Sự cần thiết luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
17/01/2022 4.303 lượt xem
Ngày 21/6/2017, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42/2017/QH14)...
 
Ngày 21/6/2017, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42/2017/QH14). Theo đó, Quốc hội cho phép thực hiện thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (sau đây gọi là TCTD). Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 được đánh giá là bước tiến quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật về xử lý nợ xấu ở nước ta. Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã khắc phục được nhiều điểm tồn tại, hạn chế trong công tác xử lý nợ xấu, tạo khung khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu. Nhờ có Nghị quyết số 42/2017/QH14, ý thức của người dân và doanh nghiệp về nghĩa vụ trả nợ vốn vay cho các TCTD đã được cải thiện và nâng cao; đồng thời, các TCTD có thêm công cụ pháp lý có hiệu lực cao để chủ động, tích cực hơn trong việc thực hiện xử lý thu hồi nợ xấu. Thêm nữa, các cơ quan chức năng có liên quan cũng đã thiện chí hơn trong việc phối hợp, hỗ trợ các TCTD xử lý thu hồi nợ xấu. Kết quả thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 thời gian qua đã chứng minh được tính đúng đắn, tầm quan trọng, ý nghĩa của Nghị quyết số 42/2017/QH14 trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. Số liệu thống kê trong các báo cáo gửi cơ quan chức năng của Nhà nước về công tác xử lý nợ xấu của các TCTD thể hiện việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã mang lại những hiệu quả rõ rệt cho công tác xử lý nợ xấu của các TCTD, góp phần xử lý hiệu quả nợ xấu, thu hồi vốn cho các TCTD để tái đầu tư, quay vòng vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. 
 
Việc các TCTD đẩy nhanh quá trình xử lý thu hồi nợ xấu không chỉ sớm khơi thông “cục máu đông”, nguồn vốn cho vay còn tồn đọng, chưa thu hồi được trong nền kinh tế mà còn giảm thiểu thiệt hại cho khách hàng vay, bên bảo đảm để hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho các TCTD vì thời gian xử lý nợ xấu càng kéo dài thì tài sản bảo đảm càng có nguy cơ xuống cấp, giảm giá trị và nợ vay phát sinh ngày càng cao do dư nợ gốc được tính theo lãi suất nợ quá hạn (thường áp dụng bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn). Khi nợ xấu nhanh chóng được xử lý thu hồi về mức được kiểm soát và an toàn thì các TCTD mới có điều kiện mở rộng cho vay với lãi suất thấp (giá vốn rẻ) để hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh theo chủ trương, chính sách của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Tạm tính lũy kế từ ngày 15/8/2017 (ngày Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực) đến ngày 31/5/2021, toàn hệ thống các ngân hàng đã xử lý thu hồi được 353,81 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14, không bao gồm nợ xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro. Tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 được xử lý thu hồi trong giai đoạn từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/5/2021, đạt trung bình khoảng 6,06 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 2,54 nghìn tỷ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết số 42/2017/QH14 (giai đoạn năm 2012 - 2017), đạt khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng1. Đến nay, Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ còn hơn nửa năm nữa là kết thúc thời gian thí điểm về xử lý nợ xấu của các TCTD và hết hiệu lực thi hành vào ngày 15/8/2022. Do vậy, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần nhanh chóng tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm để đề xuất Chính phủ xây dựng, soạn thảo và trình Quốc hội thông qua Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD trên cơ sở nâng cấp Nghị quyết thành luật (luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14) để hoàn thiện khung khổ pháp lý về xử lý nợ xấu của các TCTD.
 

 
Bên cạnh những thuận lợi, lợi ích mà Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã mang lại cho hoạt động xử lý nợ xấu của các TCTD, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc thực tế. Tại Báo cáo của Chính phủ2 gửi Quốc hội về kết quả thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã nêu ra hai nhóm vấn đề chính còn tồn tại trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14: (i) Cấu trúc hệ thống pháp luật về cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu của TCTD đa dạng, số lượng văn bản quy phạm pháp luật còn lớn, trong khi đó tính phức tạp, trùng lắp của hệ thống pháp luật dẫn đến khi có sự thay đổi, điều chỉnh một văn bản sẽ ảnh hưởng đến nội dung của văn bản khác, tạo ra sự thiếu thống nhất của hệ thống pháp luật. (ii) Qua quá trình tổng kết ý kiến về các khó khăn, vướng mắc của các TCTD, VAMC, cho thấy, về cơ bản, các nội dung khó khăn, vướng mắc không phải là các vấn đề lớn, có khả năng ảnh hưởng lớn đến việc triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14. Các khó khăn, vướng mắc phần lớn tập trung ở công tác phối hợp, thực thi giữa các TCTD và các cơ quan có thẩm quyền có liên quan (cơ quan thuế, thi hành án, công an, chính quyền địa phương...).
 
Với mục đích hoàn thiện khung khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo cơ sở pháp lý thống nhất giải quyết các vấn đề vướng mắc phát sinh trong công tác phối hợp, thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu giữa các TCTD và các cơ quan chức năng có liên quan của Nhà nước, bài viết tập trung phân tích các quy định của pháp luật thực định về xử lý nợ xấu của các TCTD và các khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các TCTD theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 trong thời gian qua, từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện khung khổ pháp lý về xử lý nợ xấu của các TCTD.
 
1. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện thủ tục rút gọn xét xử tại Tòa án
 
1.1. Khó khăn, vướng mắc về việc áp dụng thủ tục rút gọn
 
Trong thời gian qua, việc các TCTD khởi kiện bên vay vốn tại Tòa án để thu hồi nợ thường kéo dài, qua 2 cấp xét xử, mất nhiều thời gian (trung bình thời gian giải quyết một vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng từ cấp sơ thẩm đến cấp phúc thẩm mất khoảng từ 02 - 03 năm) để nhận được bản án hiệu lực pháp luật của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức phát mại, xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ. Với mục tiêu rút ngắn thời gian xét xử tại Tòa án liên quan đến tranh chấp về xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án; tiếp theo đó, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng thủ tục rút gọn đối với quá trình giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ bàn giao tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; hướng dẫn đơn khởi kiện, nộp đơn khởi kiện và quy trình thụ lý đơn khởi kiện về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, trên thực tế, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của Tòa án để áp dụng được thủ tục rút gọn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh khó khăn do bên vay vốn, bên bảo đảm trốn tránh, không hợp tác trong quá trình tố tụng, việc giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu của các TCTD theo thủ tục rút gọn còn gặp vướng mắc xuất phát từ chính các quy định có liên quan của pháp luật. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 317 và khoản 4 Điều 323 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Theo đó, khi bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ phát sinh trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới làm cho vụ án không đảm bảo được điều kiện xét xử theo thủ tục rút gọn quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, dẫn đến việc không thể áp dụng được thủ tục tố tụng rút gọn mặc dù vẫn đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14.
 
Đồng thời, Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14 chưa quy định cơ chế bắt buộc hoặc đương nhiên áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án khi đủ điều kiện, dẫn tới các Tòa án vẫn lựa chọn việc giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục tố tụng thông thường mặc dù vụ việc tranh chấp đó đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14. Chính vì lẽ đó, ý nghĩa và mục tiêu quy định tại Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14 nhằm tháo gỡ khó khăn về tố tụng, rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu tại Tòa án chưa đạt được trên thực tế; cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn để đẩy nhanh tiến độ xử lý thu hồi nợ xấu của các TCTD theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 chưa thật sự triệt để đi vào cuộc sống.
 
1.2. Khó khăn, vướng mắc về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
 
Hiện nay, thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ áp dụng đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các TCTD, mà chưa quy định rõ việc áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các TCTD với khách hàng vay. Tranh chấp về xử lý nợ xấu của TCTD hầu hết là tranh chấp về hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), còn tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm (hợp đồng phụ) phải gắn liền với tranh chấp về hợp đồng tín dụng vì xét cho cùng, tài sản bảo đảm phải gắn liền với nghĩa vụ được bảo đảm và việc xử lý tài sản bảo đảm là để thực hiện nghĩa vụ trả nợ được bảo đảm bằng chính tài sản đó. Do đó, việc Nghị quyết số 42/2017/QH14 chưa quy định rõ về việc áp dụng thủ tục rút gọn đối với việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng chưa tạo được cơ sở pháp lý cho Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn rộng rãi việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, đẩy nhanh tiến độ xử lý thu hồi nợ xấu của các TCTD. Chính vì vậy, khi các TCTD khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng để thu hồi nợ xấu, Tòa án vẫn áp dụng thủ tục tố tụng thông thường theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng, dẫn tới thời gian thu hồi nợ bị kéo dài.
 
2. Khó khăn về việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán/phát mại tài sản bảo đảm  
 
Để hỗ trợ các TCTD thu hồi nợ xấu từ số tiền bán/xử lý tài sản bảo đảm, Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: “Số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm”. Tuy nhiên, thực tế trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, các cơ quan thuế nhiều địa phương vẫn yêu cầu bên nhận bảo đảm hoặc bên nhận chuyển nhượng phải đóng tiền thuế thu nhập thay cho bên bảo đảm mới thực hiện các thủ tục liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận, sang tên cho bên nhận chuyển nhượng, các cơ quan thi hành án dân sự sau khi thực hiện thủ tục xử lý tài sản bảo đảm vẫn tiến hành trích thu luôn tiền án phí, tiền thuế thu nhập cá nhân từ số tiền bán đấu giá tài sản bảo đảm trước khi chuyển tiền về cho các TCTD, mặc dù toàn bộ số tiền bán tài sản bảo đảm sau khi xử lý vẫn không đủ trả nợ cho TCTD. Từ thực trạng này và báo cáo của các cơ quan chức năng (Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước…), Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã có ý kiến chỉ đạo tại Thông báo số 106/TB-VPCP ngày 22/3/2019 về các khó khăn, vướng mắc liên quan đến thuế thu nhập cá nhân và án phí dân sự3. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại Thông báo số 106 nói trên, các bộ, ngành liên quan đã có các văn bản chỉ đạo, quán triệt nội dung thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, trong đó:
 
(i) Liên quan đến nộp thuế thu nhập phát sinh từ việc xử lý tài sản bảo đảm: Bộ Tài chính ký Công văn số 5477/BTC-TCT ngày 14/5/2019 gửi Ngân hàng Nhà nước về việc thu thuế theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 với nội dung: "Căn cứ Luật Quản lý thuế, các Luật thuế và Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, về nguyên tắc khi các cá nhân hoặc tổ chức chuyển nhượng tài sản có phát sinh nghĩa vụ thuế thì phải có trách nhiệm nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
 
Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện theo chế độ quy định và quán triệt các tổ chức tín dụng thỏa thuận đối với các bên liên quan về cách thức thanh toán các khoản thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm theo nội dung Thông báo số 106/TB-VPCP ngày 22/3/2019 của Văn phòng Chính phủ". 
 
Ngày 20/5/2019, Tổng cục Thuế có Công văn số 1988/TCT-DNL gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc khai nộp thuế thu nhập cá nhân khi xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu với nội dung: 
 
"Đề nghị Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn Người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân khi xử lý tài sản đảm bảo là bất động sản của khoản nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 theo đúng quy định của pháp luật".
 
(ii) Liên quan đến thu án phí: Tổng cục Thi hành án dân sự ký Công văn số 2004/TCTHADS-NV1 ngày 03/7/2019 gửi Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn theo hướng trên cơ sở quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14 về chi phí xử lý tài sản bảo đảm và thứ tự thanh toán án phí tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc ưu tiên thanh toán án phí trong các vụ việc thi hành án tín dụng, ngân hàng theo đúng quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự năm 20084.
 
Như vậy, theo hướng dẫn của các bộ, ngành có liên quan trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu của các TCTD theo quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14, tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm chưa được ưu tiên thanh toán để thu hồi nợ xấu của các TCTD như quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14. Do đó, cơ chế ưu tiên thu hồi nợ xấu của các TCTD từ số tiền xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã vô hình trung không được bảo đảm thực thi trên thực tế bởi sự thiếu đồng bộ, chưa nhất quán giữa quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 với quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về thi hành án dân sự mà nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành trong trường hợp này chưa thực sự rõ ràng (Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các TCTD so với các luật khác có liên quan) và được bảo đảm thực hiện trên thực tế.
 
3. Khó khăn về nhận lại tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và vụ việc hành chính
 
Đối với cơ chế hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: “Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng...”. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích và lượng hóa các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể về việc “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án” theo quy định tại Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14; đồng thời, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định vật chứng có liên quan tới quá trình giải quyết vụ án cần niêm phong trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Do đó, việc cơ quan tiến hành tố tụng có hoàn trả tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là vật chứng trong vụ án hình sự hay không, hoàn trả vào thời gian nào sẽ phụ thuộc vào quan điểm, cách nhìn nhận và đánh giá của từng cơ quan tiến hành tố tụng theo thẩm quyền trong từng giai đoạn tố tụng. Vì vậy, quy định mang tính nguyên tắc, định tính tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 về hoàn trả tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là vật chứng trong vụ án hình sự và thiếu cơ chế liên thông, kết nối với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã tạo ra khoảng trống pháp lý trong quá trình triển khai thực hiện cơ chế đó, dẫn đến các TCTD rất bị động và thường chậm nhận được tài sản bảo đảm để xử lý, thu hồi nợ xấu. 
 
Ngoài quy định về việc hoàn trả tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là vật chứng trong vụ án hình sự như nêu trên, Nghị quyết số 42/2017/QH14 chưa quy định về việc hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật của các vụ việc hành chính. Do đó, khi phát sinh vụ việc vi phạm hành chính mà hình thức xử phạt vi phạm hành chính là tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính liên quan đến tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại các TCTD, căn cứ quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã bán đấu giá tài sản bảo đảm là tang vật của vụ việc vi phạm hành chính theo quyết định xử lý vi phạm hành chính. Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm này được sử dụng vào các mục đích xác định theo quyết định xử lý vi phạm hành chính của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính mà không chuyển cho TCTD để thu nợ được bảo đảm bằng tài sản bán đấu giá đó. 
 
Như vậy, việc xử lý tài sản bảo đảm là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính như trên đã dẫn đến khoản nợ vay của khách hàng tại TCTD từ có bảo đảm bằng tài sản trở thành khoản nợ vay không có bảo đảm bằng tài sản, TCTD có thể không còn nguồn thu nợ đến hạn và phát sinh nợ xấu, gây thiệt hại cho TCTD và có thể liên quan đến trách nhiệm pháp lý của các cán bộ ngân hàng trong công tác thẩm định, quyết định cho vay.
 
4. Về nguyên tắc áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
 
Tại Điều 17 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật; trong đó, xác định: "Việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được thực hiện theo quy định của Nghị quyết này. Trường hợp Nghị quyết này không có quy định thì áp dụng quy định của pháp luật hiện hành. Trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết này và luật khác về cùng một vấn đề về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thì áp dụng quy định của Nghị quyết này". Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, trong quá trình áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14, việc xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc từ việc thiếu đồng bộ giữa quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 với quy định tại các luật khác có liên quan dẫn đến các cơ chế thuận lợi cho quá trình xử lý nợ xấu của TCTD không được thực thi trên thực tế hoặc chậm đi vào cuộc sống. Mặt khác, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, một số cơ quan có thẩm quyền đã ban hành văn bản hướng dẫn các cơ quan cấp dưới và/hoặc áp dụng trong nội bộ ngành mình dưới hình thức công văn không phải văn bản quy phạm pháp luật có nội dung tiếp tục duy trì việc áp dụng các luật chuyên ngành như trước khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực, dẫn tới mục tiêu ban hành các chính sách hỗ trợ để đẩy nhanh tiến độ xử lý, thu hồi nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết số 42/2017/QH14 không đạt được toàn diện, một số chính sách hỗ trợ hoạt động xử lý nợ xấu trong Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ tồn tại trên văn bản giấy tờ.
 
5. Một số đề xuất góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu 
 
Tại Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, Chính phủ đã đề xuất Quốc hội xem xét xây dựng Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD theo hướng: (i) Tiếp tục kế thừa các quy định về xử lý nợ xấu tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 còn phù hợp; (ii) Sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 mà thực tiễn triển khai trong thời gian qua còn gặp khó khăn, vướng mắc.
 
Việc xây dựng Luật Xử lý nợ xấu theo định hướng của Chính phủ khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 hết thời gian áp dụng thí điểm là cần thiết và phù hợp với thực tiễn, nhu cầu của công tác xử lý nợ xấu hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu đang có dấu hiệu tăng trở lại do ảnh hưởng và tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19. Việc các TCTD thực hiện xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu dựa trên quy định của Luật về xử lý nợ xấu sẽ đảm bảo tính thực thi, ổn định, lâu dài và tạo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao tương ứng với các luật khác (có cùng hình thức và cùng cấp thông qua/ban hành), mang tính chuyên biệt, trực diện điều chỉnh hoạt động xử lý nợ xấu của các TCTD, tạo “cú huých” pháp lý mới đủ mạnh khắc phục được những hạn chế, rào cản pháp lý trong thời gian qua. Quá trình xây dựng Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD trên nền tảng và kinh nghiệm thực tế thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, việc soạn thảo cần chú trọng đảm bảo tính kết nối, liên thông giữa Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD với hệ thống pháp luật hiện hành và quy định rõ cơ chế ưu tiên áp dụng, bảo đảm tính thực thi của Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD. Trên cơ sở các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 như nêu trên, Chính phủ giao cơ quan chủ trì soạn thảo Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD và các bộ có liên quan khác tham khảo, thực hiện một số đề xuất, kiến nghị dưới đây:  
 
Thứ nhất: Rà soát toàn diện các luật khác có liên quan tới xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD gồm các Luật thuế, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thi hành án dân sự, Luật Phá sản, Luật Xử lý vi phạm hành chính, các văn bản Luật về tài nguyên… để phân tích, đánh giá, chỉ ra các điểm chưa thống nhất, còn mâu thuẫn với nguyên tắc xử lý nợ xấu của các TCTD để định hướng xây dựng Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD đảm bảo hài hòa, kết nối với các quy định của pháp luật khác có liên quan; đồng thời, có quy định rõ nguyên tắc ưu tiên áp dụng Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD khi phát sinh quy định khác nhau giữa Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Việc quy định nguyên tắc ưu tiên áp dụng tại hình thức văn bản luật về xử lý nợ xấu sẽ giải quyết được vướng mắc thực tiễn hiện nay khi các bộ, ngành liên quan hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 theo hướng tiếp tục các quy định của luật chuyên ngành như trước khi chưa có Nghị quyết số 42/2017/QH14.
 
Thứ hai: Đồng thời với việc ban hành Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD, các cơ quan nhà nước có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan và đề xuất Chính phủ trình Quốc hội ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các luật khác có liên quan tại từng thời điểm phù hợp (nếu thấy cần thiết) để thiết lập mối liên kết, đảm bảo sự liên thông, kết nối giữa Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD với các luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của việc áp dụng Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD trên thực tế, hỗ trợ tốt cho hoạt động xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các TCTD nhằm sớm thu hồi vốn cho các TCTD, giảm giá vốn cho vay (lãi suất thấp), tiếp tục quay vòng vốn đầu tư, phục vụ nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và nền kinh tế.
 
Thứ ba: Để xử lý một cách toàn diện và có hiệu quả tất cả các khoản nợ xấu đang tồn đọng, tiếp tục phát sinh tại các TCTD, đặc biệt là những khoản nợ được tái cơ cấu của khách hàng chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước mà khi hết thời hạn tái cơ cấu, những khoản nợ đó vẫn không được trả nợ đúng hạn và phải chuyển sang nhóm nợ xấu (nợ được phân loại vào nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước), cơ quan soạn thảo Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD cần xây dựng theo hướng quy định cho phép các TCTD được lựa chọn áp dụng quy định của Luật này để xử lý cả các khoản nợ xấu phát sinh trước khi Luật về xử lý nợ xấu được thông qua, có hiệu lực.
 
1 Nguồn website: thuongtruong.com.vn “Minh Tín, Luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 liệu có giải quyết được bài toán nợ xấu?”.
 
2 Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Dự thảo Báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 được thông qua theo Nghị quyết số 129/NQ-CP ngày 12/10/2021 của Chính phủ.
 
3 Nguyễn Duy Hưng - Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ: Thông báo số 106/TB-VPCP ngày 22/3/2019 thông báo ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại cuộc họp nghe báo cáo các khó khăn trong việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14.
 
4 Quốc hội Khóa XII: Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 được thông qua ngày 14/11/2008, khoản 1 Điều 47 quy định “1. Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật này, được thanh toán theo thứ tự sau đây: a) Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần; b) Án phí; c) Các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định”.
 
Luật sư, TS. Nguyễn Văn Phương (Vietcombank)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 323 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 793 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.216 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 2.829 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 5.656 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.015 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.097 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 8.014 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.058 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.026 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.011 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 3.701 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.289 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
31/01/2024 3.598 lượt xem
Năm 2023 đã đi qua với nhiều câu chuyện kinh tế nổi bật và một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm rất lớn trong hoạt động của ngành Ngân hàng là vấn đề tăng trưởng tín dụng.
Triển khai Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025: Kết quả và giải pháp, định hướng thời gian tới
Triển khai Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025: Kết quả và giải pháp, định hướng thời gian tới
29/01/2024 4.686 lượt xem
Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 (ban hành theo Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ - Quyết định 1813) được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đầu mối phối hợp với các bộ, ngành, đơn vị liên quan triển khai thực hiện được hơn hai năm, đã góp phần tạo sự chuyển biến sâu, rộng về TTKDTM trong nền kinh tế, thúc đẩy sử dụng các phương tiện, dịch vụ TTKDTM.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

Vàng SJC 5c

81.800

83.820

Vàng nhẫn 9999

74.800

76.700

Vàng nữ trang 9999

74.700

76.000


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,100 25,440 26,252 27,714 30,724 32,055 157.77 167.11
BIDV 25,130 25,440 26,393 27,618 30,763 32,067 158.12 166.59
VietinBank 25,090 25,443 26,504 27,799 31,154 32,164 160.64 168.59
Agribank 25,100 25,440 26,325 27,607 30,757 31,897 159.58 167.50
Eximbank 25,040 25,440 26,425 27,239 30,914 31,866 160.82 165.77
ACB 25,110 25,442 26,596 27,279 31,230 31,905 161.07 166.37
Sacombank 25,170 25,420 26,701 27,261 31,332 31,835 162.03 167.05
Techcombank 25,192 25,442 26,362 27,707 30,760 32,094 157.36 169.78
LPBank 24,960 25,440 26,088 27,611 30,970 31,913 158.36 169.76
DongA Bank 25,170 25,440 26,570 27,260 31,080 31,940 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?