Tái cơ cấu tổ chức tín dụng - Những kết quả đạt được
20/11/2020 26.038 lượt xem
Triển khai trong nhiều năm qua, đến nay, toàn ngành Ngân hàng đã đạt được những kết quả khá toàn diện trên nhiều phương diện về tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam.
 
Hệ thống TCTD Việt Nam đã được nâng lên cả về chất lượng, quy mô và uy tín, tạo tiền đề cho quá trình tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế của hệ thống ngân hàng.
 
Quyết liệt xử lý nợ xấu
 
Trong hơn 2 năm qua, toàn ngành Ngân hàng đã triển khai thực hiện quyết liệt Nghị quyết 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu của Quốc hội. Tính từ năm 2012 đến hết năm 2019, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 1.064 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến cuối tháng 12/2019, toàn hệ thống TCTD xử lý được 305,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42, không bao gồm sử dụng dự phòng rủi ro và khoản bán nợ cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt. Như vậy, trung bình mỗi tháng toàn hệ thống TCTD xử lý được khoảng 10,5 nghìn tỷ đồng, cao hơn 4,9 nghìn tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình từ 2012-2017 trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực. Đồng thời cũng là dấu hiệu tích cực cho thấy, Nghị quyết số 42 đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD. Kết quả xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 cho thấy ý thức trả nợ của khách hàng đã được cải thiện một bước quan trọng. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy, Nghị quyết 42 đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD. 
 
NHTM TNHH 1 thành viên Xây dựng (NCB) được NHNN mua lại với giá 0 đồng là một trong số NHTM điển hình về thu hồi nợ xấu. Số liệu luỹ kế tính đến 30/11/2019, NCB đã thu hồi nợ xấu đạt trên 5.500 tỷ đồng đối với nhóm nợ thu hồi theo bản án và trên 800 tỷ đồng thu hồi từ nhóm nợ nhỏ lẻ. 
 
Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD cuối năm 2019 bao gồm cả nợ tiềm ẩn là 4,59%, thấp hơn rất nhiều so với con số báo cáo Quốc hội đầu nhiệm kỳ (năm 2016) là 10,8%. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD đến hết năm 2019 còn 1,89%. Các NHTM Nhà nước có quy mô lớn, vốn có tỷ lệ nợ xấu cao thì đến hết năm 2019 đã giảm xuống mức thấp hơn tỷ lệ nợ xấu chung của toàn hệ thống TCTD; cụ thể, Agribank giảm xuống còn 1,46%, Vietcombank có tỷ lệ nợ xấu dưới 0,8%, Vietinbank cũng có tỷ lệ nợ xấu dưới 1,2%.
 
Mở rộng tất toán nợ xấu đã bán cho VAMC
 
Việc tất toán nợ xấu tại VAMC trước hết là do năng lực tài chính của nhiều NHTM ngày càng được tăng cường cùng với việc chủ động xử lý nợ xấu có kết quả cao. NHTM có thể mua lại toàn bộ nợ xấu và trích lập toàn bộ dự phòng rủi ro còn lại cho số nợ xấu đó. Đây là nợ xấu đã bán đủ 5 năm và đã trích lập đủ 100 % dự phòng rủi ro nay nhận lại. Bên cạnh đó, NHTM nhận thấy việc mua lại nợ xấu đã bán cho VAMC về tự xử lý có hiệu quả hơn. Tính đến hết năm 2019, đã có 11 NHTM đã tất toán toàn bộ số nợ xấu đã bán cho VAMC (Vietcombank, Techcombank, MB, VIB, OCB, Nam A Bank, TPBank, VPBank, Agribank, Kienlongbank và SeABank).
 
Năm 2019 cũng là thời điểm mà phần lớn lượng trái phiếu VAMC phát hành năm 2014  đã đến hạn, mỗi năm, các NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro 20% cho số nợ xấu đã bán, do đó, việc các TCTD phải tất toán với VAMC theo đúng thời hạn quy định cũng là điều bình thường. Vì vậy, trong 2 năm qua, số lượng NHTM tất toán nợ xấu với VAMC ngày càng tăng lên. Với việc tất toán nợ đã bán cho VAMC đến hạn và sử dụng luôn dự phòng đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt từ trước đến nay để xử lý rủi ro, thì đây được xem là nguồn lực tài chính dự phòng của các NHTM.


Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD cuối năm 2019 bao gồm cả nợ tiềm ẩn là 4,59%, 
thấp hơn rất nhiều so với con số báo cáo Quốc hội đầu nhiệm kỳ (năm 2016) là 10,8%
 
Bên cạnh đó, việc mua lại trước hạn nợ xấu đã bán cho VAMC mang lại nhiều lợi ích hơn cho các NHTM. Thứ nhất, nếu vẫn để nợ xấu tại VAMC, định kỳ mỗi năm, các NHTM phải trích lập chi phí dự phòng 20% giá trị trái phiếu đặc biệt đối với kỳ hạn 5 năm và 10% đối với kỳ hạn 10 năm. Áp lực chi phí trích lập như trên là khá lớn đối với một số NHTM đang có lợi nhuận khiêm tốn. Vì vậy, việc mua lại hay tất toán trước hạn nợ xấu bán cho VAMC sẽ giúp các NHTM có điều kiện đánh giá, xem xét lại chất lượng khoản vay để đưa về nhóm phù hợp hơn. Thứ hai, việc mua lại nợ xấu đã bán trước đây cũng tạo cơ hội cho các NHTM định giá lại tài sản bảo đảm theo giá thị trường mới nhất. Phần lớn các khoản vay bán cho VAMC trước đây đều có tài sản bảo đảm là bất động sản. Với diễn biến thị trường nhà đất đã tăng mạnh trong 3 năm qua, việc định giá lại có thể giúp nhiều NHTM giảm được chi phí trích lập dự phòng đáng kể. Thứ ba, với thực tế tình trạng xử lý nợ của VAMC đang khá chậm do nguồn lực bị hạn chế, thì việc mua lại nợ xấu đã bán cho VAMC trước đây sẽ giúp các NHTM có thể chủ động xử lý các khoản nợ xấu này nhanh hơn, nhất là khi hàng loạt quy định về giải pháp xử lý nợ xấu đột phá đã được chính thức ban hành qua Nghị quyết 42 của Quốc hội từ tháng 7/2017.
 
Nâng cao quy mô vốn pháp định 
 
Với sự tham mưu của NHNN, để đảm bảo phù hợp với thực tiễn Việt Nam và yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của các TCTD, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2019/NĐ-CP, ngày 14/11/2019, quy định mức vốn pháp định của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài. Theo đó, mức vốn pháp định đối với các loại hình NH, TCTD  được quy định như sau: NHTM: 3.000 tỷ đồng; Ngân hàng Chính sách và xã hội: 5.000 tỷ đồng; NH Hợp tác xã: 3.000 tỷ đồng; Chi nhánh NH nước ngoài: 15 triệu đô la Mỹ (USD); Công ty tài chính: 500 tỷ đồng;  Công ty cho thuê tài chính: 150 tỷ đồng; Tổ chức tài chính vi mô: 05 tỷ đồng;  Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn một xã, một thị trấn: 0,5 tỷ đồng;  Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn một phường; quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn liên xã, liên xã phường, liên phường: 1 tỷ đồng..
 
Tính đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của toàn hệ thống TCTD Việt Nam đạt 591.800 tỷ đồng, tăng gần 3% so với cuối năm 2018 và tăng 15,5% so với cuối năm 2017. Vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống TCTD đạt 856.100 tỷ đồng, tăng hơn 12% so với cuối năm 2018 và gần 30% so với cuối năm 2017. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) ở mức 11,9%. 
 
Tính đến hết tháng 9/2019, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) toàn hệ thống TCTD là 12%. Đứng đầu là nhóm NH liên doanh nước ngoài 24,84% theo sau là NH Hợp tác xã gần 18,7% và công ty tài chính, cho thuê là 17,93%. Với nhóm NHTM Nhà nước, CAR là 9,78% trong khi nhóm NHTM cổ phần là 10,81%. Đây cũng là 2 nhóm có CAR thấp nhất trong hệ thống (loại trừ NH Chính sách xã hội Việt Nam và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân).
 
Tính đến hết tháng 9/2019, tính chung toàn hệ thống TCTD, tổng tài sản có đạt hơn 12 triệu tỷ đồng, tăng 8,5% so với cuối năm trước. Trong đó, các NHTM Nhà nước là 5,2 triệu tỷ đồng, tăng 7% so với cuối năm trước. Khối NHTM cổ phần có tổng tài sản 4,96 triệu tỷ đồng, tăng hơn 9% so với cuối năm trước. Khối ngân hàng liên doanh, nước ngoài sở hữu gần 1,3 triệu tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2018.
 
Vốn điều lệ toàn hệ thống TCTD là 597.521 tỷ đồng, tăng 3,7% so với cuối 2018. Dẫn đầu là nhóm NHTM cổ phần với 276.098 tỷ đồng, tăng 3,32% so với cuối năm trước. Nhóm NHTM Nhà nước có vốn điều lệ 149.096 tỷ đồng, chỉ tăng 0,82% so với cuối năm trước. Ngân hàng liên doanh nước ngoài là 120.773 tỷ đồng, tăng 6,42% so với cuối năm trước.
 
Về thực hiện tỷ lệ an toàn: tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn của toàn hệ thống TCTD là 27,34%. Tính riêng các NHTM Nhà nước, tỷ lệ này là 29,96%, trong khi nhóm NHTM cổ phần là 30,89%. Theo lộ trình giảm tỉ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, từ 1/1/2020 đến 30/9/2020, tỷ lệ trên với các TCTD là 40%. Giai đoạn 1/10/2020 - 30/9/2021, tỷ lệ tối đa là 37%, từ 1/10/2021 đến 30/9/2022 là 34%, sau 1/10/2022 là 30%.
 
Hiện nay, có 9 NH 100% vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam đều xuất phát từ những tập đoàn tài chính lớn mạnh, uy tín hàng đầu thế giới. Trong môi trường kinh doanh đang hội nhập quốc tế mạnh mẽ như Việt Nam cùng với sự hậu thuẫn của tổ chức mẹ, các ngân hàng đó đang cạnh tranh với các NH trong nước, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư và các dịch vụ NH tiện ích cho nền kinh tế, với kết quả kinh doanh không ngừng được nâng cao.
 
Việc phát triển của các NH 100% vốn nước ngoài và NH liên doanh, thúc đẩy môi trường cạnh tranh hoạt động NH trong nước, thúc đẩy các NH Việt Nam nâng cao sức mạnh cạnh tranh vì sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
 
Đảm bảo tiêu chuẩn an toàn của Basel II
 
Tỷ lệ CAR là một trong những yếu tố quan trọng liên quan đến chuẩn Basel II. Tính đến giữa tháng 12/2019, NHNN đã có quyết định công nhận 18 NH đáp ứng được  áp dụng Thông tư 41/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với NH, chi nhánh NH theo chuẩn Basel II; bao gồm: Vietcombank, VIB, OCB, TPBank, ACB, Techcombank, VPBank, MB, HDBank, VietBank, VietCapitalBank, MSB, SeABank, Nam A Bank, LienVietPostBank và BIDV, cùng với hai NH nước ngoài gồm Shinhan Bank và Standard Chartered Bank Việt Nam.
 
Trụ cột 2 về đánh giá nội bộ mức độ đủ vốn là một nội dung quan trọng của Basel II. VIB đã phối hợp với Công ty tư vấn PWC, tiếp cận các phương pháp tính toán ICAAP đã triển khai tại các NH có quy mô tương tự trong khu vực Đông Nam Á. VIB tiếp tục phát triển Basel II theo phương pháp nâng cao và hướng tới áp dụng các chuẩn mực của Basel III vào công tác quản trị rủi ro. VIB sẽ cần khoảng 10 năm từ lúc khởi động để hoàn thành áp dụng Basel II theo phương pháp đánh giá nội bộ nâng cao (AIRB) vào năm 2025.
 
Nền tảng quản trị rủi ro của VIB được chuyển giao từ cổ đông chiến lược CommonWealth Bank of Australia (CBA). VIB đặt ra một lộ trình rõ ràng khi triển khai Basel II sớm hơn thời hạn do NHNN quy định và coi việc hoàn thành 3 trụ cột Basel II là một trong các đầu việc quan trọng nằm trong tầm nhìn dài hạn về quản trị rủi ro của NH.
 
Tại Việt Nam, chuẩn mực vốn Basel II được quy định một phần theo Thông tư 41 và Thông tư 13 (ban hành năm 2018) của NHNN, trong đó, Thông tư 41 quy định về phần lớn nội dung của hai trong ba trụ cột Basel II là tỷ lệ an toàn vốn và công bố thông tin.
 
Basel II là phiên bản thứ 2 của Hiệp ước vốn Basel, quy định các nguyên tắc chung mà NHTM phải tuân thủ và được hầu hết các NH trên thế giới áp dụng. Tuân thủ theo Basel II sẽ giúp ngân hàng đáp ứng được những nguyên tắc quản trị rủi ro cao hơn, hoạt động an toàn và bền vững hơn. Đây là những nguyên tắc mà các ngân hàng trên thế giới tuân thủ nhằm nâng cao năng lực quản lý rủi ro và chuẩn mực an toàn trong hoạt động NH theo thông lệ quốc tế. Basel II là bộ tiêu chuẩn quốc tế không chỉ bao gồm việc lượng hóa rủi ro thông qua các chỉ số và mô hình, mà còn bao gồm yêu cầu hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản trị, chính sách, nâng cao văn hóa rủi ro và tăng cường tính minh bạch của thị trường. 
 
Mô hình Basel II gồm 3 trụ cột chính là tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, quy trình rà soát giám sát và việc công khai thông tin. Về góc độ pháp lý, hiện nay NHNN đã ban hành đầy đủ các văn bản quy định cho cả 3 trụ cột, cụ thể đối với trụ cột thứ nhất là Thông tư 41/2016/TT/NHNN, trụ cột thứ hai là Thông tư 13/2018/TT/NHNN, trong đó thể hiện phần quản lý rủi ro và ICAAP (Internal Capital Adequacy Assessment Process - Quy trình đánh giá tính đầy đủ vốn nội bộ), trụ cột thứ ba cũng được quy định trong Thông tư 41 qua phần công bố thông tin. Như vậy, qua hai Thông tư 41 và Thông tư 13, toàn bộ khuôn khổ pháp lý hướng dẫn việc triển khai Basel II đã hoàn chỉnh. 
 
Gia tăng quy mô lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh
 
Vietcombank tiếp tục dẫn đầu về quy mô lợi nhuận của toàn bộ hệ thống TCTD ở Việt Nam trong năm 2019. Lợi nhuân hợp nhất trước thuế năm 2019 của Vietcombank  tăng 26% so với năm 2018 và vượt gần 13% kế hoạch đề ra. Với quy mô đó, lợi nhuận đã chính thức cán mốc 1 tỷ USD, sớm trước 1 năm so với dự kiến. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử hệ thống ngân hàng Việt Nam có thành viên đạt mốc 1 tỷ USD lợi nhuận.
 
Quy mô lợi nhuận đứng hàng thứ hai là Agribank, tiếp theo là, Vietinbank. 
 
Quy mô lợi nhuận, tăng trưởng tổng tài sản và các chỉ tiêu khác là kết quả tổng hợp của quá trình tái cơ cấu các TCTD Việt Nam đạt được trong năm 2019, làm tiền đề cho tái cơ cấu năm tiếp theo.
 
Thu hút cổ đông chiến lược nước ngoài
 
Trong thời gian qua, nhiều NHTM cổ phần Việt Nam đang tích cực thực hiện nhiều biện pháp thu hút cổ đông chiến lược nói chung và cổ đông chiến lược nước ngoài nói riêng, nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đầu tư hiện đại hóa công nghệ, tái cơ cấu hiệu quả hơn. 
 
Tính đến nay, ở nhóm NHTM Nhà nước đã có 3 NH có cổ đông chiến lược nước ngoài. Cụ thể, Vietcombank với Mizuho Bank hiện sở hữu 15%; tại thời điểm đầu năm 2019 Vietcombank đã phát hành riêng lẻ hơn 111 triệu cổ phiếu VCB (trị giá khoảng 310 triệu USD) cho GIC Private Limited của Singapore và Mizuho Bank Ltd của Nhật Bản. Vietinbank với Bank of Tokyo - Mitsubishi UFJ và Quỹ Đầu tư cấp vốn IFC sở hữu lần lượt 19,73% và 5,4%. BIDV bên cạnh việc bán 15% vốn cho KEB Hana Bank, thì cũng sẽ bán tối đa 12% vốn điều lệ cho nhà đầu tư tài chính nước ngoài, vốn nhà nước còn tương đương 65%. Giai đoạn kế tiếp, từ năm 2021, sẽ tiếp tục giảm vốn nhà nước từ 65% xuống còn 51% cùng kế hoạch niêm yết cổ phiếu lên sàn chứng khoán quốc tế. 
 
Một số NHTM cổ phần khác cũng đang thực hiện các bước tìm kiếm, đàm phán bán cổ phần cho cổ đông lớn, nếu không bán được và không tự tìm nguồn tiền nâng được quy mô vốn pháp định theo lộ trình thì buộc phải sáp nhập hay bán lại cho 
NHTM khác.
 
Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
 
Việc niêm yết cổ phiếu của các NHTM cổ phần Việt Nam trên thị trường chứng khoán không chỉ là thực hiện lộ trình theo yêu cầu của Chính phủ, mà còn là vì chính lợi ích của các NHTM này. Bởi vì, việc niêm yết yêu cầu minh bạch thông tin, đánh giá khách quan của các nhà đầu tư cũng như của thị trường tài chính về năng lực cạnh tranh và tiềm năng kinh doanh của NHTM, thu hút nhiều nhà đầu tư mới,…
 
Thực hiện lộ trình và mục tiêu đó, trong các năm 2017 và 2018, nhiều NHTM cổ phần quy mô lớn đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, như: VPBank, Techcombank, TPBank, HDBank. VietBank là NHTM duy nhất lên UPCoM. 
 
Giải quyết dứt điểm tình trạng sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng
 
Tính đến hết tháng 6/2019, không còn tình trạng sở hữu chéo giữa các TCTD. Trong khi đó, số cặp TCTD sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau đã được khắc phục hết. 
 
Cạnh tranh sôi động phát triển ngân hàng số và Fintech
 
Trong thời gian qua, các NHTM đẩy mạnh đổi mới, ứng dụng công nghệ của cuộc cách mạng 4.0 vào nghiệp vụ và hoạt động tín dụng, thanh toán và các dịch vụ khác. Việc chuyển đổi thẻ chip, kết hợp với phát triển các ứng dụng di động, hướng đến thanh toán không dùng tiền mặt được đẩy mạnh. Sự phát triển bùng nổ công nghệ kéo theo sự phát triển của doanh nghiệp fintech tham gia vào lĩnh vực tài chính như trung gian thanh toán, cho vay trực tuyến... Nhiều ví điện tử xuất hiện, như: Smartnet, Moca, PAYTECH, Monpay, Momo, Zalopay... 
 
Đối với các NHTM, nhiều dịch vụ phân tán đặt ra thách thức phải tối đa hóa hiệu quả và giữ chi phí càng thấp càng tốt trong khi yêu cầu bảo mật ngày càng nghiêm ngặt. Giải pháp các NHTM Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi số là tự đổi mới, bắt tay với công ty công nghệ hoặc tăng cường hợp tác với fintech để nhanh chóng tận dụng thế mạnh của đôi bên. Ba trong số những lợi ích vượt trội mà chuyển đổi số mang tới cho các NHTM là nâng cao trải nghiệm của khách hàng; thúc đẩy phát triển các sản phẩm mới; nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
www.sbv.gov.vn
www.ssc.gov.vn
www.ssi.com.vn
www.hsx.vn
www.hnx.vn

TS. Lê Đình Hạc
 
Theo TCNH số 11/2020
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
09/07/2024 473 lượt xem
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
01/07/2024 1.198 lượt xem
Năm 2024, chống hoạt động IUU được xem là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa lâu dài đối với phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam. Các quy định IUU được thiết lập thống nhất trên toàn EU để ngăn chặn và loại bỏ việc nhập khẩu các sản phẩm thủy sản bị đánh giá là có hoạt động IUU vào thị trường EU nhằm hướng tới ngành ngư nghiệp, ngành kinh tế thủy sản minh bạch, trách nhiệm, bền vững.
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
20/06/2024 1.070 lượt xem
Chính sách tiền tệ (CSTT) xanh của ngân hàng trung ương (NHTW) trong việc cho vay đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) là một công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Nâng cao vai trò của Ủy ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ  trong công ty cổ phần
Nâng cao vai trò của Ủy ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ trong công ty cổ phần
18/06/2024 1.480 lượt xem
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán giữ vai trò quan trọng đối với sự lành mạnh về thông tin công bố trên thị trường tài chính nói chung và doanh nghiệp nói riêng.
Thành công bước đầu trong mục tiêu thu hẹp chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước
Thành công bước đầu trong mục tiêu thu hẹp chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước
06/06/2024 1.320 lượt xem
Đến sáng 05/6/2024, khoảng cách giữa giá vàng miếng SJC trong nước quy đổi so với giá vàng thế giới được thu hẹp đáng kể - đây là thành công bước đầu trong giải pháp mà NHNN mới đưa ra.
Quyết liệt triển khai các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Quyết liệt triển khai các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
31/05/2024 1.475 lượt xem
Kết thúc năm 2023, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực: Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đồng tiền Việt Nam cơ bản ổn định; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách trong tầm kiểm soát...
Chính sách tiền tệ góp phần hạn chế sự hình thành các doanh nghiệp zombie tại Việt Nam
Chính sách tiền tệ góp phần hạn chế sự hình thành các doanh nghiệp zombie tại Việt Nam
31/05/2024 1.236 lượt xem
“Doanh nghiệp zombie” lần đầu tiên được đề xuất như một thuật ngữ kinh tế bởi Kane (1987) và được nhắc đến nhiều nhất vào những năm 1990 trong thời kì khủng hoảng kinh tế kéo dài khoảng 10 năm (1991 - 2001) sau sự sụp đổ của bong bóng giá tài sản tại Nhật Bản.
Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm ổn định lạm phát tại Việt Nam
Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm ổn định lạm phát tại Việt Nam
13/05/2024 3.206 lượt xem
Ổn định lạm phát luôn được coi là một biến số kinh tế vĩ mô trọng tâm tại Việt Nam. Trong giai đoạn lạm phát phi mã từ năm 1986 đến năm 1990, chính sách tiền tệ đóng vai trò chủ đạo với giải pháp nâng lãi suất để hút tiền khỏi quá trình lưu thông. Đến giai đoạn lạm phát cao từ năm 2007 đến năm 2012, chính sách tiền tệ và tài khóa cùng thắt chặt để giảm lượng vốn đầu tư, thể hiện trực tiếp cho lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
01/05/2024 1.671 lượt xem
Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật và quy chế nội bộ của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) về hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ bảo toàn) và thực tiễn thi hành từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo toàn.
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 9.794 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 1.886 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 2.771 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 2.608 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 5.015 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.697 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

77.500

79.500

Vàng SJC 5c

77.500

79.520

Vàng nhẫn 9999

75.600

77.000

Vàng nữ trang 9999

75.500

76.600


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,127 25,477 26,885 28,360 31,917 33,274 156.80 165.96
BIDV 25,157 25,477 27,090 28,390 32,186 33,429 157.71 166.56
VietinBank 25,157 25,477 27,180 28,380 32,396 33,406 158.36 166.11
Agribank 25,160 25,477 27,065 28,310 32,089 33,255 157.73 165.80
Eximbank 25,130 25,476 27,140 27,981 32,273 33,175 158.91 163.85
ACB 25,140 25,477 27,136 28,068 32,329 33,306 158.59 164.86
Sacombank 25,190 25,477 27,338 28,340 32,507 33,217 159.66 164.69
Techcombank 25,132 25,477 27,000 28,353 31,994 33,324 155.51 167.92
LPBank 24,937 25,477 26,998 28,670 32,415 33,421 157.95 169.10
DongA Bank 25,180 25,477 27,140 28,010 32,200 33,300 156.60 164.60
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,30
3,60
4,30
4,40
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,60
2,60
2,90
3,80
3,80
4,50
4,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
2,00
2,00
2,30
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
2,90
3,10
3,20
4,00
4,00
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?