Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”
15/09/2023 1.225 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa kí ban hành Công điện số 766/CĐ-TTg ngày 24/8/2023 về việc tăng cường các giải pháp phòng, ngừa, ngăn chặn, xử lí hoạt động “tín dụng đen”. Trong đó, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an ứng dụng dữ liệu dân cư đẩy mạnh công tác rà soát, xác thực các tài khoản ngân hàng, xử lí triệt để tình trạng sử dụng tài khoản "ảo" để hoạt động "tín dụng đen".

Thời gian gần đây, “tín dụng đen” diễn biến phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn mới, biến tướng, lợi dụng công nghệ cao, núp bóng doanh nghiệp thực hiện các hành vi cho vay, đòi nợ trái pháp luật gây bức xúc dư luận, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự. Nguyên nhân chủ yếu do một bộ phận người dân vì nhiều lí do khác nhau có nhu cầu vay vốn không cần thế chấp tài sản; công tác tuyên truyền, phổ biến về phương thức, thủ đoạn, hậu quả của "tín dụng đen" còn hạn chế, hiệu quả chưa cao; công tác quản lí nhà nước một số lĩnh vực còn có sơ hở, thiếu sót để các đối tượng xấu lợi dụng hoạt động...
 

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho người dân qua các kênh chính thức

Thời gian qua, NHNN đã hoàn thiện khung khổ pháp lí về hoạt động cho vay, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, hỗ trợ hoạt động vay vốn của người dân, doanh nghiệp. NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo các tổ chức tài chính, tín dụng mở rộng, đa dạng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

NHNN và Bộ Công an đã phối hợp tích cực, chặt chẽ, triển khai nhiều giải pháp trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động liên quan đến “tín dụng đen” và triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến 2030 (Đề án số 06). Theo đó, NHNN và Bộ Công an đã kí kết Kế hoạch triển khai các nhiệm vụ tại Đề án (Kế hoạch 01) ngày 24/4/2023 với 11 nhiệm vụ lớn được chi tiết hóa từng nội dung công việc gồm: Làm sạch dữ liệu khách hàng, xác minh khách hàng, giải pháp chấm điểm tín dụng... Chính vì vậy, việc triển khai hiệu quả các nhiệm vụ tại Kế hoạch 01 có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 766/CĐ-TTg. Với mục đích đề ra giải pháp để công dân yếu thế được tiếp cận nhanh nguồn vốn chính thống, lãi suất phù hợp, giảm thiểu tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến “tín dụng đen”, Bộ Công an đã giao Trung tâm nghiên cứu, ứng dụng dữ liệu dân cư và căn cước công dân (CCCD) thuộc Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư xây dựng giải pháp đánh giá khả tín khách hàng vay.

Theo Vụ Thanh toán - NHNN, đối với nhiệm vụ làm sạch dữ liệu khách hàng của các tổ chức tín dụng (TCTD), đã có 24 TCTD liên hệ, phối hợp với Cục Quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06) - Bộ Công an; 42 TCTD đã và đang triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp, trong đó có 04 TCTD có báo cáo về việc hoàn thành kết nối kĩ thuật, tiến hành đàm phán, kí kết hợp đồng. Một số TCTD đã và đang liên hệ triển khai ứng dụng tài khoản định danh và xác thực điện tử (VNeID); 03 TCTD đang phối hợp với C06 - Bộ Công an thí điểm dịch vụ chấm điểm tín dụng. Bên cạnh đó, các TCTD cũng đang tích cực triển khai các nhiệm vụ khác được giao tại Kế hoạch 01 như: Chi trả an sinh xã hội; đào tạo, phổ biến kiến thức nhận biết thẻ CCCD thật/giả, thiết bị chuyên dụng... Được sự hỗ trợ của Bộ Công an, NHNN đã làm sạch toàn bộ trên 42 triệu dữ liệu khách hàng đủ điều kiện xác thực trong cơ sở dữ liệu thông tin tín dụng với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC). Đây là bước khởi đầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để ngành Ngân hàng tiếp tục phối hợp, khai thác ứng dụng dữ liệu dân cư trong hoạt động ngân hàng.

Nhằm tăng cường khả năng tiếp cận vốn ngân hàng cho người dân, doanh nghiệp, ngày 28/6/2023, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (Thông tư số 06). Thông tư số 06 đã bổ sung thêm 01 mục riêng quy định cụ thể về hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử của TCTD đối với khách hàng và sửa đổi, bổ sung một số điều khoản khác để phù hợp hình thức cho vay này nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho TCTD trong việc triển khai hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử đảm bảo an toàn, hiệu quả. Điều này cũng phù hợp với quy định tại Luật Các TCTD năm 2010 (đã được sửa đổi, bổ sung) và định hướng, chủ trương chuyển đổi số của ngành Ngân hàng tại Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Thông tư số 06 sẽ thúc đẩy các TCTD ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số hơn nữa vào hoạt động cho vay, từ đó rút ngắn quy trình, thủ tục, khách hàng vay không phải đến ngân hàng, rất dễ dàng và thuận lợi để tiếp cận các khoản vốn vay với thời gian nhanh hơn, thuận tiện hơn. Đây là những quy định sẽ tạo ra những tín hiệu tích cực cho việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng và hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam.

Để kiểm soát nguồn dữ liệu định danh trong hoạt động định danh khách hàng điện tử (eKYC) phục vụ việc cho vay bằng phương tiện điện tử, NHNN quy định cho phép TCTD triển khai eKYC khách hàng vay vốn dựa trên việc khai thác dữ liệu định danh cá nhân được xác thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc với CSDLQGvDC, Cơ sở dữ liệu quốc gia về căn cước công dân (CSDLQGvCCCD) hoặc bởi tổ chức cung cấp dịch vụ xác thực điện tử theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử.

Việc cho phép tiếp cận, khai thác thông tin khách hàng từ CSDLQGvDC và CSDLQGvCCCD gia tăng nguồn thông tin chính thống rất có giá trị cho TCTD, đảm bảo hoạt động eKYC lành mạnh, minh bạch, an toàn, phòng ngừa kịp thời rủi ro gian lận, rửa tiền, tội phạm, tiết kiệm chi phí và nguồn lực xã hội; đồng thời, cũng phù hợp mục tiêu nghiên cứu, triển khai rộng rãi việc ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử rộng rãi vào các lĩnh vực tài chính, hoạt động ngân hàng (trong đó có hoạt động cho vay) đã được đặt ra tại Đề án số 06, cũng như phương án, lộ trình NHNN, các TCTD đang tích cực phối hợp Bộ Công an (cơ quan chủ quản) để kết nối khai thác CSDLQGvDC, CSDLQGvCCCD, VNeID, thử nghiệm giải pháp triển khai xác minh khách hàng, làm sạch dữ liệu và hỗ trợ đánh giá khách hàng trong dịch vụ ngân hàng. Ngoài ra, Thông tư số 06 cũng quy định cơ chế cho phép triển khai việc eKYC dựa trên việc khai thác thông tin đã được eKYC bởi TCTD khác (tương tự eKYC mở tài khoản thanh toán). Như vậy, các nguồn dữ liệu để đối chiếu được quy định tại Thông tư số 06 rất đa dạng, mang tính chính thống và đáng tin cậy, là nền tảng quan trọng đảm bảo hoạt động eKYC an toàn, lành mạnh, kịp thời phòng ngừa rủi ro gian lận.

Bên cạnh đó, Thông tư số 06 bổ sung quy định TCTD được xem xét, quyết định cho khách hàng vay để trả nợ khoản vay tại TCTD khác với mục đích vay phục vụ nhu cầu đời sống. Trước đó, tại Thông số 39/2016/TT-NHNN, khách hàng chỉ được vay để trả nợ khoản vay tại TCTD khác đối với khoản vay phục vụ sản xuất, kinh doanh, không áp dụng đối với khoản vay phục vụ nhu cầu đời sống. Việc mở rộng quy định cho khách hàng trả nợ tại TCTD khác áp dụng đối với cả khoản vay phục vụ hoạt động kinh doanh và nhu cầu đời sống sẽ tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận thêm các vốn tín dụng ngân hàng, có thêm cơ hội lựa chọn dịch vụ và tiện ích tốt hơn tại các TCTD khác (nếu có).

Đơn cử như trường hợp một khách hàng cá nhân đang có dư nợ của khoản vay mua nhà tại một ngân hàng A. Tuy nhiên, khách hàng nhận thấy tại ngân hàng B, cùng khoản vay mua nhà như vậy lãi suất cho vay thấp hơn so với ngân hàng A; đồng thời nếu khách hàng vay vốn sẽ được hưởng thêm ưu đãi đối với một số các dịch vụ khách tại ngân hàng B. Theo đó, với quy định này, khách hàng hoàn toàn có thể đến ngân hàng B đề xuất nhu cầu vay vốn để trả nợ trước hạn cho khoản vay mua nhà mà khách hàng đang vay tại ngân hàng A. Như vậy, khách hàng dễ dàng tiếp cận khoản vay mới với mức chi phí thấp hơn, được tiếp cận và sử dụng thêm các dịch vụ mới.

Về phía các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính vi mô (TCVM), quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng Chính sách xã hội, các công ty tài chính tiêu dùng đã mở rộng mạng lưới, đa dạng sản phẩm, dịch vụ, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và mọi tầng lớp dân cư. Điều này góp phần tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, người lao động ở các khu công nghiệp, những người có thu nhập thấp.

Chẳng hạn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã triển khai chương trình tín dụng tiêu dùng 5 nghìn tỉ đồng, khách hàng có nhu cầu vay vốn chính đáng được giải ngân ngay trong ngày với số tiền cho vay tối đa 30 triệu đồng, không cần tài sản thế chấp…

Thực hiện chính sách an sinh xã hội, ngày 04/10/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Tiếp đó, ngày 11/3/2003, Ngân hàng Chính sách xã hội chính thức hoạt động để cấp vốn cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Với việc triển khai đến 100% thôn, xóm, bản, làng, tổ dân phố trên toàn quốc, nguồn vốn vay tín dụng chính sách đã mang lại sinh kế, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy bình đẳng giới, đồng thời góp phần ngăn chặn các tệ nạn cho vay nặng lãi, “tín dụng đen”, giúp đảm bảo an sinh, trật tự và an toàn xã hội tại các địa phương, nhất là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”

Thời gian tới, NHNN cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng ngân hàng; chỉ đạo các TCTD đa dạng các loại hình cho vay, phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng với thủ tục nhanh gọn và thuận tiện, đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp phục vụ đời sống, tiêu dùng của nhân dân. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lí hoạt động của các TCTD, trung gian thanh toán, các ví điện tử không để các đối tượng móc nối hoạt động "tín dụng đen", kịp thời xử lí các vi phạm theo quy định. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an trong triển khai Đề án số 06, hướng dẫn các TCTD trong việc khai thác CSDLQGvDC, CSDLQGvCCCD trong công tác rà soát, xác thực các tài khoản ngân hàng, phối hợp xử lí tình trạng sử dụng tài khoản "ảo" để hoạt động "tín dụng đen".

Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục phối hợp chặt chẽ với bộ, ngành liên quan đẩy mạnh các giải pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân; khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, xử lí nghiêm hoạt động "tín dụng đen"…

Phía ngành Ngân hàng, cần đẩy mạnh truyền thông, phổ biến danh sách các TCTD, TCVM được NHNN cấp phép hoạt động và quản lí, để khách hàng hiểu được và không “đánh đồng” công ty tài chính với các công ty cho vay qua các ứng dụng, môi trường mạng và “tín dụng đen”; truyền thông rộng rãi, chính thống tới người dân về nghĩa vụ trả nợ, những rủi ro khi vay không trả đúng hạn; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chính sách, sản phẩm tín dụng để người dân yên tâm, tiếp cận tài chính tiêu dùng từ các TCTD và TCVM được NHNN cấp phép, qua đó tránh được nạn “tín dụng đen”.

Ở tầm vĩ mô, Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lí đảm bảo hài hòa quyền và lợi ích hợp pháp của cả bên cho vay và đi vay, cần có hành lang pháp lí phù hợp hơn đối với các tổ chức cho vay phi ngân hàng, đồng thời có chế tài mạnh hơn với khách hàng vay cố tình chây ỳ trả nợ. Bộ Luật Dân sự cần được sửa đổi để có sự đồng bộ với quy định của Luật Các TCTD. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng. Từ đó có thêm cơ sở pháp lí quản lí các công ty công nghệ tài chính (Fintech) cung cấp dịch vụ cho vay.

Ngoài ra, để ngăn ngừa “tín dụng đen”, cần tăng cường vai trò của TCVM - đây chính là những “con lạch nhỏ” có thể đi sâu vào những ngóc ngách mà nhiều khi các ngân hàng thương mại khó chạm tới được trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ tài chính cho người dân vùng sâu, vùng xa, với những đối tượng yếu thế trong xã hội.

Về phía cơ quan quản lí nhà nước và chính quyền địa phương: Cần tiếp tục xây dựng, ban hành các quy định để tạo điều kiện liên kết hoạt động của các loại hình TCTD với hoạt động của các tổ chức TCVM; đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị xã hội đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận đăng kí các chương trình, dự án TCVM đang hoạt động; nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục triển khai hoạt động TCVM và tập trung nguồn vốn dành cho TCVM; hỗ trợ các chương trình, dự án TCVM, tổ chức TCVM được cấp phép tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi khác, được hưởng nguồn vốn dành cho xóa đói, giảm nghèo từ các tổ chức, cá nhân; xây dựng chính sách khuyến khích phát triển TCVM trong kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước.

Để phát triển tín dụng vi mô, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu phát triển sâu rộng tín dụng vi mô trên cơ sở tổ chức lại hoạt động họ/hụi/phường tại các địa phương. Cơ sở pháp lí cho đề xuất này là do pháp luật đã công nhận sự tồn tại hợp pháp của họ/hụi/phường trong Bộ luật Dân sự và Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường. Tuy nhiên, để áp dụng trong thực tiễn, cần cụ thể hóa các điều luật này bằng các văn bản dưới luật thông qua việc chính thức cho phép họ/hụi/phường đăng kí hoạt động tại địa bàn cụ thể theo các quy định của pháp luật.

Đồng thời, để dễ dàng kiểm soát, cần hình thành, tổ chức các vệ tinh/đại lí của tổ chức TCVM địa phương. Làm như vậy một mặt tạo điều kiện cho các tổ chức TCVM tận dụng mạng lưới khách hàng sẵn có, giải quyết bài toán hạn hẹp về nguồn quỹ hoạt động, mặt khác đưa các hoạt động họ/hụi/phường đang tồn tại ở địa phương vào khuôn khổ, tránh các biến tướng xấu như trong thời gian qua.

Ngoài ra, cần vận động các chủ hụi tự nguyện tham gia với vai trò thành viên hoặc cộng tác viên cho tổ chức TCVM địa phương. Tổ chức TCVM địa phương cần nghiên cứu kĩ các hình thức tổ chức họ/hụi/phường được quy định trong Nghị định số 144/2006/NĐ-CP, kết hợp với tìm hiểu cách thức tổ chức các loại họ/hụi/phường trong thực tế địa phương để vận dụng cho thích hợp. Trong đó, cần quan tâm đến mức lãi suất vì đây là yếu tố chính thu hút người dân tham gia.
 
Tài liệu tham khảo

1. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến 2030.
2. Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
3. Công điện số 766/CĐ-TTg ngày 24/8/2023 về việc tăng cường các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lí hoạt động “tín dụng đen”.
4. https://bocongan.gov.vn
 
 
Thanh Thúy
Hà Nội
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
28/09/2023 101 lượt xem
Tín dụng đầu tư của Nhà nước là tín dụng do Nhà nước thực hiện để hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế và các vùng khó khăn cần khuyến khích, nhằm thực hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội từng thời kì.
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
27/09/2023 178 lượt xem
Đổi mới sáng tạo cùng với phát triển khoa học, công nghệ đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực công nghệ mới.
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
26/09/2023 288 lượt xem
Thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, còn nhiều rào cản khiến quy mô tín dụng xanh chưa được như kì vọng.
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
21/09/2023 735 lượt xem
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi trong ngân hàng là vấn đề rất cần thiết bởi điều này góp phần đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn và lành mạnh.
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
19/09/2023 929 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN (Thông tư số 06) sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN (Thông tư số 39) quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây viết tắt là TCTD) đối với khách hàng.
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
07/09/2023 2.016 lượt xem
Với sự phát triển của khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đem lại, quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Tập trung nguồn lực để phát triển và nâng cao hiệu quả các kênh cung ứng vốn khác nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
Tập trung nguồn lực để phát triển và nâng cao hiệu quả các kênh cung ứng vốn khác nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
05/09/2023 2.049 lượt xem
Nguồn vốn cung ứng cho các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) rất đa dạng, thường qua các kênh chính sau: (1) Thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), nguồn vốn cấp dựa trên tài sản qua các hình thức như cho thuê tài chính, thuê mua trả góp, bao thanh toán (nguồn vốn này thường được cung cấp bởi các TCTD phi ngân hàng); (2) Thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng qua việc sử dụng các công cụ vốn; (3) Nguồn vốn trực tuyến (cho vay ngang hàng, công nghệ tài chính - fintech).
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
30/08/2023 2.568 lượt xem
Kinh tế ban đêm (night - time economy) đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có ngành du lịch phát triển, trong đó có Việt Nam. Đề án phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 1129/QĐ-TTg ngày 27/7/2020 nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng phát triển kinh tế ban đêm, tận dụng tối đa cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống của người dân.
Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
21/08/2023 3.180 lượt xem
Bài viết này nghiên cứu quy định về biện pháp bảo đảm trong chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ khi chính sách này được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (năm 2002) đến nay.
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
04/08/2023 5.790 lượt xem
Trong những năm qua, Việt Nam liên tục đạt được những bước phát triển tích cực, luôn đứng trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển nhanh, vị thế trên trường quốc tế ngày càng cao; đời sống người dân được nâng lên, thứ tự năng lực cạnh tranh quốc tế được cải thiện, trong đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tích cực đã có nhiều đóng góp lớn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam suốt giai đoạn vừa qua.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
01/08/2023 6.204 lượt xem
Trong nửa đầu năm 2023, bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều gam màu trầm dưới tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới và những khó khăn nội tại của kinh tế trong nước. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 3,72%, là mức thấp nhất trong giai đoạn từ năm 2011 tới nay (nếu loại trừ năm 2020 do tác động của dịch Covid-19).
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay  của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
28/07/2023 4.576 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (Thông tư số 06). Thông tư số 06 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2023.
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
21/07/2023 5.087 lượt xem
Để bắt kịp xu thế của thời đại, các công ty nói chung và ngân hàng nói riêng phải tiến hành chuyển đổi số. Nếu không số hóa trong quá trình kinh doanh, không áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động đầu tư hằng ngày thì lĩnh vực ngân hàng Việt Nam có nguy cơ tụt hậu và chậm phát triển so với thế giới. Bài viết tổng hợp cách tiếp cận và kinh nghiệm về chuyển đổi số tại một số tổ chức trên thế giới, từ đó khuyến nghị về chính sách pháp lí góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
18/07/2023 4.911 lượt xem
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-NHNN ngày 30/6/2023 quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh (Thông tư số 08), áp dụng với các đối tượng gồm: Người cư trú là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam là bên đi vay nước ngoài (gọi chung là bên đi vay); TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nơi bên đi vay mở tài khoản vay, trả nợ nước ngoài (gọi chung là ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản).
Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác và một số kiến nghị hoàn thiện
Chính sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác và một số kiến nghị hoàn thiện
10/07/2023 5.236 lượt xem
Luật Hợp tác xã năm 2012 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?