TS. Vũ Văn Long
Đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG), đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi hiệu quả không chỉ giúp bảo toàn và duy trì giá trị thực của nguồn vốn, mà còn giúp nâng cao năng lực tài chính để bảo đảm thanh khoản dự phòng chi trả, xử lý và tham gia hỗ trợ quá trình tái cơ cấu tổ chức tín dụng (TCTD). Tổ chức BHTG nên đầu tư đa dạng vào các tài sản rủi ro thấp và quản lý an toàn nguồn vốn, duy trì thanh khoản và kiểm soát rủi ro. Bài viết đánh giá việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của tổ chức BHTG trên cơ sở pháp lý về hoạt động đầu tư trên thế giới, luật pháp và thực tiễn của Việt Nam.
Cơ sở pháp lý về hoạt động đầu tư trên thế giới
Nguồn vốn của tổ chức BHTG được hình thành từ: (1) Vốn cấp/vốn hỗ trợ ban đầu/vốn hạt giống mà một hệ thống BHTG mới được thành lập tiếp nhận cho quỹ BHTG, đặc biệt từ nguồn đóng góp của chính phủ và/hoặc ngân hàng trung ương (NHTW - IADI,Glossary of Deposit Insurance); (2) Hỗ trợ vốn của các tổ chức quốc tế hoặc tổ chức hỗ trợ kỹ thuật với thỏa thuận công khai rằng, vốn hỗ trợ này sẽ không phải hoàn trả (IADI, Glossary of Deposit Insurance); (3) Cơ chế cấp vốn trước nhằm có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện nhiệm vụ hiệu quả (2015, IADI, Enhanced Guidance for Effective Deposit Insurance Systems: Exante Funding); (4) Nguồn thu phí BHTG mà mỗi tổ chức thành viên trả cho việc được BHTG (2009, IADI, Funding of Deposit Insurance Systems); và một số nguồn khác.
Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi là nguồn vốn thể hiện dưới dạng tiền mặt thực có của tổ chức BHTG, tạm thời chưa dùng đến để trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền cũng như thực hiện các khoản chi tiêu theo chế độ tài chính hiện hành của tổ chức BHTG. Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tổ chức BHTG có thể dùng để đầu tư theo nguyên tắc đảm bảo an toàn và phát triển vốn, đảm bảo khả năng thanh khoản của tổ chức BHTG và phù hợp với quy định pháp luật hiện hành. Theo một khảo sát năm 2016 của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), tổ chức BHTG thường đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi theo các hình thức: Gửi tiền hoặc mua tín phiếu NHTW; gửi tiền hoặc mua trái phiếu ngân hàng thương mại; mua trái phiếu chính phủ (TPCP); tham gia trên thị trường chứng khoán và các hình thức đầu tư khác. Các tổ chức BHTG đều tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đầu tư vào các công cụ tài chính để tăng trưởng vốn, nâng cao năng lực và củng cố vị thế tài chính.
IADI khuyến nghị tổ chức BHTG phải có trách nhiệm đầu tư và quản lý an toàn các quỹ mình quản lý, có chính sách đầu tư cụ thể để đảm bảo các yếu tố về: (a) bảo toàn nguồn vốn và duy trì thanh khoản, (b) có đầy đủ chính sách và quy trình quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ, hệ thống công bố thông tin - báo cáo về tình hình đầu tư nguồn vốn. Theo đó, tổ chức BHTG có thể gửi tiền tại NHTW, thiết lập và tuân thủ nguyên tắc nhằm hạn chế đầu tư quy mô lớn vào ngân hàng và sản phẩm ngân hàng (IADI, Core principles version November 2014).
Hội nghị toàn thể của Ủy ban ổn định tài chính toàn cầu năm 2016 tiếp tục đưa Bộ nguyên tắc của IADI tích hợp vào Bộ tiêu chuẩn đảm bảo an toàn hệ thống tài chính toàn cầu. Theo thông lệ quốc tế, tổ chức BHTG có thể gửi tiền tại NHTW, đầu tư vào ngân hàng và tài sản ngân hàng nhưng nên thiết lập và tuân thủ tiêu chuẩn hạn chế đầu tư quy mô lớn; việc hoàn trả vốn vay từ chính phủ của tổ chức BHTG chỉ nên giới hạn ở vốn cấp ban đầu và phần vốn thanh khoản nhằm hỗ trợ quá trình tích lũy vốn. Theo thông lệ quốc tế, tổ chức BHTG xây dựng chu kỳ lập kế hoạch tài chính thường niên theo 3 bước:
Dự báo dòng tiền → Phân tích rủi ro (dự báo chi trả và xử lý đổ vỡ) → Xác định nhu cầu vốn và điều chỉnh đầu tư |
Một mặt, theo thông lệ quốc tế, thặng dư của quỹ BHTG cần được đầu tư và thu nhập phái sinh có thể được bổ sung vào quỹ BHTG; mặt khác, chính sách đầu tư không nên quá táo bạo nếu không muốn làm xói mòn niềm tin công chúng.
Tại châu Âu, Chỉ thị 2014/49/EU cũng khuyến nghị cơ chế bảo đảm tiền gửi các nước thành viên nên đầu tư vào các tài sản rủi ro thấp và hình thức đầu tư phải đa dạng.
Các tổ chức thành viên IADI tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APRC) đều có quy định pháp lý về nguồn vốn, cơ sở quan trọng để đảm bảo cho hoạt động đầu tư khi nguồn vốn ở trạng thái tạm thời nhàn rỗi, gồm vốn cấp ban đầu (Ấn Độ, Đài Loan, Indonesia, Kazakhstan, Nga, Philippines và Việt Nam), thu phí, thu nhập từ đầu tư vốn, thu sau thanh lý và thu khác. Tất cả 16 hệ thống BHTG đều có nhiều nguồn tài chính cho quỹ BHTG và sử dụng cho các mục đích khác nhau như trả tiền bảo hiểm; hỗ trợ tài chính để củng cố TCTD sau thương vụ P&A và M&A; thành lập và cấp vốn cho ngân hàng bắc cầu tạm thời tiếp quản TCTD đổ vỡ; hỗ trợ tài chính để cải thiện hoạt động của tổ chức gặp vấn đề; và cung cấp thanh khoản hỗ trợ chi trả. Các tổ chức BHTG theo mô hình thuần chi trả chủ yếu sử dụng quỹ BHTG để chi trả; trong khi các tổ chức có mô hình kết hợp giữa thuần chi trả và chi trả với quyền hạn mở rộng (như Việt Nam) hoặc mô hình giảm thiểu rủi ro có thêm nhiều công cụ xử lý linh hoạt khác.
Để đảm bảo an toàn và thanh khoản, hầu hết 16 tổ chức BHTG thành viên APRC đều đầu tư vào các công cụ tài chính (theo hướng duy trì và bảo toàn vốn gốc) với tính thanh khoản cao như TPCP, trái phiếu ngân hàng, tín phiếu ngắn hạn hoặc gửi tiền tại NHTW hoặc TCTD lành mạnh. Rất ít tổ chức đầu tư vào các công cụ tài chính rủi ro cao, cụ thể:
- 10/16 tổ chức BHTG thành viên APRC được phép gửi tiền tại NHTW;
- 15/16 quốc gia (trừ Ấn Độ) có quy định cho phép tổ chức BHTG mua TPCP;
- Quỹ BHTG Azerbaijan có thể mua trái phiếu của TCTD nước ngoài và trái phiếu quỹ thế chấp;
- Tại Azerbaijan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, tổ chức BHTG thậm chí được phép gửi tiền tại các TCTD lành mạnh;Chính phủ Philippines cho phép tổ chức BHTG gửi tiền tại bất kỳ ngân hàng huy động tiền gửi và tổ chức trung gian tài chính nào của
Chính phủ;
- Cơ quan BHTG Hồng Kông được đầu tư vào sản phẩm tài chính phái sinh và TPCP do Bộ Tài chính Mỹ phát hành; tại Kazakhstan, NHTW xây dựng danh mục công cụ tài chính để tổ chức BHTG tham chiếu đầu tư vốn nhàn rỗi, bao gồm chứng khoán nợ trung gian, TPCP nước ngoài, chứng khoán phái sinh, mua và bán kỳ hạn repos;
- Nga là nước duy nhất cho phép tổ chức BHTG đầu tư vào cổ phiếu doanh nghiệp.
Như vậy, cơ chế đầu tư nguồn vốn hiệu quả là một nội dung quan trọng đảm bảo ổn định tài chính của tổ chức BHTG. Cơ cấu đầu tư của các tổ chức BHTG cho thấy bức tranh đa dạng về pháp luật và thực tiễn đầu tư, với các hình thức đa dạng nhưng phải đảm bảo mục tiêu bảo toàn vốn và tránh đầu tư vào lĩnh vực có rủi ro cao.
Chính sách pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam
Điều 31 Luật BHTG; Khoản 7 Điều 8 Điều lệ tổ chức và hoạt động của BHTGVN; Khoản 4 Điều 5 Thông tư 312/2016/TT-BTC quy định: Tổ chức BHTG được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua TPCP, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN. Từ khi Luật BHTG có hiệu lực ngày 1/1/2013, BHTGVN tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, góp phần phát triển vốn tăng trưởng ổn định, hiệu quả, trong đó chủ yếu là đầu tư trái phiếu Chính phủ và gửi tiền tại NHNN. Với mức lãi suất TPCP hấp dẫn thời gian qua, đây là lựa chọn ưu tiên của BHTGVN. Hiện nay, BHTGVN đang đầu tư vào trái phiếu Chính phủ trên 2 thị trường sơ cấp và thứ cấp, nhằm tối đa hóa hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi theo kỳ hạn và cơ cấu đầu tư. Tính đến ngày 30/6/2017, tổng số vốn đầu tư là khoảng trên 35.000 tỷ đồng, trong đó hơn 90% đầu tư vào TPCP. Đây là hình thức an toàn, mang lại nguồn thu tương đối ổn định cho BHTGVN. Tốc độ tăng trưởng bình quân số tiền đầu tư ước đạt từ 20% đến 25%/năm. Việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư góp phần vào sự tăng trưởng ổn định nguồn vốn, nâng cao năng lực tài chính cho BHTGVN và bổ sung nguồn lực quan trọng cho quỹ dự phòng nghiệp vụ chi trả tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, danh mục đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của BHTGVN còn rất hạn chế, chủ yếu là TPCP. Trên thị trường sơ cấp, nhu cầu mua TPCP phụ thuộc vào việc phát hành và lịch đấu thầu của Kho bạc Nhà nước, trong khi mua TPCP trên thị trường thứ cấp tiềm ẩn rủi ro về giá cả trái phiếu và phụ thuộc nhiều vào diễn biến thị trường. Đồng thời, BHTGVN được phép mua và nắm giữ TPCP đến khi đáo hạn, chỉ bán khi cần thiết (khi cần tiền chi trả BHTG), nên hoạt động đầu tư TPCP chưa phù hợp với quy luật thị trường, phần nào gây ra bất lợi cho kết quả đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của BHTGVN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- 2017, DIV, Báo cáo tổng kết hoạt động BHTGVN 2016;
- 2016, DIV, Báo cáo tổng kết hoạt động BHTGVN 2015
- 2016, DIV, Báo cáo thường niên BHTGVN 2015
- IADI, 2015, Enhanced Guidance for Deposit Insurance Systems: Ex-ante Funding
- IADI, 2015, Surveys on Deposit Insurance Íntitutions
- IADI, 2015, Annual Survey - Some Key Results
- IADI, 2014, Core principles for deposit insurance systems
- EU, 2013, Regulation No 575.2013 on Investment low-risk assets
- IADI, 2011, Funding Mechanisms of Deposit Insurance Systems in the Asia-Pacific Region
- IADI, 2009, Funding Mechanisms of Deposit Insurance Systems in the Asia-Pacific Region
- IADI, 2009, Funding of Deposit Insurance Systems, Guidance Paper
- 2015 Annual Reports of 16 APRC member deposit institutions
- MDIC Act 2005, 2010, 2011; IDIC Law 2004; Russia Federation Law on Insurance of Deposits of Households in banks 2003; Deposit Insurance Act CDIC Taiwan 1985 and Amendments in 1999, 2001, 2006, 2007, 2008 and 2010; FDIC Act
- www.iadi.org; www.pidm.gov.my; www.dic.go.jp/english; www.asv.org.ru/en;
www.kdic.kr/english/index.jsp
(Tạp chí Ngân hàng số 23, tháng 12/2017)