TS. Nguyễn Thị Trúc Phương
Thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư TW Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, cũng như các chủ trương, chính sách, chỉ đạo khác có liên quan của Đảng và Chính phủ, Ngân hàng chính sách xã hội (NHCS XH) Việt Nam tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp, thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ được giao, tạo lập nguồn vốn bền vững, mở rộng cho vay theo kế hoạch, nâng cao chất lượng tín dụng, ứng dụng công nghệ hiện đại trong giao dịch và cung cấp thông tin cho khách hàng, đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ. NHCSXH Việt Nam đang thực sự phát huy vai trò của mình góp phần giảm nghèo bền vững, góp phần giải quyết một số chính sách xã hội trong thực hiện chiến lược phát triển của đất nước.
Tổng quan kết quả hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam
Tính đến ngày 30/6/2018, tổng nguồn vốn của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam đạt 189.105 tỷ đồng, tăng 13.723 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 7,8% so với cuối năm 2017; Trong đó, vốn điều lệ đạt 13.893 tỷ đồng, tăng 3.197 tỷ đồng; nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đạt 10.908 tỷ đồng, tăng 1.863 tỷ đồng; huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trên thị trường đạt 22.548 tỷ đồng, tăng 4.054 tỷ đồng. Như vậy, nguồn vốn của NHCS XH tăng ở tất cả các kênh. Đặc biệt nguồn ủy thác từ ngân sách địa phương tăng khá. Điều này chứng tỏ, cấp ủy đảng, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các địa phương nhận thấy rõ vai trò của NHCS XH, phát huy hiệu quả kênh tín dụng chính sách trong phát triển kinh tế - xã hội, trong giảm nghèo. Đồng thời chứng tỏ việc phát huy vai trò thực sự của Ban đại diện HĐQT NHCS XH ở các đia phương trong tham mưu, thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư TW Đảng. Kênh huy động vốn trên thị trường cũng đạt cao. Điều này cho thấy, NHCS XH đảm bảo uy tín và hiệu quả trong hoạt động ở địa phương, đội ngũ cán bộ năng động và tích cực trong công tác huy động vốn.
Cũng tính đến hết tháng 6/2018, NHCS XH Việt Nam đạt tổng dư nợ các chương trình tín dụng là 181.768 tỷ đồng, tăng 9.978 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 5,8% so với cuối năm 2017; với hơn 6,7 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ. Trong đó, dư nợ các chương trình tín dụng theo kế hoạch tăng trưởng được Thủ tướng Chính phủ giao đạt 160.837 tỷđồng, hoàn thành 67% kế hoạch cả năm. Hiện nay NHCS XH đang triển khai cho vay 30 chương trình và dự án cụ thể khác nhau, với các nội dung và đối tượng cụ thể theo mục tiêu cải thiện điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt, khả năng làm ăn,… của các hộ gia đình chính sách và đối tượng nhà ở các vùng khó khăn. Có thể kể đến một số chương trình có dư nợ cho vay lớn đó là, cho vay ưu đãi hộ nghèo theo Nghị định 78/2002, dư nợ lớn nhất, đạt 38.866,56 tỷ đồng; Cho vay hộ cận nghèo theo QĐ 15/2013 dư nợ đứng thứ hai, đạt 30.367,3 tỷ đồng, Cho vay hộ mới thoát nghèo theo QĐ 28/2015 dư nợ đạt 25.793,63 tỷ đồng; Cho vay NS&VSMTNT theo QĐ 62/2004 dư nợ đạt 28.646,54 tỷ đồng, Cho vay hộ gia đình SXKD tại vùng khó khăn theo QĐ 31/2007 dư nợ đạt 19.736,83 tỷ đồng,…
Chất lượng hoạt động tín dụng chính sách không ngừng được củng cố, nâng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh đến hết tháng 6/2018 chỉ chiếm 0,81% tổng dư nợ, trong đó nợ quá hạn chiếm tỷ lệ 0,42%, thấp nhất trong toàn bộ các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng này cho thấy người nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, các đối tượng vay vốn khác có ý thức, sử dụng vốn có hiệu quả, chủ động trả nợ đúng hạn cho NHCS XH. Nhưng đồng thời cũng cho thấy các Phòng giao dịch của NHCS XH tuân thủ nghiêm túc các quy trình và quy định cho vay, các Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) của 4 tổ chức Hội hoạt động hiệu quả, chấp hành các nguyên tắc và thể lệ.
Tính riêng doanh số cho vay trong 6 tháng đầu năm 2018 của NHCS XH Việt Nam thì đạt 33.998 tỷ đồng tăng 2.756 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước, đã giúp hơn 1,2 triệu lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn. Vốn tín dụng chính sách góp phần hỗ trợ, đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho hơn 137 nghìn lao động, trong đó gần 3 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp gần 10 nghìn HSSV có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập; xây dựng gần 840 nghìn công trình nước sạch, công trình vệ sinh ở nông thôn; xây dựng trên 14,6 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo ổn định cuộc sống, hơn 100 căn nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP…
Hoạt động cho vay các chương trình và chính sách tín dụng của NHCS XH Việt Nam tiếp tục được thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội thành lập được 187.151 Tổ TK&VV tại thôn, ấp, bản, làng. Tổ TK&VV là nơi giúp hộ vay thực hiện các thủ tục vay vốn, tổ chức sinh hoạt tương trợ giúp đỡ nhau, đảm bảo thực hiện cơ chế dân chủ, vừa là nơi để ngân hàng đưa các nghiệp vụ về cơ sở phục vụ hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác hiệu quả hơn. Tổ TK&VV của Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh, với 6.734.682 hội viên tại khắp thôn, bản trong cả nước, với hàng trăm ngàn cán bộ không biên chế đang sát cánh cùng NHCS XH Việt Nam trong công cuộc “xóa đói giảm nghèo”, góp phần thực hiện có hiệu quả các chính sách tín dụng xã hội của nhà nước. Chính số lượng khách hàng là hội viên đông đảo đó của các tổ chức chính trị - xã hội nếu như được triển khai ứng dụng hiệu quả công nghệ 4.0 hiện nay sẽ tiếp tục mở rộng được quy mô cho vay, nhưng không tăng thêm cán bộ của các hội, của NHCS XH, tiết kiệm chi phí cho các bên có liên quan, được trình bày dưới đây.
Triển khai có hiệu quả dịch vụ ngân hàng dựa trên nền tảng kỹ thuật số
Để thực hiện có hiệu quả các chính sách tín dụng trong thời gian qua, một trong số các biện pháp quan trọng được triển khai đó là Dự án hợp tác công tư giữa NHCSXH, Quỹ Châu Á (TAF) và MasterCard về: “Dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động - Phổ cập dịch vụ tài chính và tạo quyền năng kinh tế cho người thu nhập thấp và phụ nữ ở Việt Nam”. Dự án này có sự hỗ trợ tài chính từ Chính phủ Australia. Đây là dự án có ý nghĩa kinh tế - xã hội rất to lớn, góp phần phát triển dịch vụ tài chính đối với những người còn bị thiệt thòi trong quá trình phát triển đất nước, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam.
Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ số trong cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng mang lại hiệu quả rất lớn trong việc phổ cập, mở rộng tiếp cận dịch vụ cho người nghèo, đặc biệt ở những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn chưa có sự hiện diện đầy đủ của hệ thống ngân hàng, chưa đáp ứng được dịch vụ tài chính cơ bản. Nhiều ngân hàng ở Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển ngân hàng di động, qua đó mang lại trải nghiệm cho khách hàng và mở rộng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho người dân vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi về tiện ích thì dịch vụ này cũng đang có một số lo ngại như gian lận thương mại, bảo mật, nguy cơ rò rỉ thông tin, dữ liệu khách hàng…
Đặc biệt giải pháp này thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và cải thiện đời sống, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình, trong xã hội. Thực tế ở nhiều quốc gia cũng như ở Việt Nam đã chỉ ra rằng, trong thời đại phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0, sự phát triển của FinTech, của Blockchain,… hiện nay, việc phát triển Dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động - Phổ cập dịch vụ tài chính sẽ góp phần có hiệu quả tạo quyền năng kinh tế cho người thu nhập thấp, cho những người bị thiệt thòi trong xã hội, cho người phụ nữ ở Việt Nam. Mục tiêu lâu dài là tăng cường và cải thiện sự tiếp cận tới các dịch vụ tài chính toàn diện cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ thu nhập thấp, đặc biệt là các doanh nghiệp vi mô do phụ nữ điều hành.
Với ý nghĩa và mục tiêu nói trên NHCSXH Việt Nam đã tiến hành thực hiện dự án “Dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động - Phổ cập dịch vụ tài chính”, với các giai đoạn cụ thể, đảm bảo phù hợp với thực tiễn và khách hàng dễ thích ứng nhất. Được biết, với nỗ lực triển khai một cách tích cực và đồng bộ, đến cuối năm 2016, NHCSXH Việt Nam đã triển khai dịch vụ tin nhắn qua điện thọai di động tới khách hàng tại 63 chi nhánh tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Dịch vụ tin nhắn bao gồm: Đối chiếu thông tin dư nợ tiền vay, số dư tiền gửi, thông báo nợ đến hạn, thông báo chuyển nợ quá hạn đến khách hàng của NHCSXH, giúp khách hàng của NHCSXH thuận tiện trong việc nắm bắt thông tin kịp thời; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, giảm áp lực và công việc, tăng năng suất lao động và khối lượng giao dịch trong điều kiện biên chế của các Phòng giao dịch NHCSXH không tăng. Các hộ vay và người vay vốn của NHCSXH Việt Nam nắm bắt kịp thời thông tin, chủ động bố trí thời gian và thu nhập để trả lãi và trả nợ ngân hàng đúng hạn, tiết kiệm chi phí cho cả NHCS XH và các hộ gia đình chính sách, giảm thiểu có rủi ro và tiêu cực.
Số liệu thống kê cho thấy, tính đến nay trong toàn hệ thống NHCSXH Việt Nam đã gửi 6.906.611 tin nhắn cho khách hàng đang quan hệ với các Phòng giao dịch NHCSXH huyện, thị xã trên toàn quốc. Trong đó, đã gửi đi thành công 6.904.804 tin nhắn, đạt tỷ lệ gần như tuyệt đối; bao gồm: nội dung đối chiếu nợ là 4.983.991 tin nhắn, nội dung thông báo nợ đến hạn là 1.904.356 tin nhắn, nội dung thông báo chuyển nợ quá hạn là 15.073 tin nhắn, nội dung thông báo thay đổi số dư tài khoản là 3.191 tin nhắn. Đây là những tin nhắn rất cần thiết, rất hữu ích đối với các hộ gia đình vay vốn của NHCS XH Việt Nam trong mọi miền của tổ quốc, trong mọi điều kiện địa lý và thời tiết, khí hậu khác nhau, miễn là đảm bảo có sóng điện thoại di động bình thường.
Dịch vụ tin nhắn qua điện thoại di động được coi là một trong những công cụ giúp hộ nghèo làm quen với công nghệ số, góp phần nâng cao trình độ dân trí, khả năng tiếp cận với các công cụ thông tin giao tiếp hiện đại, tiện lợi. Đồng thời, giúp NHCSXH thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, cung cấp ngày càng nhiều thông tin kịp thời đến người dân thuộc đối tượng phục vụ của NHCS XH, nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng, nhằm phục vụ số lượng khách hàng ngày càng nhiều hơn.
Đề xuất giải pháp cho thời gian tới
Một là, các cơ quan quản lý nhà nước, như: Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,…cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, các quy định bảo mật, các quy định về mặt giao dịch điện tử, chứng từ điện tử, chữ ký số,…
Các Bộ ngành có liên quan cũng cần những giải pháp để hạn chế rủi ro, thúc đẩy phát triển ngân hàng trên điện thoại di động, tăng tiếp cận ngân hàng cho đông đảo khách hàng, nhất là người nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, trong đó có đông đảo phụ nữ tại Việt Nam.
Hai là, các cơ quan có liên quan cần có các giải pháp hữu hiệu, đồng bộ thúc đẩy tài chính toàn diện cho người nghèo, hộ cận nghèo, hộ đối tượng chính sách, nhất là phụ nữ, bao gồm: tài chính toàn diện và việc cung cấp dịch vụ Ngân hàng di động, dịch vụ tài chính kỹ thuật số, đặc biệt cho người nghèo, phụ nữ và người có thu nhập thấp;... Cần tiếp tục tham khảo, học tập kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng dịch vụ Ngân hàng di động, công nghệ tài chính phục vụ mục tiêu tài chính toàn diện. NHCSXH Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội có các Tổ tiết kiệm và vay vốn, như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên CS HCM cần được bố trí kinh phí, hỗ trợ về kỹ thuật và chuyên gia để đẩy mạng ứng dụng công nghệ hiện đại, nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện và tăng trưởng kinh tế bền vững nâng cao thu nhập cho các hội viên trong bối cảnh cách mạng 4.0.
Ba là, các cơ quan quản lý nhà nước, NHCS XH cũng như các ngân hàng thương mại (NHTM), các đơn vị cung ứng dịch vụ,… cần có sự chia sẻ thông tin quan điểm đa chiều, cần có các giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy việc phát triển dịch vụ tài chính trên các thiết bị do động, trên mạng Internet, sử dụng kỹ thuật số.
Bốn là, cần nâng cao nhận thức về xu thế và lợi ích dịch vụ ngân hàng số cho cán bộ các tổ chức Hội và chính các thành viên, hội viên của 4 tổ chức Hội nói trên, cần nhận thức rõ những cơ hội và thách thức nhằm thúc đẩy dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động cho người nghèo, phụ nữ và các đối tượng chính sách khác tại Việt Nam. NHCSXH cần tiếp tục chủ động, đóng vai trò đầu mối, tiếp tục triển khai có hiệu quả dự án, đúng tiến độ và nội dung dự án, phát triển dịch vụ tin nhắn qua điện thoại di động cho người nghèo và các đối tượng chính sách, có chiến lược cụ thể phát triển nền tảng ngân hàng số trong tương lai.
Năm là, các đơn vị cung ứng dịch vụ viễn thông, đặc biệt là Tập đoàn Vietel cần tiếp tục nâng cao chất lượng sóng di động ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn,… có chính sách khuyến mại, giảm cước phí tin nhắn cho các hoạt động của NHCS XH, cho chị em phụ nữ là hộ nghèo và các vùng khó khăn.
Sáu là, Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam cần tiếp tục phát triển, hoàn thiện việc thực hiện dịch vụ tin nhắn đến tất cả các đối tượng vay vốn, không chỉ riêng chị em phụ nữ mà còn cả các thành viên của Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên CS HCM, các hộ gia đình cận nghèo và mới thoát nghèo, học sinh và sinh viên vay vốn học tập… Đồng thời, không chỉ cung cấp tin nhắn về quan hệ vay vốn mà còn gồm các thông tin kịp thời, đầy đủ về chính sách huy động vốn, cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới của ngân hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
http://vbsp.org.vn
https://sbv.gov.vn
Một số nguồn khác
(Tạp chí Ngân hàng số 16, tháng 8/2018)