kiểm soát đặc biệt) có trách nhiệm trích nộp phí tham gia đầy đủ, đúng hạn vào Quỹ bảo toàn một năm một lần trước ngày 31/01 của năm tiếp theo. Nguồn vốn nhàn rỗi của Quỹ bảo toàn được sử dụng trên nguyên tắc đảm bảo an toàn nguồn vốn và đáp ứng yêu cầu cho vay hỗ trợ các QTDND, NHHTX không thuộc đối tượng được hỗ trợ cho vay từ Quỹ này. Từ khi thành lập đến nay, Quỹ bảo toàn đã cho vay hỗ trợ hơn 30 QTDND, giúp các QTDND khắc phục khó khăn, trở lại hoạt động bình thường. 
 
3.1.2. Hỗ trợ tài chính thông qua việc dùng tiền và nguồn lực của NHHTX trong việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm khác
 
Cung cấp dịch vụ thanh toán và các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại cho QTDND để triển khai đến các thành viên nhằm tăng lượng thành viên và tăng thu nhập cho QTDND
 
Cùng xu thế chung của thế giới, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh lực tài chính, ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ, các sản phẩm, dịch vụ thanh toán ngày càng tiện lợi đáp ứng yêu cầu của người dân nhất là vùng sâu, vùng xa nơi khó tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng. QTDND với nguồn lực tài chính hạn chế, trình độ công nghệ lạc hậu đang dần khó cạnh tranh với các TCTD và ngân hàng thương mại trong địa bàn, đồng thời, bài toán mở rộng thành viên cũng trở nên nan giải khi mà các dịch vụ hiện đại của các TCTD khác đang ngày càng hút khách. Việc đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin rất tốn kém về cả con người và cơ sở vật chất, vượt ngoài khả năng của các QTDND. Vì vậy, với vai trò đơn vị đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND, NHHTX đang tiếp tục đầu tư, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt; mở rộng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiện ích, tối ưu và an toàn, phù hợp để cung cấp cho các QTDND nhằm tăng cường mối liên kết, chi phí hợp lý; đặc biệt là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại cho thành viên thu nhập thấp ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng như: Dịch vụ ngân hàng điện tử Mobile Banking; chuyển tiền 24/7, thanh toán hóa đơn (điện, nước, Internet...); nộp tiền học phí, thu phí tự động đường bộ (VETC); mở thẻ chíp Co-opbank Napas…
 
Việc NHHTX cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại cho QTDND là rất quan trọng: 
 
(i) Góp phần đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, từ đó thu hút thêm nhiều thành viên gia nhập vào QTDND; (ii) Phát triển sản phẩm, dịch vụ phi tín dụng góp phần nâng cao uy tín và vị thế của QTDND; (iii) Phân tán rủi ro trong hoạt động, thay vì trước đây nguồn thu của QTDND chỉ phụ thuộc vào tín dụng thì giờ đây thông qua việc chia sẻ phí của NHHTX, QTDND có thêm nguồn thu nhập ổn định từ việc đưa các sản phẩm, dịch vụ tới tay thành viên; (iv) Giúp tiết kiệm chi phí, thời gian đi lại cho thành viên QTDND mọi lúc, mọi nơi, xóa nhòa khoảng cách nông thôn - thành thị, thúc đẩy tài chính toàn diện quốc gia; (v) Thúc đẩy quan hệ hợp tác, tiến bộ để ngày càng phát triển trong lĩnh vực ngân hàng. 
 
Hỗ trợ công tác đào tạo
 
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của QTDND được xem là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ QTDND đủ mạnh, vừa có chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý, điều hành, vừa có đạo đức nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu công việc. Chính vì vậy, NHHTX luôn chú trọng tập trung nhân lực, vật lực để đầu tư cho công tác đào tạo nhằm củng cố, nâng cao năng lực cho các cán bộ làm việc tại QTDND, cụ thể: Tổ chức các chương trình liên kết đào tạo liên thông từ trung cấp lên đại học, hình thức vừa học vừa làm dành cho các cán bộ đang làm việc tại QTDND; tập huấn cho cán bộ QTDND trong việc triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại như: E-banking, Ngân hàng điện tử Co-opbank Mobile Banking, mở thẻ thấu chi Co-opbank Napas, hỗ trợ đào tạo nghiệp vụ cho QTDND do NHNN phối hợp Hiệp hội QTDND tổ chức…
 
Thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ khác đảm bảo cho hệ thống QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả. NHHTX luôn chú trọng thực hiện chức trách, nhiệm vụ đối với QTDND như đầu mối tổ chức in ấn, cung ứng sổ tiết kiệm trắng, đảm bảo cho QTDND theo quy định, tư vấn các mặt hoạt động cho QTDND, hỗ trợ về công tác kiểm toán nội bộ, nhân sự của QTDND khi có yêu cầu; triển khai các dự án quốc tế để hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho hệ thống QTDND…
 
3.1.3. Kết quả đạt được
 
Với sự hỗ trợ tích cực của NHHTX, giai đoạn 2013 - 2022, hoạt động của hệ thống QTDND luôn tăng trưởng mạnh mẽ. Mặc dù vậy, NHHTX với nguồn lực tài chính hạn hẹp - đặc biệt là nguồn vốn hạn chế - đang dần gặp khó khăn trong việc hỗ trợ các QTDND thành viên (tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay của NHHTX bằng 1/2 của các QTDND về số tương đối nhưng số tuyệt đối chỉ bằng gần 1/5 so với các QTDND; vốn điều lệ của NHHTX trong 10 năm chỉ tăng 51%, trong khi vốn điều lệ của các QTDND tăng 216%; tổng tài sản của QTDND hơn 167.000 tỷ đồng trong khi tổng tài sản của NHHTX mới hơn 50.000 tỷ đồng...) (Hình 4).
Hình 4: Biểu đồ tăng trưởng vốn điều lệ và tổng tài sản  
                                                                                                                      Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Báo cáo hoạt động của NHHTX qua các năm
 
Hơn thế nữa, trong quá trình hoạt động, NHHTX luôn phải đảm bảo tỷ lệ an toàn theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thêm vào đó, với vai trò là đơn vị đầu mối hệ thống, NHHTX không chỉ đảm bảo các tỷ lệ an toàn cho bản thân NHHTX mà còn phải đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống QTDND, các hoạt động cho vay hỗ trợ đối với QTDND yếu kém, được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của NHNN luôn tiềm ẩn nguy cơ mất vốn cao. Khi QTDND có dấu hiệu mất an toàn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ an toàn của NHHTX. Tuy nhiên, năng lực tài chính hiện nay của NHHTX còn hạn chế, nên việc đảm bảo an toàn cho hệ thống QTDND là vô cùng khó khăn. Ngoài ra, giá trị tài sản cố định quá nhỏ so với các ngân hàng thương mại Nhà nước. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng, phát triển công nghệ thông tin của NHHTX hết sức khó khăn và lạc hậu so với các TCTD khác. Mặc dù vậy, trong những năm qua, NHHTX luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
 
3.2. Kết quả thực hiện công tác hỗ trợ tài chính của NHHTX với các loại hình tổ chức KTTT khác
 
NHHTX luôn chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp về lãi suất và tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân, loại hình HTX khác vay vốn, trong đó tập trung cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình cá nhân, HTX, tổ hợp tác, các dự án, phương án có hiệu quả. Việc tăng trưởng tín dụng của NHHTX được thực hiện theo chỉ tiêu NHNN giao và đúng định hướng ưu tiên của Chính phủ, NHNN cho vay khu vực nông nghiệp, nông thôn, trong đó tập trung cho vay đối với các hộ gia đình, cán bộ, công nhân viên là giáo viên nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đời sống tại khu vực nông thôn. Ngoài việc cho vay trực tiếp đối với khách hàng, NHHTX cũng tích cực triển khai cho vay và giải ngân thông qua các QTDND theo hình thức cho vay liên kết, cho vay hợp vốn. Những đồng vốn này đã góp phần tích cực vào công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống, góp phần an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, hạn chế nạn tín dụng đen tại các vùng nông thôn. Tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của các đối tượng là gia đình, hộ kinh doanh, doanh nghiệp, HTX, liên hiệp HTX... của NHHTX tính đến ngày 31/8/2022 là hơn 16.000 tỷ đồng, chiếm 54% tổng dư nợ toàn hệ thống.
 
Tuy nhiên, nếu chỉ xét riêng về dư nợ cho vay đối với khách hàng là HTX, liên hiệp HTX khác thì vẫn còn rất khiêm tốn và chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
 
4. Những hạn chế và khó khăn của NHHTX
 
Về vốn điều lệ: Năng lực tài chính của NHHTX còn hạn chế (vốn điều lệ quá thấp, hiện mới đạt 3.029 tỷ đồng, tương đương mức tối thiểu theo quy định), gây khó khăn cho NHHTX trong thực hiện vai trò là ngân hàng đầu mối, liên kết, hỗ trợ cho các QTDND thành viên và thực hiện các nhiệm vụ khác được NHNN giao. Do hoạt động của NHHTX không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu mà chủ yếu là hỗ trợ hệ thống QTDND thông qua điều hòa vốn, nhận tiền gửi của các QTDND thành viên với lãi suất cao hơn lãi suất huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế với kỳ hạn tương đương, trong khi cho vay QTDND với lãi suất thấp, dẫn đến lợi nhuận hằng năm không cao, vì vậy, tỷ lệ chia cổ tức cũng rất hạn chế, từ đó giảm sức hấp dẫn về lợi ích để thu hút các QTDND góp vốn và càng không thể huy động được các nguồn vốn bổ sung vốn điều lệ từ các TCTD, các pháp nhân, HTX khác. Trong khi đó, vốn góp thường niên từ các QTDND thành viên và nguồn Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của NHHTX hằng năm là quá nhỏ. Nguồn vốn để tăng vốn điều lệ cho NHHTX là từ nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, đây là nguồn vốn bền vững, lâu dài, ổn định; là chỗ dựa làm tăng uy tín, sức mạnh cho hệ thống QTDND nói chung và NHHTX nói riêng, thì nguồn vốn này vẫn chưa được đề cập đến trong các chính sách hỗ trợ gần đây.
 
Về mạng lưới hoạt động: Hiện nay, NHHTX mới chỉ có 32 chi nhánh hoạt động tại 30 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong khi toàn hệ thống QTDND là 1.187 quỹ, hoạt động trên địa bàn 57 tỉnh, thành phố và đa số các QTDND có địa bàn hoạt động tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, do đó, nhiều chi nhánh NHHTX phải phụ trách địa bàn nhiều tỉnh, thành phố nơi có QTDND hoạt động nên gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận, hỗ trợ và chăm sóc các QTDND thành viên.
 
Về công tác nhân sự: Nguồn nhân lực của NHHTX hiện nay còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, chưa đủ nguồn nhân lực khi vừa phải đáp ứng yêu cầu hoạt động của NHHTX vừa cử cán bộ (có chuyên môn nghiệp vụ cao và kinh nghiệm lâu năm) để trực tiếp tham gia hỗ trợ các QTDND trong công tác quản lý, điều hành và đặc biệt là xử lý những tồn tại đối với các QTDND yếu kém, gặp khó khăn. Trong những năm qua, thiên tai, dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng đến công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ được giao.
 
Về đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin: Hệ thống công nghệ thông tin của NHHTX hiện đã lạc hậu và giá trị đầu tư còn lại của hệ thống công nghệ thông tin tính đến ngày 31/12/2021 chỉ còn 67,46 tỷ đồng, trong khi đó, số lượng giao dịch ngày càng gia tăng và dữ liệu giao dịch ngày càng lớn đang vượt quá khả năng đáp ứng của hệ thống. Mặc dù thời gian qua NHHTX đã tập trung mọi nguồn lực để đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin nhưng chưa được như kỳ vọng do hạn chế năng lực tài chính.
 
Về cơ chế xử lý và thu hồi các khoản cho vay hỗ trợ đối với QTDND yếu kém không có khả năng phục hồi: Hiện nay, dư nợ cho vay các QTDND được kiểm soát đặc biệt của NHHTX là rất lớn, khó có khả năng thu hồi, gây ảnh hưởng đến nguồn vốn hoạt động của NHHTX trong công tác điều hòa vốn, hỗ trợ QTDND gặp khó khăn về thanh khoản và phát triển mở rộng tín dụng hỗ trợ các loại hình kinh tế khác trong nền kinh tế. 
 
Về công tác tăng trưởng dư nợ cho vay QTDND thành viên: Mặc dù, NHHTX đã triển khai nhiều hoạt động, chính sách phù hợp và giải pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với QTDND thành viên, nâng dần tỷ trọng dư nợ cho vay QTDND thành viên so với tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống. Tuy nhiên, từ năm 2019 đến nay, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên tỷ trọng dư nợ cho vay đối với QTDND có xu hướng chậm lại. 
 
Về cơ chế, chính sách hỗ trợ hoạt động cho NHHTX: Cơ chế, chính sách đảm bảo an toàn trong hoạt động, liên kết giữa QTDND và NHHTX chưa hoàn thiện; chưa có cơ chế để cho vay hỗ trợ kịp thời các QTDND thiếu khả năng chi trả nhưng có nguy cơ rủi ro cao; các khoản cho vay QTDND phần nhiều không có tài sản bảo đảm, trong khi cơ chế dự phòng chi trả, hỗ trợ xử lý các khoản cho vay đối với các QTDND yếu kém cũng như xử lý các khoản nợ tồn đọng đã cho vay để hỗ trợ chi trả và cho vay đặc biệt chưa có. Đặc biệt, mức thuế thu nhập doanh nghiệp của NHHTX là 17% - còn quá cao và chưa thật sự tương xứng với những đóng góp của NHHTX đối với hoạt động của hệ thống QTDND nói riêng và sự phát triển của khu vực KTTT 
nói chung. 
 
5. Một số kiến nghị, đề xuất
 
5.1. Đối với Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các bộ, ngành liên quan
 
 Để giúp cho NHHTX nâng cao năng lực tài chính, phát huy vai trò là ngân hàng của các QTDND cũng như hỗ trợ tối đa cho các tổ chức KTTT khác, Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các bộ, ngành liên quan cần đưa ra một số chính sách hỗ trợ, cụ thể sau:
 
Thứ nhất, bổ sung vốn điều lệ cho NHHTX để đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ được giao
 
Thực tiễn hoạt động hiện nay, các loại hình tổ chức KTTT, HTX khác đều là đối tượng được sự hỗ trợ của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, còn NHHTX và các QTDND - loại hình HTX được đánh giá là phát triển và hoạt động hiệu quả nhất trong thành phần KTTT, HTX hiện nay - không được sự hỗ trợ của Quỹ này. Mặt khác, tuy là loại hình HTX được đánh giá hoạt động hiệu quả nhất, nhưng thực tiễn hoạt động thời gian qua đã xuất hiện một số tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến an toàn trong hoạt động của hệ thống QTDND nếu không được xử lý, khắc phục kịp thời. Trong khi đó, NHHTX là ngân hàng của tất cả các QTDND nhưng cũng đã gặp những hạn chế, vướng mắc và nếu không được giải quyết sẽ khó có thể tiếp tục thực hiện tốt các chức trách, nhiệm vụ được giao đối với QTDND, cụ thể: Năng lực tài chính của NHHTX còn hạn chế, vốn điều lệ còn thấp; quy mô vốn và tài sản của NHHTX còn quá nhỏ so với hệ thống QTDND và thấp nhất trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, ảnh hưởng lớn đến các tỷ lệ an toàn chung của hệ thống; công nghệ thông tin chưa phát triển; cơ sở vật chất xuống cấp, thiếu thốn; nguồn nhân lực hạn chế… Mạng lưới hoạt động mới chỉ có tại 30 tỉnh, thành phố nhưng thực hiện nhiệm vụ điều hòa vốn, kiểm tra, giám sát, hỗ trợ cho 1.181 QTDND trên địa bàn 57 tỉnh, thành phố trên cả nước… Do vậy, NHHTX rất cần được Nhà nước hỗ trợ tăng cường năng lực tài chính để nâng cao vốn điều lệ, đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ điều hòa vốn, hỗ trợ khả năng chi trả và thực hiện chức trách, nhiệm vụ chăm sóc, hỗ trợ hệ thống QTDND hoạt động ổn định, an toàn và phát triển bền vững, hướng tới thúc đẩy sự phát triển của các loại hình HTX khác trong toàn quốc, đảm bảo đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 đạt được nhiệm vụ “Phát triển NHHTX có đủ năng lực tài chính, tăng cường năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động an toàn, hiệu quả, bền vững để thực hiện tốt vai trò là ngân hàng của tất cả các QTDND. Thực hiện tính liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn, bảo đảm an toàn hệ thống các QTDND, hỗ trợ thúc đẩy phát triển các loại hình KTTT là HTX khác trên phạm vi toàn quốc” đã được giao tại Quyết định số 340/QĐ-TTg ngày 12/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chiến lược phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021 - 2030”. 
 
Thứ hai, có chính sách hỗ trợ tín dụng khi cho vay đối với HTX gặp rủi ro, không trả được nợ vay
 
Hiện nay, thành phần KTTT nói chung, mô hình HTX nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận nhưng không ít HTX vẫn còn đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do các HTX hiện đang rất thiếu vốn hoạt động, hạn chế về khả năng huy động nguồn lực từ thị trường, tình trạng thiếu vốn khiến nhiều HTX không thể mở rộng sản xuất, kinh doanh, thậm chí còn có khả năng rơi vào nguy cơ phá sản, nhiều HTX muốn vươn lên tiếp cận công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm lại gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân của hạn chế trên là do các HTX thường có quy mô nhỏ, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, năng lực tài chính yếu và thiếu minh bạch, hệ thống thông tin báo cáo chưa bài bản, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, năng lực cạnh tranh yếu và đặc biệt là đa số hoạt động còn riêng rẽ, chưa có tổ chức đầu mối liên kết như một liên hiệp để hỗ trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn về nguyên liệu đầu vào cũng như sản phẩm đầu ra. Ngoài ra, phần lớn các HTX thiếu tài sản thế chấp, cầm cố để vay vốn, nếu có thì giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản trên đất chưa đảm bảo tính pháp lý, vì vậy, không đủ điều kiện làm tài sản bảo đảm để tiếp cận vốn từ các TCTD, nhất là đối với HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn khó khăn hơn nhiều so với các HTX hoạt động phi nông nghiệp. Mặt khác, nhiều HTX chưa có khả năng xây dựng phương án kinh doanh, dự án đầu tư khả thi và hiệu quả để vay vốn các TCTD do trình độ của cán bộ chủ chốt của HTX chưa được qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao và phần lớn tuổi đời trên 50 nên ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác quản lý và hiệu quả hoạt động của HTX. Thêm vào đó, rủi ro trong hoạt động sản xuất của các HTX là khá cao, đặc biệt là rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp do điều kiện thời tiết, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… 
 
Trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay, bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động cho vay, nhận tiền gửi, điều hòa vốn đối với các QTDND, NHHTX đã nhiều lần khảo sát, tìm hiểu nhằm mở rộng tín dụng phục vụ các HTX khác. Nhưng với những khó khăn và rào cản nêu trên, cùng với năng lực tài chính hạn chế, mặc dù dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của NHHTX luôn chiếm từ 70 - 80% tổng dư nợ nhưng cho vay các HTX khác chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Giải pháp để mở rộng tín dụng cho vay các HTX khác trong giai đoạn hiện nay là cần có các biện pháp khắc phục những khó khăn, rào cản nêu trên cũng như có cơ chế hỗ trợ (bù lỗ) khi cho vay đối với HTX gặp rủi ro, không trả được nợ vay.
 
Thứ ba, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho NHHTX, QTDND
 
Thực tiễn hoạt động của NHHTX hiện nay chia thành 02 mảng hoạt động: Phục vụ QTDND thành viên và phục vụ khách hàng không phải là QTDND thành viên (doanh nghiệp, cá nhân). Tuy nhiên, mảng phục vụ khách hàng không phải là QTDND thành viên chịu áp lực lớn hơn rất nhiều so với các ngân hàng thương mại. Bởi vì, các ngân hàng thương mại đặt mục tiêu hoạt động là tối đa hóa lợi nhuận nên hầu hết các mảng hoạt động đều nhắm tới mục tiêu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Còn đối với NHHTX, trong 27 năm hoạt động từ khi thành lập đến nay, mảng phục vụ khách hàng không phải là QTDND tập trung vào đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, cá nhân trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn... nên vẫn mang tính tập trung hỗ trợ các ngành nghề ưu tiên của Chính phủ, do đó, lợi nhuận mang lại rất khiêm tốn. Mặt khác, phần lợi nhuận thu về NHHTX đã dành phần không nhỏ để phục vụ các hoạt động hỗ trợ, chăm sóc các QTDND thành viên, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, phương tiện, sản phẩm, dịch vụ để phục vụ các QTDND - những khoản mục đầu tư này là thường xuyên và rất lớn. Bên cạnh đó, các khoản chi phí cho các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ QTDND thành viên chiếm đa phần trong các khoản mục chi phí của NHHTX. Tuy nhiên, hiện nay, mức thuế thu nhập doanh nghiệp của NHHTX là 17% còn quá cao, chưa thật sự tương xứng với những đóng góp của NHHTX đối với hệ thống QTDND nói riêng, sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn nói chung. Theo đó, rất cần các cơ quan, ban, ngành có cơ chế miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho NHHTX, QTDND nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề ra.
 
Thứ tư, đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi để tạo cơ chế thuận lợi trong việc chi trả tiền gửi cho người gửi tiền vào QTDND khi QTDND đó bị lâm vào tình trạng thanh lý, giải thể, cũng như để Bảo hiểm tiền gửi tham gia hỗ trợ, cho vay QTDND khi QTDND gặp khó khăn, phải củng cố, chấn chỉnh để khôi phục hoạt động.
 
5.2. Đối với NHNN
 
Một là, tiếp tục quan tâm, nghiên cứu, xem xét chỉnh sửa và ban hành cơ chế quản lý phù hợp với tính đặc thù trong hoạt động của QTDND đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả, an toàn của QTDND và NHHTX.
 
Hai là, NHNN có vai trò đặc biệt quan trọng là đầu mối phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cấp bổ sung vốn điều lệ cho NHHTX để tăng cường năng lực tài chính và xây dựng NHHTX trở thành công cụ hữu hiệu của NHNN, đủ mạnh để làm tốt vai trò ngân hàng đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND.
 
Ba là, NHHTX là loại hình tổ chức tín dụng là HTX, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn cho hệ thống các QTDND thành viên; là “bệ đỡ” cho các QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả nên rất cần có những chính sách đặc thù không giống như các  TCTD khác.
 
Bốn là, NHHTX và các QTDND là loại hình TCTD là HTX, các QTDND là thành viên của NHHTX nên các khoản cho vay điều hòa vốn giữa NHHTX và QTDND đều là cho vay tín chấp; đặc biệt, NHHTX còn phải cho vay hỗ trợ QTDND gặp khó khăn về thanh khoản, chi trả hoặc cho vay QTDND yếu kém, QTDND đang trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. Tuy nhiên, hiện nay, NHHTX phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, tính tài sản có rủi ro đối với các khoản cho vay QTDND thành viên giống như cho vay khách hàng ngoài thành viên (là doanh nghiệp, cá nhân). Do đó, đề nghị NHNN quan tâm, sớm có văn bản hướng dẫn riêng cho NHHTX về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản cho vay QTDND; sớm có cơ chế phân loại nợ và trích lập dự phòng đối với khoản cho vay QTDND gặp khó khăn, có dấu hiệu mất an toàn trong hoạt động, không thu hồi được nợ; có cơ chế hỗ trợ xử lý các khoản cho vay đối với các QTDND có nguy cơ mất khả năng chi trả hoặc lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, bị kiểm soát đặc biệt như: Cho phép NHHTX được bán các khoản nợ cho vay QTDND cho Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) để thu về trái phiếu đặc biệt và được trích lập dự phòng cho trái phiếu đặc biệt trong thời hạn 10 năm. 
 
Năm là, tăng cường quản lý nhà nước đối với hệ thống QTDND thông qua công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra. Xây dựng mới, tăng cường cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, quản lý, giám sát hệ thống QTDND thống nhất, kết nối QTDND với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố để phục vụ hiệu quả công tác giám sát vi mô và vĩ mô đối với hệ thống và kịp thời kiểm soát, xử lý rủi ro, yếu kém đối với từng QTDND.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 
1. Luật Các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010.
2. Luật HTX số 23/2012/QH13 ngày 20/11/2012.
3. Dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác.
4. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương.
5. Thông báo số 67/TB-VPCP về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về KTTT và tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012.
6. Chỉ thị số 57-CT/TW ngày 10/10/2020 của Bộ Chính trị.
7. Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg ngày 28/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ.
8. Quyết định số 207/QĐ-NHNN ngày 20/3/2000 của Thống đốc NHNN.
9. Các báo cáo hoạt động của NHHTX và QTDND.
10. Cổng thông tin điện tử Thời báo Tài chính.
11. Cổng thông tin điện tử Liên minh HTX Việt Nam

 
TS. Khuất Duy Tuấn
 Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực trạng tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long
Thực trạng tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long
25/04/2024 51 lượt xem
Tín dụng chính sách xã hội là một chủ trương mang tính nhân văn sâu sắc, đồng thời cũng là một trong những trụ cột trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Đây là chính sách hết sức thiết thực, hiệu quả, đã thực sự đi vào cuộc sống và được người dân đồng tình ủng hộ.
Agribank - Ngân hàng thương mại hàng đầu, chủ lực đầu tư phát triển kinh tế “Tam nông”
Agribank - Ngân hàng thương mại hàng đầu, chủ lực đầu tư phát triển kinh tế “Tam nông”
25/04/2024 130 lượt xem
Với hành trình 36 năm xây dựng và phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) luôn đồng hành cùng nền kinh tế của đất nước, vượt qua bao gian khó, không ngừng trưởng thành, khẳng định vai trò là công cụ hữu hiệu của Đảng, Nhà nước trong việc phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tạo lập nguồn vốn qua kênh tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Long An
Tạo lập nguồn vốn qua kênh tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Long An
19/04/2024 204 lượt xem
Tỉnh Long An là địa phương có vị trí thuận lợi, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp ranh với Thành phố Hồ Chí Minh và là cửa ngõ đi về các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Cùng với đó, điều kiện tự nhiên của tỉnh Long An cũng rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp.
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hưng Yên: Phát huy vai trò trụ cột giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội ở địa phương
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hưng Yên: Phát huy vai trò trụ cột giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội ở địa phương
09/04/2024 869 lượt xem
Xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên hôm nay đã là địa danh nổi tiếng với nhiều loại cây ăn quả, nơi cung cấp cây giống, cây cảnh ra toàn quốc và xuất khẩu sang nhiều nước láng giềng.
Đảm bảo an ninh, an toàn trong lĩnh vực thanh toán trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
Đảm bảo an ninh, an toàn trong lĩnh vực thanh toán trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
29/03/2024 1.522 lượt xem
Thời gian qua, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã có những đóng góp tích cực vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương; trong đó, việc quản lí và đảm bảo an ninh, an toàn trong lĩnh vực thanh toán luôn được lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh tỉnh Quảng Trị chú trọng, quan tâm chỉ đạo sát sao.
Agribank cùng ngành Ngân hàng đóng góp quan trọng vào sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế đất nước
Agribank cùng ngành Ngân hàng đóng góp quan trọng vào sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế đất nước
26/03/2024 1.822 lượt xem
Ngay từ những tháng đầu năm 2024, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã nỗ lực quyết liệt triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cùng ngành Ngân hàng thúc đẩy các động lực tăng trưởng trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Phát huy lực lượng và tiềm năng của thế hệ trẻ từ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội
Phát huy lực lượng và tiềm năng của thế hệ trẻ từ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội
25/03/2024 1.814 lượt xem
Đảng ta xác định “thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người”. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về công tác thanh niên trong thời kì mới...
Tín dụng chính sách: Nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ
Tín dụng chính sách: Nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ
12/03/2024 2.501 lượt xem
Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác phụ nữ; ban hành nhiều văn kiện, nghị quyết, chính sách, pháp luật, nghị định...
Agribank Chi nhánh tỉnh Quảng Trị dành nhiều ưu đãi hỗ trợ các đối tượng hưởng chính sách thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt
Agribank Chi nhánh tỉnh Quảng Trị dành nhiều ưu đãi hỗ trợ các đối tượng hưởng chính sách thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt
11/03/2024 2.767 lượt xem
Thực hiện Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 25/11/2022 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy chuyển đổi số trong chi trả an sinh xã hội (ASXH) không dùng tiền mặt và Công văn số 123/UBND-KGVX ngày 08/01/2024 của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Quảng Trị về tăng cường thực hiện chi trả ASXH không dùng tiền mặt trên địa bàn tỉnh...
Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền - mục tiêu quan trọng và xuyên suốt của chính sách bảo hiểm tiền gửi
Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền - mục tiêu quan trọng và xuyên suốt của chính sách bảo hiểm tiền gửi
27/02/2024 2.604 lượt xem
Năm 2023 qua đi với những dấu ấn quan trọng của ngành Ngân hàng vào quá trình phục hồi kinh tế - xã hội, đảm bảo thanh khoản và sự phát triển an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD).
Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Cư M’gar đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Cư M’gar đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
26/02/2024 3.985 lượt xem
Qua hơn 20 năm hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện cho vay 16 chương trình tín dụng chính sách...
Tổ vay vốn - cầu nối gắn kết giữa Agribank và khách hàng
Tổ vay vốn - cầu nối gắn kết giữa Agribank và khách hàng
26/02/2024 2.784 lượt xem
Thực hiện chính sách tín dụng theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ giai đoạn 2016 - 2020, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Thỏa thuận liên ngành giai đoạn 2021 - 2025, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)...
Tăng cường xây dựng khuôn khổ pháp lý trong công tác phòng, chống rửa tiền
Tăng cường xây dựng khuôn khổ pháp lý trong công tác phòng, chống rửa tiền
19/02/2024 2.610 lượt xem
Xây dựng khuôn khổ pháp lý trong công tác phòng, chống rửa tiền (PCRT) luôn được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đặc biệt quan tâm trong quá trình thực hiện công tác PCRT ở Việt Nam. Trong năm 2023, nhiều văn bản hướng dẫn Luật PCRT năm 2022 được ban hành, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức báo cáo triển khai hiệu quả công tác PCRT.
Phát triển tín dụng xanh tại Đồng bằng sông Cửu Long: Kết quả, thách thức và một số khuyến nghị
Phát triển tín dụng xanh tại Đồng bằng sông Cửu Long: Kết quả, thách thức và một số khuyến nghị
16/02/2024 2.822 lượt xem
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trên thế giới về các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Công đoàn Ngân hàng Việt Nam đổi mới hoạt động, tích cực chăm lo đời sống đoàn viên, người lao động
Công đoàn Ngân hàng Việt Nam đổi mới hoạt động, tích cực chăm lo đời sống đoàn viên, người lao động
14/02/2024 2.122 lượt xem
Năm 2023 là năm ghi dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của Công đoàn Ngân hàng Việt Nam (NHVN) với các hoạt động, sự kiện nổi bật kỷ niệm 30 năm thành lập và đặc biệt đã tổ chức thành công Đại hội Công đoàn NHVN lần thứ VII, nhiệm kỳ 2023 - 2028.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?