Tập trung nguồn lực để phát triển và nâng cao hiệu quả các kênh cung ứng vốn khác nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
05/09/2023 2.049 lượt xem
Nguồn vốn cung ứng cho các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) rất đa dạng, thường qua các kênh chính sau: (1) Thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), nguồn vốn cấp dựa trên tài sản qua các hình thức như cho thuê tài chính, thuê mua trả góp, bao thanh toán (nguồn vốn này thường được cung cấp bởi các TCTD phi ngân hàng); (2) Thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng qua việc sử dụng các công cụ vốn; (3) Nguồn vốn trực tuyến (cho vay ngang hàng, công nghệ tài chính - fintech). Về bản chất, hệ thống các TCTD sẽ đảm nhận vai trò cung ứng vốn ngắn hạn, trong khi đó, thị trường tài chính sẽ đảm nhận vai trò chủ đạo trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tại Việt Nam, với đặc thù thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của mình nên nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào hệ thống ngân hàng.

Nhiều văn bản, chính sách hỗ trợ DNNVV được triển khai

Tại Việt Nam, DNNVV có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chiếm 97% số lượng các doanh nghiệp và đóng góp khoảng 40% GDP, thu hút hơn 60% lao động. Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ luôn quan tâm thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh; đồng hành và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp phát triển vững mạnh, nhất là đối với DNNVV. Nhiều hệ thống văn bản được ban hành để hỗ trợ và phát triển DNNVV như Luật Hỗ trợ DNNVV số 04/2017/QH14 ngày 12/6/2017 của Quốc hội, hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV; Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV; Quyết định số 601/QĐ-TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc  thành lập Quỹ phát triển DNNVV.

 

Để tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, ngoài kênh vốn tín dụng ngân hàng, cần tập trung phát triển và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trên các kênh huy động vốn khác cho doanh nghiệp như thị trường vốn, thị trường cho thuê tài chính…

 
Bên cạnh đó, một loạt các chính sách hỗ trợ DNNVV được triển khai và thực hiện trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2023 như: Các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh cho doanh nghiệp: Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 06/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 03/10/2017 của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022; Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; chính sách tín dụng cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên của NHNN được triển khai từ trước đến nay; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh dịch Covid-19 trong đó phải kể đến các Thông tư cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 của NHNN; Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025...
 
Kênh tín dụng vẫn là nguồn cung ứng chủ yếu cho DNNVV

Thực tế tại Việt Nam cho thấy, kênh tín dụng ngân hàng hiện vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu đầu tư mở rộng kinh doanh của các DNNVV. Tính đến cuối năm 2022, tỉ lệ tín dụng/GDP ở mức 125,34%. Việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn sẽ tạo ra rủi ro nhất định cho nền kinh tế: (i) TCTD tiếp tục chịu áp lực về thanh khoản; (ii) Đối với nền kinh tế, rủi ro gia tăng lạm phát khi dựa quá nhiều vào tăng trưởng tín dụng; (iii) Tiếp tục tạo sự mất cân xứng về vai trò giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Vì vậy, cần có những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của các kênh huy động vốn trên thị trường vốn và các kênh huy động vốn khác cho DNNVV nhằm san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống các TCTD cũng như tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển bền vững, đảm bảo an toàn cho hoạt động các TCTD.

Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống các TCTD đang làm tốt vai trò huy động vốn của mình. Dư nợ DNNVV đến cuối tháng 6/2023 đạt gần 2,3 triệu tỉ đồng, tăng gần 6% so với cuối năm 2022 và tăng cao hơn mức tăng tín dụng toàn nền kinh tế, chiếm khoảng 18,3% dư nợ toàn hệ thống các TCTD. Trong khi đó, các loại hình định chế tài chính trung gian khác còn phát triển chậm, phạm vi và quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ và chủ yếu chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn đang niêm yết. Điều này phần nào cũng ảnh hưởng đến khả năng đa dạng hóa các kênh huy động vốn của phần lớn các DNNVV. Bản thân DNNVV cũng gặp nhiều rào cản trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, một phần do lịch sử tín dụng của doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu của TCTD, vấn đề về tài sản thế chấp, mức tín nhiệm chưa cao, báo cáo tài chính chưa đáp ứng...

DNNVV gặp nhiều hạn chế trong huy động vốn trên thị trường vốn

Đối với kênh huy động vốn qua thị trường vốn, trong bối cảnh hiện nay khi thị trường vốn còn nhiều vướng mắc, có những tồn tại nhất định và cần thời gian để xử lí triệt để. Hầu hết các DNNVV không thể tiếp cận được nguồn vốn trung, dài hạn thông qua việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, nguyên nhân chủ yếu là vấn đề về minh bạch thông tin của doanh nghiệp còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện về phát hành và niêm yết trái phiếu theo quy định pháp luật và sự thiếu vắng của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trên thị trường tài chính Việt Nam. Về phía doanh nghiệp, bên cạnh những kết quả đã đạt được, các DNNVV còn một số hạn chế nhất định như trình độ công nghệ chưa phát triển, mô hình quản trị doanh nghiệp còn yếu, năng suất lao động thấp, sự minh bạch về thông tin còn hạn chế... Những nhược điểm này phần nào đã hạn chế khả năng tiếp cận những nguồn vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp thông qua việc phát hành chứng khoán, tìm kiếm nguồn vốn từ đối tác chiến lược, thu hút vốn từ các quỹ đầu tư... Do đó, kênh huy động vốn qua thị trường vốn gần như không có hiệu quả đối với DNNVV.

Các quỹ hỗ trợ cho DNNVV hoạt động kém hiệu quả

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước thường có những biện pháp hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn vốn vay đến từ các định chế tài chính phi ngân hàng như công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ bảo lãnh... Nhiều nước như Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc... có các chương trình bảo lãnh tín dụng của Chính phủ hay Phát triển ngân hàng chuyên biệt cho DNNVV. Tuy nhiên, hoạt động của các quỹ tại Việt Nam để hỗ trợ DNNVV chưa phát huy hiệu quả.

Thứ nhất, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV tại Việt Nam hoạt động kém hiệu quả, chưa phát huy được vai trò hỗ trợ doanh nghiệp, nguyên nhân là do điều kiện để doanh nghiệp được bảo lãnh tương đối chặt chẽ. Theo đó, với các điều kiện chặt chẽ tương đương các điều kiện vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp rất khó tiếp cận được nguồn vốn từ quỹ bảo lãnh (đặc biệt là điều kiện liên quan đến tài sản bảo đảm), bởi lẽ, nếu doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định thì sẽ đến ngân hàng để vay vốn, không cần thông qua quỹ, để phải mất thêm phí bảo lãnh (Điều 16 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP)1. Với trường hợp doanh nghiệp được bảo lãnh tín chấp, thì Chủ tịch của Quỹ hay Hội đồng tín dụng cấp bảo lãnh chịu trách nhiệm bảo toàn vốn cũng như các nguyên tắc về quản lí tài chính (Điều 25 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP)2. Quy định này đã khiến những người đứng ra bảo lãnh tín chấp cho doanh nghiệp vay vốn ái ngại vì sợ trách nhiệm, do đó, quy định này khó khả thi thực hiện. Một trong các điều kiện thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng là vốn điều lệ thực có tối thiểu tại thời điểm thành lập Quỹ là 100 (một trăm) tỉ đồng do ngân sách cấp tỉnh cấp3. Việc quy định mức vốn điều lệ tối thiểu này chỉ phù hợp với thành phố lớn, trong khi tại các địa phương thì nguồn lực có hạn; do đó, quy định này cũng tạo ra nhiều bất cập.

Thứ hai, hành lang pháp lí cho việc phát triển Quỹ đầu tư mạo hiểm còn thiếu. Nghị định số 99/2003/NĐ-CP ngày 28/8/2003 của Chính phủ về việc ban hành quy chế khu công nghệ cao, chỉ quy định về quỹ đầu tư mạo hiểm trong khu công nghiệp. Tuy nhiên, DNNVV lại không mặn mà trong việc tiếp cận các quỹ này, do các quỹ trên thị trường muốn tham gia quản lí doanh nghiệp hay sở hữu cổ phần lớn tại các doanh nghiệp.

Khả năng tiếp cận vốn của DNNVV qua kênh dựa trên tài sản chưa phát triển

Trên thế giới, hoạt động cho thuê tài chính rất phát triển và là một trong những kênh hỗ trợ vốn cực kì hiệu quả và hữu ích cho DNNVV. Tuy nhiên, tại Việt Nam, hoạt động này hiện còn hạn chế. Theo khoản 7 Điều 3 Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/5/2014 của Chính phủ về hoạt động của công ty tài chính và cho thuê tài chính, cho thuê tài chính là hoạt động cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê tài chính với bên thuê tài chính. Trong đó: Bên cho thuê tài chính cam kết mua tài sản cho thuê tài chính theo yêu cầu của bên thuê tài chính và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê tài chính trong suốt thời hạn cho thuê. Cụ thể, tài sản cho thuê tài chính là máy móc, thiết bị hoặc tài sản khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và được hướng dẫn cụ thể các loại tài sản cho thuê trong từng thời kì. Như vậy, nếu DNNVV không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng, hoàn toàn có thể tận dụng kênh huy động vốn này để phát triển doanh nghiệp. Hiện nay, tổng dư nợ cho thuê tài chính/tổng tín dụng cho nền kinh tế còn thấp; đến cuối năm 2022, chiếm khoảng 0,33%. Do đó, tiềm năng để phát triển kênh cung ứng vốn này cho DNNVV là rất lớn. Năm 2023, tăng trưởng GDP dự kiến tăng khoảng 5 - 6,5%; trong đó, dự kiến mức chi nhập khẩu máy móc, thiết bị sẽ tăng 3 - 6% so với năm 2022. Theo đó, cần phải có các chính sách nhằm khuyến khích phát triển thị trường cho thuê tài chính thông qua việc khuyến khích sử dụng dịch vụ/tài sản thuê tài chính.

Từ những phân tích ở trên, để tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, ngoài kênh vốn tín dụng ngân hàng đang làm tốt và vượt quá vai trò, sứ mệnh của mình, cần tập trung phát triển và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trên các kênh huy động vốn khác cho doanh nghiệp như thị trường vốn, thị trường cho thuê tài chính. Bản thân doanh nghiệp cũng cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, xây dựng phương án, dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, tạo niềm tin để các TCTD yên tâm cấp tín dụng và cần cải thiện hơn nữa nhận thức về các kênh huy động vốn khác ngoài hệ thống ngân hàng. Đồng thời, cần có sự phối hợp đồng bộ, quyết liệt của các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện các giải pháp về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ.
 
 
1 Điều 16. Điều kiện để được cấp bảo lãnh tín dụng
Các đối tượng được bảo lãnh tín dụng quy định tại Điều 15 Nghị định này chỉ được Quỹ bảo lãnh tín dụng xem xét cấp bảo lãnh khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
1. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay.
2. Dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh được Quỹ bảo lãnh tín dụng thẩm định và quyết định bảo lãnh theo quy định tại Nghị định này.
3. Có phương án về vốn chủ sở hữu tối thiểu 20% tham gia dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh tại thời điểm Quỹ bảo lãnh tín dụng thẩm định để xem xét cấp bảo lãnh.
4. Tại thời điểm đề nghị bảo lãnh, doanh nghiệp không có các khoản nợ thuế từ 01 năm trở lên theo Luật Quản lý thuế và nợ xấu tại các tổ chức tín dụng. Trường hợp nợ thuế do nguyên nhân khách quan, doanh nghiệp phải có xác nhận của cơ quan quản lý thuế trực tiếp.
 5. Có biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh vay vốn theo quy định tại Điều 25 Nghị định này.
2 Điều 25. Biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh vay vốn
1. Các biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh vay vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng quy định tại Nghị định này gồm: a) Quyền tài sản, tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp được xem xét cấp bảo lãnh tín dụng hoặc tài sản hiện có của bên thứ ba; b) Dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp được xem xét cấp bảo lãnh tín dụng theo đánh giá của Quỹ bảo lãnh tín dụng; c) Xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp được xem xét cấp bảo lãnh tín dụng theo đánh giá xếp hạng của Quỹ bảo lãnh tín dụng là doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho khoản vay tại tổ chức cho vay.
2. Quỹ bảo lãnh tín dụng đánh giá và quyết định việc sử dụng một hoặc nhiều biện pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh vay vốn và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định này. Trường hợp miễn tài sản bảo đảm quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, Quỹ bảo lãnh tín dụng trình Chủ tịch Quỹ xem xét, quyết định biện pháp bảo đảm tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này theo quy định tại Quy chế về các trường hợp được miễn tài sản bảo đảm tại khoản 4 Điều này.
3. Trong từng trường hợp, bên được bảo lãnh thỏa thuận, thống nhất với Quỹ bảo lãnh tín dụng về biện pháp bảo đảm và ghi cụ thể trong hợp đồng bảo lãnh tín dụng quy định tại Nghị định này.
4. Quỹ bảo lãnh tín dụng trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Quy chế về các biện pháp bảo đảm, thẩm quyền quyết định đối với từng biện pháp bảo đảm, trường hợp miễn tài sản bảo đảm của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào các tiêu chí: Lĩnh vực ngành nghề ưu tiên phát triển của địa phương, điều kiện tài chính của doanh nghiệp, mức độ rủi ro của dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng và các tiêu chí khác theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
3 Điều 5. Điều kiện thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng
1. Vốn điều lệ thực có tối thiểu tại thời điểm thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng là 100 (một trăm) tỷ đồng do ngân sách cấp tỉnh cấp.
2. Có Đề án thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình và được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận. Đề án phải bao gồm các nội dung cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định này.
3. Có dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng phù hợp với quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật liên quan.
4. Danh sách các thành viên dự kiến của Quỹ bảo lãnh tín dụng gồm: Chủ tịch, Kiểm soát viên, Giám đốc, Phó giám đốc và Kế toán trưởng Quỹ bảo lãnh tín dụng gồm những người đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn quy định tại Điều 10, Điều 11, Điều 12 và Điều 13 Nghị định này.

Linh Phương (NHNN)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
28/09/2023 101 lượt xem
Tín dụng đầu tư của Nhà nước là tín dụng do Nhà nước thực hiện để hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế và các vùng khó khăn cần khuyến khích, nhằm thực hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội từng thời kì.
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
27/09/2023 178 lượt xem
Đổi mới sáng tạo cùng với phát triển khoa học, công nghệ đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực công nghệ mới.
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
26/09/2023 288 lượt xem
Thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, còn nhiều rào cản khiến quy mô tín dụng xanh chưa được như kì vọng.
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
21/09/2023 735 lượt xem
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi trong ngân hàng là vấn đề rất cần thiết bởi điều này góp phần đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn và lành mạnh.
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
19/09/2023 929 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN (Thông tư số 06) sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN (Thông tư số 39) quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây viết tắt là TCTD) đối với khách hàng.
Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”
Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”
15/09/2023 1.226 lượt xem
Thời gian qua, NHNN đã hoàn thiện khung khổ pháp lí về hoạt động cho vay, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, hỗ trợ hoạt động vay vốn của người dân, doanh nghiệp. NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo các tổ chức tài chính, tín dụng mở rộng, đa dạng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
07/09/2023 2.016 lượt xem
Với sự phát triển của khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đem lại, quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
30/08/2023 2.568 lượt xem
Kinh tế ban đêm (night - time economy) đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có ngành du lịch phát triển, trong đó có Việt Nam. Đề án phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 1129/QĐ-TTg ngày 27/7/2020 nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng phát triển kinh tế ban đêm, tận dụng tối đa cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống của người dân.
Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
21/08/2023 3.180 lượt xem
Bài viết này nghiên cứu quy định về biện pháp bảo đảm trong chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ khi chính sách này được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (năm 2002) đến nay.
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
04/08/2023 5.790 lượt xem
Trong những năm qua, Việt Nam liên tục đạt được những bước phát triển tích cực, luôn đứng trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển nhanh, vị thế trên trường quốc tế ngày càng cao; đời sống người dân được nâng lên, thứ tự năng lực cạnh tranh quốc tế được cải thiện, trong đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tích cực đã có nhiều đóng góp lớn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam suốt giai đoạn vừa qua.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
01/08/2023 6.204 lượt xem
Trong nửa đầu năm 2023, bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều gam màu trầm dưới tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới và những khó khăn nội tại của kinh tế trong nước. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 3,72%, là mức thấp nhất trong giai đoạn từ năm 2011 tới nay (nếu loại trừ năm 2020 do tác động của dịch Covid-19).
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay  của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
28/07/2023 4.576 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (Thông tư số 06). Thông tư số 06 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2023.
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
21/07/2023 5.087 lượt xem
Để bắt kịp xu thế của thời đại, các công ty nói chung và ngân hàng nói riêng phải tiến hành chuyển đổi số. Nếu không số hóa trong quá trình kinh doanh, không áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động đầu tư hằng ngày thì lĩnh vực ngân hàng Việt Nam có nguy cơ tụt hậu và chậm phát triển so với thế giới. Bài viết tổng hợp cách tiếp cận và kinh nghiệm về chuyển đổi số tại một số tổ chức trên thế giới, từ đó khuyến nghị về chính sách pháp lí góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
18/07/2023 4.911 lượt xem
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-NHNN ngày 30/6/2023 quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh (Thông tư số 08), áp dụng với các đối tượng gồm: Người cư trú là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam là bên đi vay nước ngoài (gọi chung là bên đi vay); TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nơi bên đi vay mở tài khoản vay, trả nợ nước ngoài (gọi chung là ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản).
Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác và một số kiến nghị hoàn thiện
Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác và một số kiến nghị hoàn thiện
10/07/2023 5.236 lượt xem
Luật Hợp tác xã năm 2012 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?