Thông qua tổng hợp các lý luận về phát triển vùng lãnh thổ và phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế để thúc đẩy sự phát triển của vùng này. Trong đó, nhấn mạnh các giải pháp hoàn thiện Quy hoạch vùng, tổ chức chỉ đạo và điều hành thực hiện Quy hoạch, cải cách thể chế, điều chỉnh cơ chế tài chính.
PGS.,TS. Lý Hoàng Ánh và PGS.,TS. Nguyễn Ngọc Thạch
Thông qua tổng hợp các lý luận về phát triển vùng lãnh thổ và phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế để thúc đẩy sự phát triển của vùng này. Trong đó, nhấn mạnh các giải pháp hoàn thiện Quy hoạch vùng, tổ chức chỉ đạo và điều hành thực hiện Quy hoạch, cải cách thể chế, điều chỉnh cơ chế tài chính.
1. Lí thuyết lợi thế so sánh
Để xây dựng các giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cần nghiên cứu các lý thuyết liên quan đóng vai trò là một trong các luận cứ khoa học.
Trong số các lý thuyết nền tảng cho mục đích nêu trên, phải kể đến các lý thuyết quan hệ kinh tế quốc tế mà các nguyên tắc cốt lõi trong chuyên môn hóa sản xuất của các quốc gia cũng hợp lý đối với việc quy hoạch sản xuất các vùng lãnh thổ và thương mại liên vùng. Bởi vì, giữa phân công lao động quốc tế và phân công lao động vùng cũng như thương mại quốc tế và thương mại liên vùng, mặc dù tồn tại một số dấu hiệu khác biệt, nhưng có những nguyên tắc chung. Trong số các lý thuyết thương mại quốc tế, không thể không chú trọng đến Lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo và Lý thuyết “Heckcher Ohlin”. Trước Ricardo, A.Smith đã đưa ra Lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Các nhà kinh tế cổ điển Smith và Ricardo là các nhà tư tưởng của mậu dịch tự do nên ở khía cạnh này, quan điểm của họ thích hợp với các nguyên tắc phát triển của kinh tế vùng. Theo Smith, phân công lao động quốc tế được dựa trên các lợi thế tuyệt đối mà mỗi quốc gia (hoặc vùng) có sẵn. Bởi vậy, mỗi quốc gia (vùng) cần chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa mà nó có lợi thế tuyệt đối. Nếu tất cả các quốc gia (vùng) chuyên môn hóa về các hàng hóa mà chúng có lợi thế tuyệt đối và từ bỏ sản xuất các hàng hóa chúng không có lợi thế thì điều đó dẫn đến sự gia tăng sản lượng và tiêu dùng của các quốc gia (vùng) hợp tác với nhau. Đề xuất lý thuyết lợi thế so sánh, Ricardo chứng minh lý thuyết lợi thế tuyệt đối chỉ là một trường hợp riêng của lý thuyết lợi thế so sánh. Theo ông, chuyên môn hóa sản xuất vẫn cần được thực hiện thậm chí khi một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối nào. Trong trường hợp này, quốc gia đó phải chuyên môn hóa về các hàng hóa mà nó có bất lợi ít nhất về chi phí sản xuất. Còn các quốc gia có nhiều lợi thế tuyệt đối thì cần chuyên môn hóa về các hàng hóa mà chúng có lợi thế nhiều nhất.
2. Chủ trương của Chính phủ về phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Để thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn một số tỉnh, thành để hình thành nên các vùng kinh tế trọng điểm quốc gia có khả năng tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ cao và bền vững, tạo điều kiện nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh chóng đạt được sự công bằng xã hội trong cả nước.
Với chủ trương đó, cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt Quyết định số 747/1997/QĐ-TTg, Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia đến năm 2010 - vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Trung bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Ba vùng kinh tế trọng điểm này gồm có 13 tỉnh, thành.
Trong Hội nghị các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ ngày 20 - 21/6/2003, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới của vùng. Ngày 02/7/2003, ban hành Thông báo số 99/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ thêm ba tỉnh: Tây Ninh, Bình Phước, Long An.
Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của các vùng kinh tế trọng điểm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; để đảm bảo cho sự vận hành về phát triển kinh tế của từng vùng cũng như giữa các vùng một cách hiệu quả, ngày 18/02/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2004/QĐ-TTg về việc thành lập Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở cấp Trung ương. Cơ cấu, bộ máy của Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm bao gồm: Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và các Tổ điều phối của các Bộ, ngành và địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm.
Ngày 13/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 145, 146, 148/2004/QĐ-TTg về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020. Trong các quyết định này, quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm đã được mở rộng thêm bảy tỉnh gồm Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh (Bắc bộ); Bình Định (Trung bộ) và Tây Ninh, Bình Phước, Long An (Nam bộ). Đồng thời, các quyết định này cũng thay thế cho các Quyết định số 747/1997/QĐ-TTg, 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg đã ban hành năm 1997 và năm 1998.
Nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng bộ để đạt được hiệu quả cao trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh của các vùng kinh tế trọng điểm, thực hiện thành công định hướng phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; chủ trương, chính sách, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước về phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm ở nước ta, ngày 10/10/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg, ban hành Quy chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm. Theo Quyết định này, quy mô của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được mở rộng, bao gồm các tỉnh, thành: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang.
Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm bốn tỉnh, thành: thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, tỉnh Kiên Giang và tỉnh Cà Mau.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về vùng đã được thực hiện trong nhiều năm. Công việc này đã được tập trung vào một số vấn đề như phân vùng kinh tế, định hướng chiến lược phát triển các vùng chủ yếu do Viện chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Tuy nhiên, về kinh tế vùng còn ít, còn thiếu những tài liệu tổng quát lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, phân tích số liệu thống kê về một số chỉ tiêu quan trọng của các tỉnh, thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cho thấy, trong gần 20 năm hình thành và phát triển, vùng kinh tế trọng điểm này luôn giữ vai trò quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể, các tỉnh này hiện nay dù chỉ chiếm 8% diện tích và 17% dân số của cả nước nhưng với tốc độ tăng trưởng GDP thực cao hơn cả nước 1,5 lần, đóng góp hơn 40% GDP và 60% ngân sách quốc gia; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp và dịch vụ, giảm nông - lâm - thủy sản; về quy mô thị trường, chiếm 40% giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, chiếm 37% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước; thu hút 11.524 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực (chiếm 57% cả nước) với tổng số vốn lũy kế đến 31/12/2015 gần 129 tỷ đô la Mỹ (chiếm 46% cả nước).
3. Thực trạng phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Tuy nhiên, sau gần 20 năm thành lập và phát triển, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ đạt được của các vùng kinh tế trọng điểm nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chưa đạt được kỳ vọng về vai trò của các vùng này thể hiện trong các văn bản của Chính phủ, Nhà nước. Đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một số hạn chế, cần được tháo gỡ trong thời gian tới thì mới có thể giúp tạo được sự phát triển bứt phá:
Thứ nhất, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn mức bình quân của cả nước nhưng chưa tạo được sự phát triển bứt phá về năng lực cạnh tranh quốc tế, phát triển vốn nhân lực và khoa học - công nghệ. Cấu trúc kinh tế ngành thay đổi nhưng cơ cấu công nghệ và cơ cấu nội ngành chuyển dịch chậm, dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động sang các ngành năng suất lao động cao chưa mạnh. Các ngành dịch vụ chất lượng cao (tài chính, giáo dục, công nghệ thông tin và khoa học - công nghệ) chậm phát triển và đầu tư vào các ngành này có xu hướng giảm. Tăng trưởng của ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào ngành công nghiệp khai khoáng (chủ yếu dầu khí), trong khi công nghiệp chế biến, chế tác tăng trưởng chậm. Các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển nên giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp (khoảng 20-25%). Các ngành dệt may, giày dép và điện tử tăng trưởng chủ yếu dựa vào gia công. Sản phẩm của các ngành chế tạo, chế biến có hàm lượng khoa học thấp, sức cạnh tranh kém trên thị trường thế giới. Thiếu vắng những ngành kinh tế có hàm lượng công nghệ cao mang thương hiệu quốc gia. Nhìn chung, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất như vậy chưa phù hợp với Lý thuyết cực tăng trưởng.
Thứ hai, trình độ công nghệ còn thấp và tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm tại các doanh nghiệp trong nước. Đầu tư của các doanh nghiệp trong nước vào phát triển công nghệ còn rất hạn chế. Các doanh nghiệp FDI chú trọng ứng dụng các công nghệ tiên tiến nhưng do chính sách thu hút FDI của chúng ta còn thiếu tính chọn lọc, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp FDI nói chung chỉ đạt mức trung bình thế giới. Ngoài ra, các nhà máy của các công ty đa quốc gia đặt tại Việt Nam vận hành với phần lớn nguyên vật liệu nhập khẩu. Do hệ thống ngành bổ trợ trong nước chưa phát triển nên mối quan hệ giữa doanh nghiệp trong nước và FDI lỏng lẻo, hiệu ứng lan tỏa của doanh nghiệp FDI còn mờ nhạt.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng tuy có phát triển nhưng chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế và đô thị hóa. Hệ thống giao thông liên tỉnh, liên vùng, liên quốc gia cả đường sắt lẫn đường bộ đều phát triển chậm. Việc phát triển hệ thống cảng biển chưa hợp lý. Hạ tầng cấp thoát nước tại các đô thị lớn còn yếu kém. Đặc biệt, kết cấu hạ tầng tại thành phố Hồ Chí Minh đang bị quá tải với tình trạng ô nhiễm môi trường, ngập lụt, kẹt xe tắt đường ngày càng trầm trọng.
Thứ tư, mặc dù là một trong vùng kinh tế động lực của cả nước, năng suất lao động tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, với 90% số doanh nghiệp hiện chưa đạt được quy mô tối ưu để có được năng suất lao động cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít, chưa xâm nhập được vào các thị trường, trung tâm công nghệ của thế giới, do đó, chưa thực hiện được chức năng cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước. Khu vực nông thôn chỉ sử dụng khoảng 75% thời gian làm việc nên lao động tiếp tục di chuyển từ ngoài vùng vào địa bàn các đô thị, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, dẫn đến thất nghiệp thành thị ở mức cao, phát sinh các vấn đề xã hội phức tạp. Nguồn nhân lực được đào tạo trong nước chưa đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Tồn tại nghịch lý là tình trạng thừa lao động phổ thông nhưng lại thiếu hụt trầm trọng lao động có trình độ cao.
Thứ năm, thiếu trầm trọng vốn đầu tư nhà nước và tư nhân, đồng thời đầu tư công kém hiệu quả. Vốn đầu tư được tài trợ từ các nguồn: tích lũy của doanh nghiệp, tiết kiệm của người dân, ngân sách nhà nước, các quỹ phi chính phủ và đầu tư nước ngoài nhưng các nguồn này đều hạn chế (vốn trong nước) và thiếu ổn định (vốn nước ngoài). Nhu cầu về phát triển kết cấu hạ tầng nội tỉnh và liên tỉnh trong vùng lớn nhưng vốn đầu tư phụ thuộc vào nguồn phân bổ hạn hẹp từ ngân sách Trung ương. Thu hút vốn tư nhân vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở rất khó khăn vì đây là các ngành đòi hỏi nguồn tài chính lớn nhưng thu hồi vốn chậm, trong khi hơn 90% số lượng doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ. Đối với các ngành cạnh tranh thị trường, các doanh nghiệp tư nhân ít quan tâm đầu tư vào đổi mới công nghệ hay phát triển công nghệ mới để nâng cao năng lực cạnh tranh. Việt Nam hầu như không có các công ty công nghệ cao đa quốc gia mang tầm vóc quốc tế. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm sáng của nền kinh tế nhưng lại thiếu sự gắn kết với khu vực doanh nghiệp trong nước nên có sức lan tỏa yếu.
Thực trạng những hạn chế này là do một số nguyên nhân cơ bản:
Trước hết, công tác tổ chức quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm chưa bài bản, khoa học; chưa gắn quy hoạch các cụm ngành kinh tế, trước hết các cụm ngành công nghiệp và dịch vụ bao gồm các ngành mũi nhọn liên kết với các ngành liên quan (thượng nguồn và hạ nguồn). Ngoài ra, quy hoạch các ngành mũi nhọn còn dàn trải, chưa cụ thể, chưa gắn với nghiên cứu toàn diện các lợi thế so sánh (không phải lợi thế tuyệt đối) của từng vùng và từng tỉnh, thành trong vùng. Điều đó dẫn đến tình trạng chưa có sự phân công lao động giữa các vùng kinh tế trọng điểm, giữa các tỉnh, thành trong cùng một vùng kinh tế trọng điểm và hậu quả hiện tại là sự chồng chéo, trùng lắp về các dự án đầu tư, thừa cung ở một số sản phẩm chủ lực, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy là dệt, may, giày dép, lắp ráp điện tử có ở hầu hết các vùng kinh tế. Hơn nữa, quy hoạch bị thay đổi nhiều lần, chưa chuẩn bị tốt vào thời điểm quyết định thành lập các vùng kinh tế của Chính phủ. Mặc dù được thành lập vào năm 1998, các vùng kinh tế trọng điểm - đối tượng của các chính sách tác động của Nhà nước trong quá trình kéo dài hoàn chỉnh về không gian kinh tế. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của các vùng kinh tế trọng điểm đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 1998 và đến 13/8/2004 được bổ sung thêm, theo các Quyết định 145, 146, 147/2004/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ lại phê duyệt phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội của các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Đến năm 2007, số lượng các tỉnh, thành của các vùng chỉ được cố định tạm thời trong Quyết định 159 của Chính phủ. Đến năm 2009, vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long mới chính thức ra đời nên quy hoạch tổng thể lại có thay đổi. Bên cạnh đó, các chiến lược và quy hoạch đã được phê duyệt chưa gắn với các tỉnh khác ngoài vùng kinh tế trọng điểm, chưa gắn với tầm nhìn xa hơn của cả khu vực và thế giới, chưa dựa trên các dự báo dài, trung và ngắn hạn. Cuối cùng, quy hoạch chưa thực sự xuất phát từ lợi ích sát sườn của từng địa phương để qua đó phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng nổ của tất cả các vùng kinh tế trọng điểm cũng như các tỉnh, thành trong vùng.
Thứ hai, hoạt động chỉ đạo và điều phối các vùng kinh tế trọng điểm còn đang trong quá trình hoàn chỉnh. Năm 2004, Chính phủ quyết định thành lập Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở cấp Trung ương, Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và các Tổ điều phối của các Bộ, ngành và địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm. Sau hơn 10 năm hoạt động, cấu trúc điều hành này tỏ ra chưa hiệu quả. Ở đây cho thấy có một số nguyên nhân. Thứ nhất, công tác điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm còn mang tính hình thức nên chưa giải quyết kịp thời một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn, các việc có tính chất liên vùng; việc liên kết, phối hợp giữa các địa phương chưa có tính lâu dài, phạm vi liên kết hạn chế, chưa thực sự kết nối và phát huy được tiềm năng phát triển của các vùng. Thứ hai, các vùng kinh tế trọng điểm chưa có bộ máy thể chế vùng, mà mới chỉ hình thành ban chỉ đạo phát triển. Cụ thể, đối với các vùng kinh tế trọng điểm có ban chỉ đạo, văn phòng ban chỉ đạo và tổ công tác. Đây thực chất là cơ quan chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo thực hiện các quy chế chính sách ban hành cho các vùng; kiểm tra, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm cho hoạt động của các vùng. Với chức năng nhiệm vụ quy định như hiện nay, bộ máy này không thể thực hiện tiếp nhận chính sách và tổ chức thực thi chính sách mang tính toàn vùng. Đồng thời, cũng không thể xây dựng định hướng, chiến lược, quy hoạch, hoạch định những chính sách riêng biệt thống nhất cho toàn vùng, không thể đại diện cho vùng để điều phối, hay phối hợp hoạt động của địa phương, bộ ngành có liên quan.
Thứ ba, môi trường thể chế còn hạn chế. Cơ chế, chính sách hiện tại áp dụng ở các vùng kinh tế trọng điểm gần như chưa có gì khác biệt so với các cơ chế áp dụng đối với các tỉnh nằm ngoài vùng kinh tế trọng điểm. Sự phát triển nhanh chóng tại một số tỉnh, thành chủ yếu do sự năng động và sáng tạo của lãnh đạo địa phương. Do hệ thống pháp lý điều tiết chưa chặt chẽ và cơ chế giám sát chưa hiệu quả, đầu tư công chưa có hiệu quả cao ở tất cả các khâu từ quy hoạch, xây dựng, nghiệm thu cho đến vận hành, quản lý. Thiếu bộ chỉ huy cấp vùng cho từng vùng kinh tế trọng điểm để điều hành sát sao quá trình thực hiện quy hoạch vùng được duyệt nên cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành trong vùng kinh tế trọng điểm vẫn mang tính tự phát và chỉ dừng lại ở mức cam kết các thỏa thuận giữa lãnh đạo địa phương. Trong khi đó, chủ nghĩa địa phương còn cao, dẫn đến các chương trình phối hợp phát triển kinh tế vẫn còn mang tính cục bộ, chưa cho phép phát huy hiệu quả lợi thế so sánh ở từng vùng.
Thứ tư, cơ chế tài chính chưa đủ mạnh. Nhu cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng trong vùng rất lớn nhưng Bộ chỉ huy cấp vùng (theo Quyết định số 2059/QĐ-TTg được gọi là Hội đồng) chưa chủ động được nguồn tài chính cần thiết. Sự chênh lệch năng lực tài khóa và nhu cầu chi còn lớn tại các tỉnh, thành phát triển mạnh như Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai.
4. Giải pháp phát triển nhanh và bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Xuất phát từ thực trạng trên của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhóm tác giả xin đề xuất năm giải pháp sau:
Thứ nhất, cần rà soát, chỉnh sửa và hoàn thiện nội dung Quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có vùng kinh tế phía Nam. Trước hết, cần tuân thủ nguyên tắc là quy hoạch từng vùng kinh tế trọng điểm phải gắn với không gian của các vùng lân cận và cả nước, quy hoạch từng tỉnh, thành phải gắn với các địa phương khác trong nội vùng để không gian quy hoạch không bị chia cắt bởi các ranh giới hành chính, gây tình trạng phân bổ vốn đầu tư manh mún, thiếu tính liên kết, tính tổng thể. Bên cạnh đó, cần thực hiện nghiên cứu các luận cứ khoa học để xây dựng Bản đồ lợi thế so sánh cho tất cả các vùng kinh tế trọng điểm và các tỉnh, thành trong nội vùng, chú trọng đến những lợi thế động, lợi thế dựa trên công nghệ cao. Đồng thời, quy hoạch phát triển cần dựa trên các dự báo ngắn, trung và dài hạn của vùng, nền kinh tế quốc gia và thế giới.
Thứ hai, hoàn thiện Tổ chức điều phối và điều hành phát triển các vùng kinh tế trọng điểm. Để tăng cường công tác điều hành phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, ngày 24/11/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2059/QĐ-TTg về việc Thành lập Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm và Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. Theo Quyết định, tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm gồm ba cấp: (i) Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm (Ban Chỉ đạo); (ii) Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm (Hội đồng vùng); (iii) Tổ điều phối của các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong vùng kinh tế trọng điểm (tổ điều phối cấp bộ và tổ điều phối cấp tỉnh). Phó Thủ tướng Chính phủ là Trưởng ban Chỉ đạo, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Phó Trưởng Ban thường trực. Các thành viên Ban Chỉ đạo là Thứ trưởng hoặc tương đương của các Bộ và cơ quan ngang Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Công thương, Tài chính, Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng và Văn phòng Chính phủ. Thành viên Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm là Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chủ tịch Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung, phía Nam và Đồng bằng sông Cửu Long nhiệm kỳ 2015-2016 là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ: nghiên cứu đề xuất với Thủ tướng Chính phủ các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các vùng kinh tế trọng điểm; Các giải pháp thúc đẩy phối hợp phát triển giữa các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong các vùng kinh tế trọng điểm và giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác; Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phối hợp trong việc tổ chức thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt; Thực hiện các liên kết vùng trên các lĩnh vực như xây dựng kết cấu hạ tầng, môi trường, phát triển nguồn nhân lực, xúc tiến đầu tư và các hoạt động sản xuất, kinh doanh...; Tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo định kỳ 6 tháng, hằng năm.
Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm có nhiệm vụ: chỉ đạo và tổ chức phối hợp các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm thực hiện các Quy hoạch phát triển của vùng kinh tế trọng điểm; Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá các liên kết, giải quyết các vấn đề nảy sinh hoặc báo cáo Ban Chỉ đạo phối hợp giải quyết kịp thời…
Thứ ba, tăng quyền chủ động cho các Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm trong hoạt động đầu tư công cũng như công tác thu hút đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, cần xem xét điều chỉnh cơ chế chuyển giao ngân sách nhà nước giữa Trung ương và địa phương để cân đối hơn năng lực thu và nhu cầu chi của các vùng kinh tế trọng điểm, chẳng hạn đối với thành phố Hồ Chí Minh. Cần thay đổi cơ chế phân bổ ngân sách cho các dự án đầu tư công hiện nay là theo năm tài chính, làm mất tính liên hoàn giữa các năm trong suốt thời kỳ đầu tư.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách thể chế để nâng cao chất lượng của môi trường thể chế trong cả nước và trong từng vùng, tỉnh, thành cụ thể. Môi trường thể chế quyết định môi trường đầu tư. Chỉ trong một môi trường thể chế thuận lợi, doanh nghiệp tư nhân có động lực đổi mới công nghệ hay đầu tư vào các ngành mới, các ngành công nghệ cao, còn đầu tư công trở nên hiệu quả hơn do giảm thiểu được sự thất thoát, lãng phí cũng như đáp ứng đúng các nhu cầu thực sự của người dân và doanh nghiệp và người dân đầu tư mạnh hơn vào vốn nhân lực vì vốn nhân lực càng cao thì thu nhập từ nó càng lớn.
Thứ năm, các trường đại học trên địa bàn các tỉnh, thành trong vùng cần đẩy nhanh quá trình nâng cao chất lượng đào tạo thông qua hiện đại hóa các chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy người học làm trung tâm, tăng cường chất lượng của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên.
Kết luận
Là một trong bốn vùng kinh tế trọng điểm quốc gia, sau 20 năm hình thành và phát triển, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã trở thành vùng động lực của cả nước với đóng góp lớn nhất nền kinh tế quốc gia về sản xuất, đầu tư và ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn một số hạn chế về cơ chế, chính sách cần tháo gỡ để phát triển mạnh hơn trong giai đoạn tới. Vì vậy, trong bài viết, một số giải pháp cơ bản để góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được nhóm tác giả đề xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Amstrong H., Taylor J. (1993). Regional Economics and Policy. Second edition, Harvester and Wheatsheaf.
2. Chính phủ, Tổng quan về quá trình hình thành các vùng kinh tế trọng điểm. http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungvungkinhtetrongdiemquocgia?articleId=10000721
3. Chính phủ, các Quyết định số 1022/QĐ-TTg, 747/1997/QĐ-TTg, 1018/1997/QĐ-TTg, 44/1998/QĐ-TTg, 1022/QĐ-TTg, 145, 146, 148/2004/QĐ-TTg, 2059/QĐ-TTg
4. Phương Anh (2014), Hoàn thiện mô hình Hội đồng vùng Kinh tế trọng điểm. Kinh tế và dự báo, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-2148-hoan-thien-mo-hinh-hoi-dong-vung-kinh-te-trong-diem-.html.
5. Võ Thanh Thu, Nhìn lại 20 năm phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/kinh-te-vi-mo-kinh-te-nganh1.
Bài đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 22 tháng 11/2016