Phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
19/12/2022 09:45 5.394 lượt xem
Tóm tắt: Đi cùng với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng nhanh chóng, sâu rộng và những tiến bộ vượt bậc từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), yêu cầu đặt ra cho mỗi quốc gia là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Tại Việt Nam, vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã được Đảng và Nhà nước chủ trương tiến hành từ cuối thế kỷ XX cho đến nay. Quá trình này nhằm chuyển đổi từ nền sản xuất và xã hội ở trình độ nông nghiệp lạc hậu, tiến tới xã hội có trình độ công nghiệp với việc sử dụng các công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại và văn minh. Do đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế số là bước đi tất yếu của Việt Nam. Bài viết này sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để nêu rõ thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp phát triển kinh tế số trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

Từ khóa: CMCN 4.0, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế số, thương mại điện tử.
 
DIGITAL ECONOMY DEVELOPMENT IN VIETNAM IN THE PROCESS OF INDUSTRIALIZATION AND MODERNIZATION
 
Abstract: Along with the trend of increasingly rapid and extensive international integration, and significant progress from the Fourth Industrial Revolution, the requirement for each country is to promote the development of digital economy. In Vietnam, the issue of industrialization and modernization of the country has been advocated by the Party and State since the end of the twentieth century until now. This process aims to transform from production and society at the backward agricultural level to the industrial level with the use of increasingly advanced, modern and civilized technologies. Therefore, the process of industrialization and modernization associated with the digital economy development strategy is an inevitable step in Vietnam. This article uses the method of document analysis (Content-analysis) to analyze the current situation of the digital economy development in Vietnam. Thereby, the article offers solutions to develop the digital economy in Vietnam in the process of industrialization and modernization of the country.
 
Keywords: The Fourth Industrial Revolution, industrialization, modernization, digital economy, e-commerce. 
 
1. Giới thiệu
 
Cuộc CMCN 4.0 đã làm cho xu hướng số hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ và có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống, dựa trên các nền tảng công nghệ mới như: Trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), điện toán đám mây (Cloud Computing), Internet vạn vật (IoT). Công nghệ số được ứng dụng ở tất cả các lĩnh vực của ngành kinh tế, khi đó thuật ngữ kinh tế số trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng khoa học, đặc biệt là các diễn đàn kinh tế và các phương tiện truyền thông khác. 
 
Nosova và cộng sự (2018) cho rằng, trong tương lai gần nền kinh tế số sẽ bao phủ phần lớn các nền kinh tế trên thế giới. Với sự xuất hiện của phương tiện kỹ thuật số (Internet, điện thoại di động, các phương tiện thu thập, lưu trữ, phân tích và cung cấp thông tin khác) thì việc sao chép và phân phối dữ liệu kỹ thuật số được diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn. Thuật ngữ kinh tế số đề cập đến các hoạt động kinh tế, mà yếu tố chính trong quá trình sản xuất là dữ liệu dưới dạng kỹ thuật số. 
 
Tại Việt Nam, Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 nêu rõ, kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế.
 
Nền kinh tế số trên thế giới đang phát triển rất nhanh chóng, trở thành chìa khóa cho nhiều nền kinh tế vươn ra toàn cầu, điển hình là tại Trung Quốc. Đối với Việt Nam, dư địa phát triển nền kinh tế số đang rất lớn, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, kinh tế số Việt Nam năm 2021 chiếm 8,2% GDP với 163 tỷ USD. Kinh tế số đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ cuối thế kỷ XX. Ngày 03/6/2020 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu: Vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực ra toàn cầu. Đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%. Đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%. Tương tự, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng xác định, đến năm 2025, kinh tế số đạt tỷ trọng 20% GDP; đến năm 2030, kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP. 
 
2. Cơ sở lý thuyết
 
Ustyuzhanina và cộng sự (2017) cho rằng, nền kinh tế số là sự thay đổi trong mô hình phát triển kinh tế kéo theo những thay đổi trong bản chất của sự phân công lao động, cách thức tương tác giữa các chủ thể kinh doanh và nền tảng về quyền lực kinh tế. Theo BEA (Bureau of Economic Analysis), kinh tế số là nền kinh tế chủ yếu dựa trên nền tảng Internet và CNTT và truyền thông (ICT) có liên quan (Barefoot và cộng sự, 2018).
 
Với IMF (2018), nền kinh tế số đôi khi được định nghĩa theo nghĩa hẹp là các nền tảng trực tuyến và các hoạt động tồn tại nhờ vào các nền tảng đó. Tuy nhiên, theo nghĩa rộng thì tất cả các hoạt động sử dụng dữ liệu số hóa được xem là một phần của nền kinh tế số trong các nền kinh tế hiện đại và toàn bộ nền kinh tế. 
 
Tại “Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2019”, các  chuyên gia đã định nghĩa kinh tế số là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số, phát triển kinh tế số được xem là việc ứng dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới (Tô Trọng Hùng, 2021). Bản chất của nền kinh tế số là hoạt động liên quan trực tiếp đến sự phát triển của công nghệ số, bao gồm cung cấp các dịch vụ trực tuyến, thanh toán điện tử, thương mại điện tử  (TMĐT) và huy động vốn từ cộng đồng (Borremans và cộng sự, 2018).
 
Mô hình kinh tế số được cấu thành từ ba phần cơ bản là kinh tế số ICT/VT, kinh tế số Internet/nền tảng và kinh tế số ngành/lĩnh vực, trong đó: (1) Kinh tế số ICT/VT là dịch vụ viễn thông và lĩnh vực CNTT; (2) Kinh tế số Internet/nền tảng gồm các hoạt động kinh tế dựa trên Internet, kinh doanh dựa trên dữ liệu số, kinh doanh các dịch vụ số trực tuyến và các hình thức kinh doanh khác dựa trên mạng Internet; (3) Kinh tế số ngành/lĩnh vực là các hoạt động kinh tế dựa trên việc áp dụng các công nghệ số, nền tảng số vào các lĩnh vực và ngành truyền thống nhằm tăng năng suất lao động, tạo ra giá trị kinh tế mới, giá trị tăng thêm cho xã hội. (Hình 1)
 
Hình 1: Các cấu phần của nền kinh tế số


Nguồn: Cục Chuyển đổi số Quốc gia - AITA (2021)
 
Theo Bondarenko (2020), nền kinh tế số chỉ được xem là hiệu quả khi có sự gắn kết chặt chẽ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và lợi ích của từng cá nhân ở những thời điểm khác nhau. Điều này sẽ giúp giải quyết vấn đề đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người dân nói chung và mỗi cá nhân nói riêng. 
 
3. Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam
 
Theo báo cáo của e-Conomy SEA (2020), chỉ tính riêng cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng, tổng giá trị hàng hóa (GMV) của Việt Nam năm 2020 đạt 14 tỷ USD, đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, đáng chú ý Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất với tỷ lệ tăng là 16%, xếp sau đó là Indonesia với 11% và Thái Lan là 7%. Bất chấp sự ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, nền kinh tế số Internet/nền tảng của Việt Nam năm 2020 vẫn tăng trưởng ở mức hai con số. Cũng theo báo cáo này, kinh tế số Internet/nền tảng của Việt Nam được dự báo đến năm 2025 đạt 52 tỷ USD. (Hình 2)
 
Hình 2: GMV của nền kinh tế Internet khu vực Đông Nam Á năm 2020
                                                                                                                                                     
                                                                                                                                                      Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Báo cáo e-Conomy SEA 2020

 
Cũng theo e-Conomy SEA (2021) (Hình 3), chỉ tính riêng cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng, GMV của Việt Nam năm 2021 đạt 21 tỷ USD, ngang bằng với Malaysia, đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, với tốc độ tăng trưởng là 7%, giảm 9% so với năm 2020. Điều này có thể lý giải rằng, năm 2021 Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nặng nề từ đại dịch Covid-19, ngành du lịch giảm 45% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được bù đắp bởi hoạt động TMĐT, vận tải và thực phẩm, tăng lần lượt 53% và 35% YoY.
 
Bên cạnh đó, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, kinh tế số Việt Nam năm 2021 đạt khoảng 163 tỷ USD, chiếm khoảng 8,2% GDP cả nước, trong đó cấu phần kinh tế số ICT/VT đạt 126 tỷ USD, chiếm 5,5% GDP, kinh tế số Internet/nền tảng đạt 14 tỷ USD, chiếm 1% GDP và kinh tế số ngành/lĩnh vực đạt khoảng 23 tỷ USD, chiếm 1,7% GDP (Phùng Thị Hiền, 2022). 
 
Hình 3: GMV của nền kinh tế Internet khu vực Đông Nam Á năm 2021

                                                                                                                                                      Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Báo cáo e-Conomy SEA 2021

Theo nhận định của Báo cáo Chỉ số TMĐT EBI năm 2022 do Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM) vừa công bố, lĩnh vực TMĐT ở Việt Nam tiếp tục duy trì được đà phát triển nhanh và ổn định. Năm 2021, tốc độ tăng trưởng TMĐT của Việt Nam trên 20% với quy mô ước đạt trên 16 tỷ USD, trong khi năm 2017 con số này chỉ ở mức 8 tỷ USD. Đồng thời, theo thống kê của Bộ Công Thương, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước có tốc độ tăng trưởng thị phần bán lẻ trực tuyến cao nhất khu vực Đông Nam Á. Hơn nữa, theo Báo cáo e-Conomy SEA năm 2021 (Hình 4), Việt Nam là quốc gia có 71% người dùng Internet đã thực hiện ít nhất một lần mua hàng trực tuyến năm, xếp vị trí thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á. Là một quốc gia có hơn 73% dân số sử dụng Internet (tính đến cuối quý III/2022), tốc độ tăng trưởng TMĐT của Việt Nam được dự báo sẽ cao hơn nhiều trong thời gian tới do kiểm soát tốt dịch Covid-19 và những động lực tăng trưởng từ chủ trương của Chính phủ. 
 
Tính đến cuối năm 2021, Việt Nam có hơn 150 công ty Fintech cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thanh toán điện tử, ví điện tử, cho vay ngang hàng (P2P Lending) và quản lý tài chính cá nhân... số lượng công ty Fintech đã tăng gấp 4 lần so với năm 2016 (Đỗ Quang Trị, 2021). Nhìn chung, hoạt động của các công ty Fintech tại Việt Nam trong những năm gần đây có nhiều điểm nổi bật nhờ vào việc ứng dụng sâu rộng công nghệ kỹ thuật số trong kinh doanh, cùng với sự bùng nổ mạnh mẽ của TMĐT cả về quy mô, hình thức và chủ trương đẩy mạnh thanh toán kỹ thuật số của Chính phủ.
 
Về việc xây dựng Chính phủ điện tử (E-Government), theo Bộ Thông tin và Truyền thông (2015) “Chính phủ điện tử là Chính phủ ứng dụng CNTT nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, tăng cường công khai, minh bạch thông tin, cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp”. Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc triển khai xây dựng Chính phủ điện tử và đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận như: Xây dựng và đưa vào vận hành một số cơ sở dữ liệu quan trọng; cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân; một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường Internet; hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức; chất lượng nhân lực về CNTT của Việt Nam cũng được nâng cao. Một trong những dấu ấn đặc biệt trong việc xây dựng Chính phủ điện tử là sự kiện khai trương Cổng dịch vụ công quốc gia vào ngày 09/12/2019 với 08 dịch vụ công, tính đến ngày 29/11/2022 có đến 1.462 dịch vụ công trực truyến được tích hợp cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia với tổng số 4.258 thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền; hơn 150 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; gần 6 triệu hồ sơ thực hiện trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Từ những con số trên cho thấy, kỳ vọng và nhu cầu rất lớn của người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện giao dịch trực tuyến với Chính phủ trên cổng tập trung.   
 
Cho đến nay, nền kinh tế số Việt Nam đã đạt được những thành tựu ban đầu đáng ghi nhận, nhưng so với khu vực Đông Nam Á và rộng ra thế giới thì quá trình phát triển kinh tế số của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, tồn tại một số hạn chế và khó khăn nhất định, cụ thể:
 
Hệ thống thể chế và môi trường pháp lý liên quan đến kinh tế số ở Việt Nam chưa thật sự hoàn thiện và thiếu đồng bộ trong quá trình thực hiện các giao dịch về cơ sở dữ liệu nên chưa thể khai thác và phát huy hết tiềm năng để phát triển kinh tế số. Nguồn nhân lực quốc gia hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là nguồn nhân lực CNTT còn thiếu kỹ năng số. Mức độ nhận thức của cộng đồng xã hội về nền kinh tế số chưa cao, nhiều cán bộ, doanh nghiệp và người dân chưa nắm bắt kịp thời những chủ trương, chính sách và quy định từ Đảng và Nhà nước để thực hiện đồng bộ. 
 
Tương lai bùng nổ và phát triển mạnh mẽ của TMĐT ở Việt Nam sẽ phụ thuộc rất lớn vào khả năng thu hút vốn đầu tư vào các nền tảng trong hệ sinh thái kinh doanh trực tuyến, cũng như đội ngũ nhân sự chất lượng cao. Theo Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam năm 2022, nguồn nhân lực TMĐT ở Việt Nam còn thiếu, đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho việc lựa chọn tên miền chưa phù hợp cũng như hiệu quả hoạt động rất thấp của các sàn TMĐT tại các vùng nông thôn, vùng kinh tế kém phát triển. Mức độ phát triển TMĐT ở Việt Nam thường không đồng đều giữa khu vực thành thị (Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội) và nông thôn, miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. 
 
Bên cạnh đó, việc đảm bảo an ninh mạng, bảo mật và an toàn thông tin ở Việt Nam còn nhiều bất cập và đối mặt với không ít rủi ro. Bởi lẽ, phát triển kinh tế số được dựa trên nền tảng của CNTT thông qua Internet, do đó nguy cơ xảy ra các cuộc tấn công an ninh mạng, rò rỉ thông tin dữ liệu của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế số là rất cao. Đặc biệt, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, hình thức làm việc từ xa được rất nhiều doanh nghiệp triển khai thực hiện, hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro bảo mật thông tin xuất phát từ hệ thống mạng và hành vi của nhân viên. Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn là nước có tỷ lệ nhiễm mã độc và xảy ra nhiều cuộc tấn công mạng thuộc nhóm cao trên thế giới. 
 
Ngoài ra, hạ tầng viễn thông, CNTT có tốc độ truy cập chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển IoT, thành phố thông minh, phương tiện tự động, sản xuất thông minh... (Bộ Công Thương, 2021). Trong nền kinh tế số, nguồn dữ liệu là tài nguyên quan trọng. Tuy nhiên, hệ thống dữ liệu của ở nước ta còn phân tán, chưa được đồng đều, việc tiếp cận dịch vụ Internet băng rộng ở khu vực nông thôn, miền núi còn hạn chế. 
 
4. Giải pháp phát triển kinh tế số cho Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
 
Thứ nhất, Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý về kinh tế số và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0. Việc hoàn thiện khung pháp lý có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ cải thiện môi trường kinh doanh kinh tế số. Khi đó, các mô hình kinh doanh số như TMĐT, tài chính số và ngân hàng số được hoạt động theo khuôn khổ nhất định, đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia có liên quan.
 
Thứ hai, các bộ, ban, ngành và chính quyền địa phương cần nhanh chóng hoàn thiện, đồng bộ và nâng cấp hạ tầng số, nhằm tăng tính an toàn bảo mật thông tin trên mạng Internet cho các chủ thể tham gia vào nền kinh tế số. Đồng thời, để tạo điều kiện cho TMĐT có thể bùng nổ trong thời gian tới, cơ quan nhà nước có liên quan cần xây dựng các chính sách quản lý, phát triển hoạt động TMĐT phù hợp; chính quyền địa phương cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho các doanh nghiệp, hộ cá nhân về kỹ năng TMĐT, khuyến khích cộng đồng xã hội ứng dụng TMĐT vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
 
Thứ ba, để có thể đáp ứng các yêu cầu cho Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, Việt Nam cần chú trọng phát triển hạ tầng viễn thông bao gồm hạ tầng băng rộng cố định, di động và đặc biệt là hạ tầng trung tâm dữ liệu quốc gia. Các cơ quan chính quyền địa phương cần đẩy mạnh huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp tư nhân vào phát triển hạ tầng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước cần phân bổ nguồn lực phù hợp đến các khu vực chưa có hạ tầng mạng cáp quang. Bộ Thông tin và Truyền thông cần tích cực triển khai mạng di động 5G, xem xét dừng sử dụng công nghệ 2G nhằm khuyến khích người dân sử dụng Smartphone; thúc đẩy thị trường bán buôn truy cập dịch vụ Internet băng rộng. 
 
Thứ tư, chú trọng công tác đào tạo và nâng cao nguồn nhân lực CNTT đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số. Để làm được điều này, hệ thống giáo dục của các trường đại học, cao đẳng cần cải cách chương trình đào tạo phù hợp với định hướng pháp triển nền kinh tế số. Đặc biệt, chương trình đào tạo ngành CNTT cần tập trung vào công nghệ mới như: AI, IoT, công nghệ Blockchain, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và đơn vị doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT...
 
Thứ năm, giải pháp về vấn đề an ninh mạng, bảo mật và an toàn thông tin là nhiệm vụ rất cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế số. Để giảm thiểu rủi ro xảy ra các cuộc tấn công an ninh mạng, cần có sự chung tay phối hợp từ cơ quan Nhà nước đến các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào nền kinh tế số. Trước tiên, Chính phủ cần nhanh chóng bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quản lý các dịch vụ viễn thông, Internet, cần lưu ý đến tính hiệu lực thi hành của các văn bản này. Đồng thời, Chính phủ cần xem xét và sửa đổi cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm an ninh mạng, đặc biệt là chế tài xử phạt cần được áp dụng phù hợp  với tính chất nguy hiểm của vụ việc. Cùng với đó, các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào nền kinh số cần phải hết sức thận trọng và nâng cao nhận thức về rủi ro an ninh mạng.
 
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Ban Nội chính Trung ương (2021), Thủ tướng: Phát triển Chính phủ điện tử là một điểm sáng nổi bật trong nhiệm kỳ, truy cập ngày 12/7/2022, https://noichinh.vn/tin-tuc-su-kien/202103/thu-tuong-phat-trien-chinh-phu-dien-tu-la-mot-diem-sang-noi-bat-trong-nhiem-ky-309281/  
2. Barefoot, K., Curtis, D., Jolliff, W., Nicholson, J. R., & Omohundro, R. (2018), “Defining and measuring the digital economy”, US Department of Commerce Bureau of Economic Analysis, Washington, DC.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015), Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam Phiên bản 1.0 ban hành kèm theo Văn bản số 1178/BTTTT-THH ngày 21/4/2015. 
4. Borremans, A. D., Zaychenko, I. M., & Iliashenko, O. Y. (2018), “Digital economy, IT strategy of the company development”, In Matec Web of Conferences, Vol 170, Page 01034, EDP Sciences.
5. Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
6. Chính phủ (2022), Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
7. Bộ Công Thương (2021), Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển hạ tầng số, truy cập ngày 14/7/2022, https://congthuong.vn/viet-nam-con-gap-nhieu-kho-khan-trong-phat-trien-ha-tang-so-167482.html 
8. Cục Chuyển đổi số quốc gia (2021), Tình hình phát triển kinh tế số tại Việt Nam, truy cập ngày 24/11/2022, https://aita.gov.vn/tinh-hinh-phat-trien-kinh-te-so-tai-viet-nam 
9. Đỗ Quang Trị (2021), Cơ hội và thách thức phát triển Fintech tại Việt Nam, Tạp chí Công Thương, số 27, tháng 12, truy cập ngày 11/7/2022, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/co-hoi-va-thach-thuc-phat-trien-fintech-tai-viet-nam-86436.htm
10. Google, Temasek, Bain & Company (2021), E- Conomy SEA 2021.
11. Google, Temasek, Bain & Company (2020), E- Conomy SEA 2020.
12. IMF (2018), Measuring the Digital Economy, truy cập ngày 24/11/2022, https://www.imf.org/en/Publications/Policy-Papers/Issues/2018/04/03/022818-measuring-the-digital-economy
13. Nosova, S. S., Norkina, A. N., Makar, S. V., Arakelova, I. V., Medvedeva, A. M., & Chaplyuk, V. Z. (2018), “The digital economy as a new paradigm for overcoming turbulence in the modern economy of Russia”, Espacios, 39 (24), 11.
14. Phùng Thị Hiền (2022), Thực trạng và giải pháp phát triển nền kinh tế số tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính, truy cập ngày 11/7/2022, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nen-kinh-te-so-tai-viet-nam-346308.html 
15. Tô Trọng Hùng (2021), “Nhận thức về kinh tế số và một số giải pháp phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam: Tạp chí Công thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 9 tháng 4/2021.
16. Ustyuzhanina, E. V., Sigarev, A. V., Komarova, I. P., & Novikova, E. S. (2017),  “The impact of the digital revolution on the paradigm shift in the economic development”, Revista Espacios, 38 (62).

ThS. Đoàn Thị Cẩm Thư
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Dòng chảy tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm
18/11/2024 16:45 198 lượt xem
Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát
11/11/2024 07:30 1.265 lượt xem
Từ đầu năm 2024 đến nay, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới vẫn neo ở mức cao...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền
08/11/2024 08:00 644 lượt xem
Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng
05/11/2024 13:46 1.002 lượt xem
Bài viết làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi
Xây dựng và thiết lập hạ tầng chung cho phát triển ngân hàng mở tại Việt Nam
Xây dựng và thiết lập hạ tầng chung cho phát triển ngân hàng mở tại Việt Nam
29/10/2024 10:00 1.273 lượt xem
Thời gian tới, để triển khai và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái số, hướng đến ngân hàng mở (Open Banking) thành công, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách tạo thuận lợi cho các hoạt động hợp tác, kết nối trong lĩnh vực ngân hàng
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
23/10/2024 08:25 1.517 lượt xem
Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành tăng trưởng tín dụng linh hoạt, hiệu quả, kịp thời, đáp ứng vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bảo hiểm nông nghiệp: Lá chắn tài chính trước rủi ro thiên tai
Bảo hiểm nông nghiệp: "Lá chắn" tài chính trước rủi ro thiên tai
24/09/2024 10:11 2.980 lượt xem
Nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù Việt Nam là một quốc gia dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, nhưng khái niệm bảo hiểm nông nghiệp vẫn còn khá xa lạ đối với người dân.
An ninh tài chính, tiền tệ của Việt Nam đến năm 2030 và khuyến nghị chính sách*
An ninh tài chính, tiền tệ của Việt Nam đến năm 2030 và khuyến nghị chính sách*
19/09/2024 08:36 4.006 lượt xem
An ninh tài chính, tiền tệ có vị trí, vai trò ngày càng quan trọng với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và căng thẳng như hiện nay, bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ không chỉ góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô mà còn góp phần bảo đảm an ninh về chính trị, quân sự.
Đề xuất sửa 7 luật, tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn trong lĩnh vực tài chính
Đề xuất sửa 7 luật, tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn trong lĩnh vực tài chính
23/08/2024 11:11 3.408 lượt xem
Ngày 22/8/2024, Bộ Tư pháp tổ chức phiên họp Hội đồng thẩm định đề nghị xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Dự trữ quốc gia. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng chủ trì phiên họp.
Khuôn khổ pháp lý triển khai ESG tại Agribank - Thực trạng và giải pháp
Khuôn khổ pháp lý triển khai ESG tại Agribank - Thực trạng và giải pháp
15/08/2024 07:00 4.254 lượt xem
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm áp dụng các tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong tổ chức hoạt động kinh doanh đang là xu hướng của nhiều nước trên thế giới, góp phần thực hiện các mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs)...
Sự tương thích trong quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 về Hội đồng quản trị với thông lệ quản trị ngân hàng trên thế giới
Sự tương thích trong quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 về Hội đồng quản trị với thông lệ quản trị ngân hàng trên thế giới
13/08/2024 08:02 3.733 lượt xem
Trong những năm gần đây, vấn đề quản trị công ty trong lĩnh vực ngân hàng đang trở thành một trong những trọng tâm nghiên cứu của những người làm chính sách, các học giả nghiên cứu cũng như các ngân hàng nhằm duy trì sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng và thúc đẩy niềm tin của công chúng.
Xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn
Xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng - Từ quy định pháp luật đến thực tiễn
07/08/2024 11:02 5.215 lượt xem
Bài viết tập trung phân tích vấn đề xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ của TCTD trong phạm vi hợp đồng thế chấp cho nghĩa vụ vay tại ngân hàng nhằm đưa ra một số đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật.
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng và một số góp ý hoàn thiện
09/07/2024 14:31 3.438 lượt xem
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
Hoạt động gỡ cảnh báo thẻ vàng IUU: Vấn đề đặt ra và giải pháp
01/07/2024 14:47 7.467 lượt xem
Năm 2024, chống hoạt động IUU được xem là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa lâu dài đối với phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam. Các quy định IUU được thiết lập thống nhất trên toàn EU để ngăn chặn và loại bỏ việc nhập khẩu các sản phẩm thủy sản bị đánh giá là có hoạt động IUU vào thị trường EU nhằm hướng tới ngành ngư nghiệp, ngành kinh tế thủy sản minh bạch, trách nhiệm, bền vững.
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ xanh - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
20/06/2024 14:47 3.009 lượt xem
Chính sách tiền tệ (CSTT) xanh của ngân hàng trung ương (NHTW) trong việc cho vay đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) là một công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

Vàng SJC 5c

83,700

86,220

Vàng nhẫn 9999

83,700

85,600

Vàng nữ trang 9999

83,600

85,200


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,150 25,502 26,092 27,523 31,263 32,592 158.81 168.04
BIDV 25,190 25,502 26,295 27,448 31,648 32,522 160.63 167.55
VietinBank 25,198 25,502 26,307 27,507 31,676 32,686 160.27 168.02
Agribank 25,200 25,502 26,225 27,408 31,448 32,511 160.54 168.04
Eximbank 25,160 25,502 26,287 27,168 31,543 32,559 161.12 166.54
ACB 25,170 25,502 26,309 27,212 31,642 32,598 160.68 167.03
Sacombank 25,180 25,502 26,294 27,267 31,555 32,708 160.81 167.32
Techcombank 25,184 25,502 26,134 27,486 31,274 32,605 157.32 169.76
LPBank 25,190 25,502 26,591 27,484 31,928 32,590 162.28 169.38
DongA Bank 25,230 25,500 26,300 27,150 31,600 32,550 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?