Một số khuyến nghị trong việc tăng cường các quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao
20/09/2024 13:52 2.731 lượt xem
Tóm tắt: Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng. Tội phạm mạng và công nghệ cao ngày càng trở nên tinh vi, đa dạng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã xây dựng khung pháp lý cho tội phạm mạng nói riêng và tội phạm công nghệ cao nói chung. Tuy nhiên, những quy định hiện hành chưa thể bao quát hết các trường hợp tội phạm. Phạm vi bài viết này sẽ tập trung phân tích, đánh giá các quy định quốc tế trong Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001 (Công ước Budapest 2001) và những đổi mới trong hoạt động tư pháp của Singapore. Qua đó, đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tội phạm công nghệ cao thời gian tới.

Từ khóa: Công nghệ cao, pháp luật quốc tế, tội phạm.

 
SOME RECOMMENDATIONS TO STRENGTHEN LEGAL REGULATIONS ON HIGH-TECH CRIMES

Abstract: The explosion of digital technology and the rapid development of cyberspace have created new opportunities but also posed enormous challenges to cyber security. Cybercrime and high-tech crimes are becoming increasingly sophisticated, diverse and causing serious consequences for the economy, society and national security. Currently, Vietnamese law has built a legal framework for cybercrime in particular and high-tech crime in general. However, current regulations cannot cover all criminal cases. In this article, the author focus on analyzing and evaluating international regulations in the Budapest Convention 2001 and innovations in Singapore's judicial activities. Thereby, providing some lessons for Vietnam in building and perfecting the law on high-tech crime in the coming time.

Keywords: High-tech crimes, international law, crimes.

1. Đặt vấn đề

Một thống kê của Microsoft cho thấy, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng bắt nạt trực tuyến ở mức báo động, với hơn một nửa số người dùng Internet thừa nhận đã từng tham gia hoặc chứng kiến các hành vi này
1. Trong kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV về tình hình tội phạm công nghệ cao, theo đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà - Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội với từ khóa “Bắt giữ tội phạm công nghệ cao” trên công cụ tìm kiếm Google đã thu về được khoảng 19.100.000 kết quả trong vòng 0,39 giây2. Thực tế cho thấy, những đối tượng là người nước ngoài nhập cảnh vào nước ta sử dụng những thiết bị công nghệ cao để lừa đảo, tống tiền người dân hoặc có hành vi làm giả thẻ tín dụng… nhằm mục đích chiếm đoạt tài khoản ngân hàng xảy ra tại nhiều địa phương trong thời gian qua. Chính vì vậy, nguy cơ mất an toàn thông tin có thể xuất hiện nhiều hơn, không những gây rủi ro trong việc ứng dụng công nghệ cao vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội mà còn ảnh hưởng đến bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia (Hà Việt Hưng, 2019).

Mặt khác, nhu cầu sử dụng Internet ở nước ta là rất lớn. Khảo sát của Facebook và WARC
3 cho thấy, người dùng Internet ở Việt Nam dành nhiều thời gian cho Internet hơn sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Theo nghiên cứu mới nhất của Datareportal và Wearesocial vào đầu năm 2024, hiện Việt Nam có khoảng 78,44 triệu người sử dụng Internet và 72,7 triệu người sử dụng mạng xã hội vào tháng 01/2024, tương đương với 73,3% tổng dân số4; ngoài ra, số lượng thuê bao di động tại Việt Nam đạt 168,5 triệu kết nối, tương đương với 169,8% tổng dân số. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh chóng, các quốc gia trong đó có Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông để thích ứng với sự đổi mới của thị trường. Bên cạnh việc phát triển của công nghệ cao thì vấn đề tội phạm trong lĩnh vực này cũng gia tăng đáng kể (Hồ Thế Hòe, 2013). Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao.
 

Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng (Nguồn ảnh: Internet)
 
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây có đề cập đến định nghĩa và hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao. Một trong những nghiên cứu tiêu biểu của Evon, A. và cộng sự (2019) đề cập đến những định nghĩa học thuật về tội phạm mạng và quy định trừng phạt. Nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau trong cách định nghĩa từ quan điểm của mỗi quốc gia. Bài nghiên cứu thông qua quy định pháp luật của 5 quốc gia khác nhau liên quan đến tội phạm mạng, bao gồm: Jordan, Oman, Kuwait, Qatar và Saudi Arabia. Ở trong nước, nghiên cứu của Cao Anh Đức (2015) đi sâu tìm hiểu tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, các thủ đoạn phạm tội và dự báo về tình hình tội phạm có sử dụng công nghệ cao. Hay nghiên cứu của Trần Đoàn Hạnh (2016) phân tích hiện trạng, đánh giá những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao. Hoặc nghiên cứu của Hoàng Việt Quỳnh (2016) tập trung trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Nhìn chung, các nghiên cứu đã phần nào khái quát bức tranh về tội phạm công nghệ cao và mang lại góc nhìn tổng quan hơn. Tội phạm công nghệ cao không chỉ là vấn đề của cá nhân mà còn là thách thức lớn đối với xã hội. Mục tiêu của nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích các quy định trong Công ước Budapest 2001, sự đổi mới của Bộ luật Hình sự Singapore và việc truy tố tội phạm công nghệ cao Viện Công tố nước này về tội phạm công nghệ cao nhằm đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

2. Quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao tại Việt Nam

Xét về khái niệm “công nghệ cao”, căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”.

Xét về khái niệm “tội phạm công nghệ cao”, dựa theo khoản 7 Điều 2 Luật An ninh mạng 2018 thì: “Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự”. Theo đó, từ Điều 285 đến Điều 294 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự) quy định liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì tội phạm công nghệ cao có thể được xem là các hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa ở những lĩnh vực khác, tiêu biểu như tài chính - ngân hàng, điện tử - viễn thông (Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân, 2019).

Tóm lại, có thể hiểu, tội phạm công nghệ cao là những tội phạm liên quan đến các hành vi phạm pháp được thực hiện thông qua hoặc liên quan đến máy tính, mạng Internet và các công nghệ số. Chúng bao gồm cả những hình thức tội phạm mới nổi lên cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật số.

3. Kinh nghiệm quốc tế trong quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Công ước Budapest 2001 phân chia tội phạm mạng thành 4 nhóm, bao gồm: (1) Các tội phạm chống lại tính bí mật, toàn vẹn và sẵn có của dữ liệu máy tính và hệ thống máy tính
5; (2) Các tội phạm liên quan đến máy tính6; (3) Các tội phạm liên quan đến nội dung7; (4) Các tội phạm xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan8. Bên cạnh đó, Công ước Budapest 2001 cũng quy định cụ thể về trách nhiệm bổ trợ và biện pháp chế tài; trong đó, tại khoản 1, khoản 2 Điều 12 quy định về trách nhiệm của pháp nhân như sau:

“1. Các quốc gia thành viên phải ban hành luật và các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với các hành vi phạm tội quy định trong công ước này, được bất cứ cá nhân nào thực hiện vì lợi ích của pháp nhân, nếu cá nhân ấy là đại diện hoặc một phần trong cơ quan của pháp nhân và nắm vị trí lãnh đạo trên cơ sở.

a. Thẩm quyền đại diện cho pháp nhân.

b. Thẩm quyền ra quyết định nhân danh pháp nhân.

c. Thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát trong nội bộ pháp nhân.

2. Ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện tốt việc giám sát hoặc kiểm soát của cá nhân đề cập trong khoản 1 làm cho tội phạm quy định trong công ước này được thực hiện bởi cá nhân hành xử theo thẩm quyền của mình vì lợi ích của pháp nhân”. Theo quy định này thì việc pháp nhân có hành vi vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm với hành vi phạm tội của mình. Biện pháp chế tài cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 13 của Công ước Budapest 2001: “Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm phù hợp với các quy định tại Điều 12 và bị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự hoặc phi hình sự mang tính tương xứng, hiệu quả và có tính răn đe hoặc các biện pháp khác, bao gồm cả chế tài phạt tiền”.

Nếu Công ước Budapest 2001 đề cập những quy định pháp luật mang tính khuyến khích chấp hành thì kinh nghiệm truy tố tội phạm công nghệ cao của Viện Công tố Singapore sẽ tập trung vào chức năng truy tố tội phạm, trong đó có 2 điểm chính: Hệ thống pháp luật và sự chuyên môn hóa. Ở nhiều nước, truy tố thuộc thẩm quyền của Viện Công tố. Tuy nhiên, tùy vào cách tổ chức của mỗi nước mà Viện Công tố được tổ chức ở Bộ Tư pháp hoặc ở Tòa án. Bộ luật Hình sự Singapore đã được sửa đổi rất nhiều lần nhằm đảm bảo các loại tội phạm trong việc giả mạo giấy tờ, tài liệu, đặc biệt là các tài liệu điện tử hay các phương thức giả mạo sử dụng công nghệ cao, bên cạnh đó là sự thừa nhận các thông tin có được từ hệ thống máy tính là chứng cứ. Ngoài ra, đối với các hành vi quấy rối trước đây, hành vi phạm tội quấy rối người khác chỉ áp dụng cho các hành vi được thực hiện trong thế giới thực, nhưng theo quy định của luật mới, việc sử dụng các phương tiện truyền thông như Internet, mạng xã hội… cùng với sự phát triển của các phương thức giao tiếp trực tuyến khác đã mở rộng phạm vi của hành vi này trên không gian mạng. Viện Công tố Singapore cũng chủ động xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các đối tác trong và ngoài nước như: Các lượng Cảnh sát, Viện kiểm sát, Viện Công tố trong và ngoài khối ASEAN; Bộ Tư pháp Hoa Kỳ; lực lượng Cảnh sát hình sự quốc tế Interpol… trong công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm sử dụng công nghệ cao (Nguyễn Đức Hà, 2018). Ở một khía cạnh khác, Viện Công tố Singapore luôn tìm hiểu, phát hiện những công tố viên có tố chất, đặc biệt đam mê, am hiểu trong lĩnh vực công nghệ, từ đó xây dựng đội ngũ công tố viên phù hợp cho việc xử lý loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, dần hoàn thiện nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành tư pháp của Singapore.

4. Một số khuyến nghị cho Việt Nam nhằm tăng cường quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Quy định pháp luật của Việt Nam về tội phạm công nghệ cao đã có nhiều tiến bộ tích cực trong nhìn nhận rủi ro và cải thiện từng ngày. Tuy nhiên, trước tình hình hội nhập thông tin toàn cầu như hiện nay, tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng đang ngày tăng, ở cả số lượng và tính chất nguy hiểm. Để đáp ứng yêu cầu phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao, Việt Nam cần tăng cường xây dựng hệ thống quy định pháp luật vững chắc hơn nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Một là, dựa trên tinh thần của Công ước Budapest 2001, pháp luật Việt Nam cần quy định rõ ràng trách nhiệm của pháp nhân trong việc giám sát và kiểm soát hành vi của nhân viên. Cụ thể như sau: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu không thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao, ngay cả khi những hành vi này được thực hiện trong quá trình công tác và vì lợi ích của pháp nhân. Đồng thời, pháp nhân có nghĩa vụ hợp tác với cơ quan chức năng trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc”.

Hai là, việc xác định rõ loại hình và mức độ hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao, đặc biệt là đối với người nước ngoài, là một yêu cầu cấp bách nhằm đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả trong thực thi pháp luật và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật xuyên quốc gia. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có những quy định cụ thể, chi tiết hơn trong cả luật hình sự và luật hành chính nhằm điều chỉnh phù hợp các tội phạm (hình sự) và hình phạt (hành chính và hình sự) về tội phạm công nghệ cao để tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và tạo ra lỗ hổng pháp lý.

Ba là, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực ngày càng tiệm cận hơn với các nước phát triển trên thế giới. Cán bộ các bộ, ngành cần không ngừng chủ động nâng cao trình độ và năng lực thực thi, đặc biệt là về pháp luật quốc tế, vận dụng và triển khai các hiệp ước, công ước chung để có thể tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong thời kỳ hội nhập. Mặt khác, Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành cũng cần đầu tư mạnh mẽ vào việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trang bị cho họ những kiến thức và kỹ năng cần thiết để có thể ứng dụng công nghệ vào công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án liên quan đến công nghệ.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm công nghệ cao. Bên cạnh các quy định đã có hiện tại, các cơ quan cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các chính sách thúc đẩy kết nối giữa các cơ quan đối tác trong và ngoài nước, đồng thời khuyến khích nâng cao nhận thức của người dân về các nguy cơ của tội phạm mạng, đầu tư vào công nghệ để phát hiện và ngăn chặn tội phạm tại Việt Nam nói riêng và xây dựng một mặt trận chung chống lại tội phạm công nghệ cao trên toàn cầu nói chung.

5. Kết luận

Sự bùng nổ của không gian mạng và sự phát triển thần tốc của Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm công nghệ phát sinh và ngày càng tinh vi. Trước thực tế này, việc hoàn thiện khung pháp lý về tội phạm công nghệ cao trở thành một yêu cầu cấp bách. Ở Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Do đó, việc cập nhật và bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến tội phạm công nghệ cao vào Bộ luật Hình sự nói riêng và các luật liên quan đến công nghệ cao nói chung là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng kịp thời những diễn biến phức tạp của tình hình công nghệ và an ninh mạng quốc gia.

 
 
https://news.microsoft.com/vi-vn/2020/09/30/nghien-cuu-cua-microsoft-cho-thay-cu-10-nguoi-dung-internet-tai-viet-nam-thi-co-hon-5-nguoi-lien-quan-den-cac-hanh-vi-bat-nat/, truy cập ngày 25/7/2024.
2 https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=47827&CategoryId=0, truy cập ngày 25/7/2024.
3 https://www.warc.com/Welcome, truy cập ngày 25/7/2024.
4 Báo cáo ước tính dân số của Việt Nam đạt 99,19 triệu người vào tháng 01/2024.
Điều 2 đến Điều 6 Công ước Budapest 2001.
6 Điều 7 và Điều 8 Công ước Budapest 2001.
Điều 9 Công ước Budapest 2001.
8 Điều 10 Công ước Budapest 2001.

Tài liệu tham khảo:

1. Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001.
2. Bộ luật Hình sự Singapore năm 1871; sửa đổi, bổ sung lần gần nhất vào năm 2021.
3. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017.
4. Cao Anh Đức (2015), “Tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, thủ đoạn phạm tội và dự báo”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 16(296), trang 37 - 43.
5. Evon A. T., Auhood, A., Shaha, A. and Ghadah, A. (2019), “Cyber Security Crime and Punishment: Comparative Study of the Laws of Jordan, Kuwait, Qatar, Oman, and Saudi Arabia”, International Journal of Cyber Warfare and Terrorism, 8(3), pages 46 - 59.
6. Nguyễn Đức Hà (2018), “Kinh nghiệm truy tố tội phạm sử dụng công nghệ cao của Viện Công tố Singapore”, Tạp chí Kiểm sát, 
https://kiemsat.vn/kinh-nghiem-truy-to-toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-cua-vien-cong-to-singapore-50807.html, truy cập ngày 25/7/2024.
7. Trần Đoàn Hạnh (2016), “Những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2+3 (306+307), trang 103 - 111.
8. Hồ Thế Hòe (2013), “Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 
https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/687, truy cập ngày 25/7/2024.
9. Hà Việt Hưng (2019), “Một số kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 
https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=690, truy cập ngày 25/7/2024.
10. Hoàng Việt Quỳnh (2016), “Một số trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát Nhân dân.
11. Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân (2019), “Tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tòa án nhân dân.

Nguyễn Hoàng Nam
Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Cập nhật thông tin giấy tờ tùy thân và dữ liệu sinh trắc học: Bảo mật tài khoản và an toàn giao dịch trực tuyến
Cập nhật thông tin giấy tờ tùy thân và dữ liệu sinh trắc học: Bảo mật tài khoản và an toàn giao dịch trực tuyến
21/11/2024 13:30 46 lượt xem
Theo NHNN, sau khoảng 3 tháng triển khai xác thực sinh trắc học theo Quyết định số 2345, số lượng vụ việc lừa đảo mất tiền của khách hàng cá nhân và số lượng tài khoản khách hàng cá nhân có phát sinh nhận tiền lừa đảo đã giảm đáng kể.
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh: Triển vọng cho ngành Ngân hàng
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh: Triển vọng cho ngành Ngân hàng
15/11/2024 08:11 425 lượt xem
Ngành Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đang trải qua sự chuyển mình đáng kể nhờ sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), đặc biệt là trí tuệ nhân tạo tạo sinh (Generative AI - GenAI).
Ngân hàng mở và giao diện lập trình ứng dụng mở trong hoạt động ngân hàng
Ngân hàng mở và giao diện lập trình ứng dụng mở trong hoạt động ngân hàng
13/11/2024 08:22 464 lượt xem
Ngân hàng mở thể hiện sự thay đổi trong ngành tài chính, ngân hàng, được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ nhằm nâng cao trải nghiệm khách hàng.
Ngày Pháp luật Việt Nam: Lịch sử, ý nghĩa và vai trò quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số
Ngày Pháp luật Việt Nam: Lịch sử, ý nghĩa và vai trò quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số
09/11/2024 18:30 925 lượt xem
Ngày 20/6/2012, Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó đã quy định rõ: “Ngày 09/11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Tác động của chuyển đổi số tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Tác động của chuyển đổi số tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
07/11/2024 08:10 923 lượt xem
Với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông, các nền kinh tế trên thế giới đang bước vào giai đoạn mới, nơi mà các hoạt động kinh tế, từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng đều được số hóa một cách toàn diện.
Zero Trust - Công cụ hiệu quả cho các giải pháp an ninh, bảo mật
Zero Trust - Công cụ hiệu quả cho các giải pháp an ninh, bảo mật
05/11/2024 08:30 743 lượt xem
Mô hình Zero Trust (tạm dịch “Không tin bất kỳ ai”) là phương pháp bảo mật mạng và hệ thống thông tin mà mọi yêu cầu truy cập vào tài nguyên nội bộ được xem xét và xác minh một cách cẩn thận, thay vì tin tưởng vào các nguồn truy cập nội bộ.
Đánh giá các công nghệ Big Data cho lĩnh vực tài chính, ngân hàng
Đánh giá các công nghệ Big Data cho lĩnh vực tài chính, ngân hàng
01/11/2024 09:15 1.128 lượt xem
Thông qua việc phân tích các trường hợp ứng dụng thực tế, bài viết cung cấp một đánh giá về các công cụ hỗ trợ trong việc lưu trữ, xử lý, phân tích Big Data góp phần thúc đẩy sự đổi mới và phát triển bền vững trong ngành tài chính, ngân hàng.
Quản trị rủi ro trong Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và một số bài học cho Việt Nam
Quản trị rủi ro trong Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và một số bài học cho Việt Nam
22/10/2024 08:24 1.401 lượt xem
Với tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các sản phẩm công nghệ mới đang trở thành nền tảng để công nghệ tài chính (Fintech) phát triển, mang lại nhiều lợi ích cho người dùng.
Chuẩn hóa về hạ tầng kết nối và an toàn thông tin để phát triển mô hình ngân hàng mở
Chuẩn hóa về hạ tầng kết nối và an toàn thông tin để phát triển mô hình ngân hàng mở
15/10/2024 09:09 1.393 lượt xem
Ngân hàng mở đang trở thành một xu hướng nổi bật trong ngành tài chính, mang đến nhiều cơ hội phát triển và cải thiện trải nghiệm khách hàng thông qua sự kết nối giữa ngân hàng và bên thứ ba.
Tác động của sự phát triển Fintech đến ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của sự phát triển Fintech đến ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam
14/10/2024 14:51 3.054 lượt xem
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu, bắt nguồn từ sự kết hợp giữa tài chính và công nghệ, Fintech bùng nổ đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính.
Hoàn thiện pháp lý và chuẩn hóa hạ tầng kỹ thuật: Tạo nền tảng thúc đẩy số hóa ngân hàng
Hoàn thiện pháp lý và chuẩn hóa hạ tầng kỹ thuật: Tạo nền tảng thúc đẩy số hóa ngân hàng
10/10/2024 16:58 1.287 lượt xem
Với những giải pháp và nỗ lực của cả hệ thống, chuyển đổi số ngân hàng đã gặt hái nhiều “trái ngọt”. Tuy nhiên, còn nhiều thách thức cản trở quá trình số hóa ngân hàng.
Tăng tốc và nâng tầm chuyển đổi số ngành Ngân hàng với trí tuệ nhân tạo
Tăng tốc và nâng tầm chuyển đổi số ngành Ngân hàng với trí tuệ nhân tạo
10/10/2024 16:09 1.302 lượt xem
Ngành Ngân hàng đang trải qua công cuộc chuyển đổi số mạnh mẽ, được thúc đẩy bởi sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ.
Ứng dụng điện toán đám mây trong hoạt động ngân hàng  - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Ứng dụng điện toán đám mây trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
04/10/2024 16:27 2.068 lượt xem
Điện toán đám mây đang trở thành yếu tố then chốt trong quá trình chuyển đổi số của ngành Ngân hàng, mang lại nhiều lợi ích vượt trội về hiệu suất, bảo mật và đặc biệt là tăng lợi thế cạnh tranh.
Ứng dụng công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Ứng dụng công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
17/09/2024 11:29 8.775 lượt xem
Blockchain là hệ thống cơ sở dữ liệu cho phép lưu trữ và truyền tải các khối thông tin được liên kết với nhau nhờ mã hóa.
Phòng, chống hành vi gian lận liên quan đến việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán
Phòng, chống hành vi gian lận liên quan đến việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán
13/09/2024 16:12 4.044 lượt xem
Thực tế trong thời gian vừa qua, nhiều vụ lừa đảo chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng có liên quan đến tài khoản “rác”. Các tài khoản này thường bị lợi dụng vào các mục đích vi phạm pháp luật như rửa tiền, trốn thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tài trợ khủng bố...
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

Vàng SJC 5c

83,700

86,220

Vàng nhẫn 9999

83,700

85,600

Vàng nữ trang 9999

83,600

85,200


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,150 25,502 26,092 27,523 31,263 32,592 158.81 168.04
BIDV 25,190 25,502 26,295 27,448 31,648 32,522 160.63 167.55
VietinBank 25,198 25,502 26,307 27,507 31,676 32,686 160.27 168.02
Agribank 25,200 25,502 26,225 27,408 31,448 32,511 160.54 168.04
Eximbank 25,160 25,502 26,287 27,168 31,543 32,559 161.12 166.54
ACB 25,170 25,502 26,309 27,212 31,642 32,598 160.68 167.03
Sacombank 25,180 25,502 26,294 27,267 31,555 32,708 160.81 167.32
Techcombank 25,184 25,502 26,134 27,486 31,274 32,605 157.32 169.76
LPBank 25,190 25,502 26,591 27,484 31,928 32,590 162.28 169.38
DongA Bank 25,230 25,500 26,300 27,150 31,600 32,550 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?